Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tiểu luận cao học Quan điểm giáo dục của khổng tử và sự kế thừa, phát triển nó trong việc xây dựng con người việt nam thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.04 KB, 29 trang )

Quan điểm giáo dục của Khổng Tử và sự kế thừa, phát triển
nó trong việc xây dựng con người Việt Nam thời kì công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ
đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung
Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát
minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều
học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như
toàn thế giới.
Trong số các học thuyết, tư tưởng lớn đó phải kể đến tư tưởng Nho giáo.
Nho giáo là tư tưởng quan trọng nhất của Trung Quốc trong hơn 2000 năm
lịch sử và Người đặt cở sở đầu tiên cho tư tưởng này là Khổng Tử. Đối với
người Trung Quốc khi nói đến sự ảnh hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp
thứ nhất. Mỗi con người ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của học thuyết
Khổng Tử. Số kinh điển mà bậc thầy “cổ nhân thánh hiền” này san định và
viết để lại cho đời sau không chỉ là trí tuệ dẫn đường, đánh thức tiềm năng
của con người mà còn đại diện tiêu biểu cho nền văn hóa Trung Hoa.
Khổng Tử là một nhà giáo dục chân chính, một bậc thầy vĩ đại không
phải của riêng Trung Hoa mà còn của cả thế giới loài người. Hậu thế tôn sùng
ông là bậc thầy của muôn đời bởi chủ trương, đường lối, mục tiêu, phương
pháp giáo dục của ngài chứa đựng nhiều giá trị mà người đời sau phải công
nhận, đề cao và học hỏi.
Trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, giáo dục luôn là vấn đề thời sự, mối quan
tâm của hầu hết các nước. Ở Việt Nam, giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Khi
1


cánh cửa của nền kinh tế tri thức đang mở ra, hướng cả dân tộc vào kỉ nguyên
tin học, kỉ nguyên khoa học – kỹ thuật thì việc học tập, giáo dục càng trở nên


quan trọng với con người, là một trong những động lực phát triển xã hội, góp
phần sâu sắc vào sự lớn mạnh của đất nước. Với mục tiêu cao cả và thước đo
nhân văn đó, giáo dục Việt Nam luôn tìm hướng đi phù hợp với mình, tiếp cận
và lực chọn những tư tưởng tiến bộ đậm nét của Khổng Tử để kế thừa. Những
tư tưởng giáo dục đó là bức tranh phác thảo đa dạng cho hậu thế chắt lọc, tiếp
thu và phát triển. Chính vì vậy trong tiểu luận này em xin chọn đề tài “Quan
điểm giáo dục của Khổng Tử và sự kế thừa, phát triển nó trong việc xây
dựng con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” để
nghiên cứu.

2


Chương 1
VÀI NÉT VỀ TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA
VÀ THÂN THẾ KHỔNG TỬ

1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng phương Đông, phần nổi trội mang tính
chi phối lịch sử tư tưởng Trung Quốc và lịch sử triết học Trung Quốc cũng
không nằm ngoài mạch nguồn chung ấy, đó là đặt trong mối quan hệ gắn bó
với thời đại, phát sinh phát triển từ thời đại.
Triết học Trung Quốc cổ đại nảy sinh trong thời kì xã hội rất đặc biệt:
thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Thời kì này đánh dấu bước chuyển của xã hội
Trung Quốc từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến trung ương tập
quyền. Đây là giai đoạn với những biến động xã hội to lớn: Trung Quốc đang
nằm trong sự chuyển giao hình thái kinh tế xã hội, sự thống trị của chế độ Tông
pháp nhà Chu đang suy tàn. Chính thời đại lịch sử đặc biệt này có ý nghĩa vạch
đường, tạo tiền đề cho sự nảy sinh, phát triển vô cùng rực rỡ của các trường
phái triết học khác nhau, là tấm gương phản chiếu sự biến đổi của đời sống xã

hội.
Thời Xuân Thu, Chu thiên tử trên danh nghĩa thống trị toàn Trung Quốc
nhưng đã mất hết thực quyền, các nước chư hầu tranh giành quyền lực, mệnh
lệnh của “thiên tử” nhà Chu không còn được tuân thủ. Quyền sở hữu tối cao về
đất đai thuộc về tầng lớp địa chủ. Chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
xuất hiện. Giai cấp quý tộc nhà Chu dần dần sa sút, mất địa vị, nghi lễ pháp
luật nhà Chu bị xâm phạm, “vương đạo suy vi”. Trật tự lễ nghĩa cương thường
bị đảo lộn, nhân luân suy đồi. Vương hầu không chịu thuần phục vương chủ,
thôn tính lẫn nhau. Tầng lớp địa chủ mới ngày càng giàu có, lán át quý tộc cũ,
thậm chí tiếm quyền. Khổng Tử gọi đây là thời “loạn”.
Thời Chiến Quốc, chiến tranh nổ ra liên miên. Các nước chư hầu cát cứ,
thôn tính lẫn nhau, tranh giành quyền bá chủ thống trị. Đạo đức trật tự xã hội
suy thoái quan ức hiếp dân, dân vì cực khổ bất chấp tất cả để có miếng cơm
manh áo. Thời kì này con người ham danh lợi, bỏ nhân nghĩa,… “Loạn” đã đẩy
lên tới đỉnh điểm. “Lễ hoại nhạc băng” đã trở thành căn bệnh trầm kha của xã
hội Trung Quốc thời đó. Một nhu cầu xã hội bức thiết được đặt ra là phải có
những học thuyết, tư tưởng phản ánh được xu thế thời cuộc, thỏa mãn được lợi
ích các giai cấp, các tầng lớp khác nhau. Vì vậy. những bậc kẻ sĩ, người quân tử
3


đua nhau đưa ra các học thuyết của mình nhằm tìm nguyên nhân loạn lạc và
đưa ra phương án giải quyết mâu thuẫn trong xã hội. Họ đi du thuyết khắp nơi
với hy vọng được các nhà cầm quyền sử dụng để cứu vãn tình trạng bi đát
đương thời. Từ đó tạo nên thời kì “Bách gia tranh minh, chư tử phong khởi”
(trăm nhà đua tiếng, các bậc thầy nổi lên) gọi tắt là “Bách gia chư tử”. Hàng
loạt các trường phái triết học đã xuất hiện với những cách giải quyết vấn đề xã
hội khác nhau như: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Âm dương – Ngũ
hành gia…Song dòng nho Khổng Mạnh có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài nhất
không những đối với dân tộc Trung Quốc mà còn với cả các khu vực lân cận.

1.2. Nhà giáo dục vĩ đại Khổng Tử
Xã hội đương thời thối nát, nhũng nhiễu, Nhân muốn vươn lên, muốn
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì phải không ngừng nỗ lực phấn đấu,
rèn luyện, tu dưỡng để vượt qua khó khăn. Khổng Tử cho rằng: “Hiếu học cận
hồ tri, lực hành cận hồ nhân, tri sỉ cận hồ dũng. Tri tư tam giả, tắc tri sở dĩ tu
thân”. Nghĩa là: yêu thích học tập sẽ tiếp cận với hiểu biết đạo lí, gắng thực
hành sẽ tiếp cận với lòng yêu thương nhân ái, biết được hổ thẹn sỉ nhục thì sẽ
tiếp cận với dũng cảm. Biết được ba điều này thì sẽ biết thế nào là tu thân. Và
chính bản thân Khổng Tử đã sống và lập thân theo con đường đó, để đạt đến sự
kết tinh tư tưởng và trí tuệ của bậc “thánh hiền” thời cổ đại.
Khổng Tử (551- 479 TCN), người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ,
tỉnh Sơn Đông. Ông tổ ba đời của ông từ nước Tống rời sang nước Lỗ. Bố là
Thúc Lương Ngột, quan võ. Vợ trước sinh được 9 con gái, vợ hai sinh được
một con trai bị tật què chân..Đến khi già 70 tuổi mới lấy bà Nhan Thị và sinh
được Khổng Tử. Khi mới sinh trên đầu có cái gồ nhỏ, nên bố mẹ đặt ông là
Khâu, tên chữ là Trọng Nhi. Khổng Tử rất chịu khó học, học bất cứ ai, bất cứ
lúc nào. Thời trẻ, ông mở trường dạy học, sau đó ra làm quan. Vì không được
trọng dụng, ông đi chu du thiên hạ truyền bá đạo lí. Cuối đời ông trở về nước
Lỗ dạy học, sau định chỉnh lí các thư tịch cổ như Ngũ kinh: Thi,Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch và viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ là bộ sách quan trọng được học trò
Khổng Tử ghi lại những lời nói, việc làm của Người.
Khổng Tử không những được đánh giá là một nhà hiền triết tiêu biểu của
Trung Quốc mà còn được tôn vinh là người thầy của muôn đời “vạn thế sư
biểu”. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử tuy còn mặt hạn chế bởi xã hội đương
thời, nhưng Người đã để lại cho hậu thế những quan điểm, câu nói bất hủ trong
vấn đề giáo dục con người, đối nhân xử thế… rất mẫu mực.

4



Vì Nhân, vì Đạo, nhà hiền triết đã dành cả cuộc đời mình tìm tòi khổ
luyện để cống hiến cho đời sau biết bao tư tưởng giáo dục sáng ngời. Nhan Hồi
– người học trò xuất sắc của Khổng Tử đánh giá “Đạo của thầy càng trông càng
thấy cao, đục vào càng đục càng thấy rắn” (Luận Ngữ). Khổng Tử rất coi trọng
việc giáo dục, coi đó là cái gốc sâu xa lâu bền để đào tạo ra con người: nhân, lễ,
trí, tín, nghĩa (ngũ thường) thực hiện được mối quan hệ “tam cương” là cho đạo
trời, đạo người hòa nhập một cách thanh bình. Việc giáo dục con người của
Khổng Tử lấy đức làm gốc, trí dục làm ngọn. Cái gốc có bền chặt thì cái ngọn
mới tươi tốt. Khổng Tử dạy học trò chủ yếu không phải truyền thụ tri thức mà
bồi dưỡng đức hạnh để con người tự mình bỏ cái xấu, đặc biệt cao nhất là đức
“Nhân”, lòng “Nhân”, biểu hiện là “Khắc kỉ phục lễ vi nhân” (sửa mình theo lễ
tức là Nhân). Đây là một phương cách gây dựng nên những nề nếp tốt trong xã
hội đương thời. Ông chủ trương nền giáo dục là cần thiết cho mọi người, bởi
nếu không được học tập thì không mở mang sự hiểu biết về đạo lí làm người,
cũng như “viên ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được, người
không học thì không biết đạo” (Lễ Kí) và kể cả những người có thiện tâm,
thiện chí làm điều Nhân nhưng do không học cho nên nhiều khi cũng tăm tối
không phân tích, không cân nhắc được lẽ phải trái. Ông cho rằng: “Muốn làm
điều nhân nghĩa nhưng không thích học thì bị sự ngu dốt che lấp đi” (Luận
Ngữ).
Nhìn tổng quát vấn đề, giáo dục của Khổng Tử là bồi dưỡng đức Nhân
cho người quân tử, bồi dưỡng tư cách đạo đức người quân tử, dạy cho người ta
thành người nhân nghĩa trung chính để ra làm quan cứu đời, đưa xã hội từ
“loạn” thành “trị”, phục vụ cho mục đích chính trị. Quan điểm giáo dục con
người của Khổng Tử có nhiều nét tiến bộ, tích cực. Đó là sự phản ánh kinh
nghiệm cũng như thực tiễn dạy học của cả một đời hy sinh cho sự nghiệp giáo
dục con người. Những nhà Nho đã kế thừa hợp lí những tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử để phát triển nền giáo dục như: Chu Văn An, Ngô Thì Nhậm… Đặc
biệt hơn, những quan điểm giáo dục của Khổng Tử đã có ảnh hưởng tới hệ
thống tư tưởng giáo dục của các nhà triết học ngoài Nho giáo, góp phần đưa

giáo dục thâm nhập rộng, sâu vào xã hội, trở thành vấn đề quốc sách của các
nước, nhất là các nước phương Đông. Tuy nhiên, trong tư tưởng của Khổng Tử
vẫn còn một số hạn chế do ảnh hưởng yếu tố thời đại. Song xét một cách toàn
diện Khổng Tử vẫn xứng đáng là bậc thầy giáo dục của muôn đời - “Vạn thế
sư biểu”.

5


Chương 2
TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI

2.1. Vai trò, đối tượng, mục đích giáo dục
2.1.1. Vai trò của giáo dục
Cái chủ đích của Khổng Tử là dạy cho con người ta thành người nhân
nghĩa trung chính – tức quân tử, nên Khổng giáo lấy học và dạy là một điều
trọng yếu, giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng với sự hình thành và phát
triển con người.
Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên tư tưởng “tính người” trong “Luận
ngữ”. Đó là tư tưởng cơ bản, đặt nền tảng ban đầu cho hệ thống các quan điểm
giáo dục sau này kế thừa và phát triển. Khổng Tử đưa ra quan điểm rất xác
đáng: khẳng định vai trò của giáo dục và môi trường sống với con người, bản
tính con người vốn đều gần giống nhau nhưng do sự khác nhau của điều kiện
môi trường giáo dục, tập quán…mới làm cho đạo đức, tri thức và năng lực giữa
mọi người khác xa nhau. Người nói “tính tương cận dã, tập tương viễn dã”
(Dương Hóa). Quan điểm trên khẳng định: con người hiện thực chịu sự tác
động của các yếu tố tự nhiên bẩm sinh và yếu tố xã hội, tức là đã thừa nhận hai
mặt tự nhiên và xã hội của con người. Và quan trọng hơn mặt xã hội ở đây
chính là vai trò to lớn của giáo dục, chính giáo dục là chìa khóa khám phá
phẩm chất đạo đức của con người, đánh thức tiềm năng đang ngủ say của con

người. Và nỗ lực vận dụng công tác giáo dục một cách rộng rãi là phương diện
trọng yếu nhằm nâng cao tố chất con người, thay đổi bộ mặt xã hội. Vì vậy, ông
nói “Từ người đem một gói nem trở lên đến xin học, ta chưa từng không dạy
một ai”. Nói như thế để thấy được giáo dục có vai trò quan trọng then chốt với
con người.
Khổng Tử đặc biệt chú ý hướng con người tới cái Thiện. Hướng Thiện
để xa rời cái xấu, vươn tới “Nhân”, tạo lập các quan hệ đạo đức tốt đẹp. Bởi
thế, vai trò của giáo dục lại càng to lớn hơn bao giờ hết. Giáo dục hướng con
người tới tính Thiện, thay đổi bản chất con người. Khổng Tử nói “Ngã phi sinh
nhi tri chi giả, hiếu cổ, mần dĩ cầu chi giả dã” (Thuật Nhi), nghĩa là: ta không
phải là người thượng đẳng sinh ra đã có tri thức, ta chỉ là người yêu thích văn
hóa cổ đại, thông qua việc cần cù, nhẫn nại học tập mà có được tri thức đó thôi.
Hay: “Nếu không học thì dù có thiện tâm, nhân đức, trung tín đến đâu cũng bị
cái ngu muội, phản loạn che mờ”…(Luận Ngữ - Dương Hóa). Hoặc: “Ngô
6


thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư, vô ích, bất như học dã”
(Luận Ngữ - Vệ Linh Công), nghĩa là: ta suốt ngày không ăn, suốt đêm không
ngủ, chỉ suy nghĩ đều chẳng thu lợi ích gì, không sao bằng đi học.
Tuy nhiên, Khổng Tử vẫn chưa thoát ra khỏi được “cái nhìn thời đại”.
Dưới quan điểm đẳng cấp nghiệt ngã vẫn còn ngự trị, tư tưởng của Khổng Tử
vẫn không tránh khỏi hạn chế, thậm chí có mâu thuẫn nhau: ông cho rằng giáo
dục là chiếc chìa khóa hun đúc nên con người, thay đổi con người nhưng bên
cạnh đó có một số bộ phận không chịu ảnh hưởng của giáo dục: ông căn cứ vào
năng lực nhận thức chia con người thành ba hạng: “Thánh là bậc sinh ra đã biết
– bậc Thượng trí. Quân tử là người học thì biết. Tiểu nhân thì không học được.
Tiểu nhân gồm dân và chúng. Dân là hạng không học được nhưng có thể sai
khiến được. Chúng là hạng học cũng không được, sai khiến cũng không được –
gọi là Hạ Ngu” (Quý Thị 9). Khổng Tử không chú ý đến Thượng Trí và Hạ

Ngu bởi “Duy Thượng Trí, dị Hạ Ngu bất di” (chỉ có bậc Thượng Trí và kẻ Hạ
Ngu là không đổi nết của mình). Ông chỉ chú ý đến việc học của người quân tử,
chú trọng đến giáo dục người quân tử.
Nhưng xét đến cùng, Khổng Tử rất coi trọng vai trò của giáo dục đúng
như học giả Nguyễn Hiển Lê nhận xét: “Hầu hết các nhà Nho dù chủ trương
thiện hay ác, hay vừa thiện vừa ác…đều đưa ra một quy kết chung là rất coi
trọng giáo dục”. Thừa nhận đánh giá cao vai trò của giáo dục, của các yếu tố xã
hội vào sự hình thành, phát triển con người, đó là khuynh hướng đúng của
Khổng Tử, là công lao của Khổng Tử được đa số các nhà nghiên cứu hiện đại
thừa nhận. Đây là quan điểm khởi thủy xây dựng nên học thuyết “đức trị” và
nối tiếp sau là là học thuyết “nhân chính” của Nho Gia – lí luận bình ổn xã hội
chủ yếu dựa vào giáo hóa. Xác định vấn đề cơ bản là vai trò của giáo dục như
vậy nên Khổng Tử phát triển các vấn đề tiếp theo của giáo dục một cách logic,
khoa học, đặt nền tảng cho các tư tưởng nối tiếp sau này.
2.1.2. Đối tượng của giáo dục
Khổng Tử viết: “Hữu giáo vô loại”, nghĩa là mọi người trong xã hội
đều có quyền được học, được giáo dục, không phân biệt giầu, nghèo, sang,
hèn, thiện, ác... Có đặt tư tưởng Khổng Tử vào thời điểm lịch sử bấy giờ chỉ
tầng lớp thống trị có đặc quyền ấy mới thấy hết tính cách mạng của ngài.
“Hữu giáo vô loại” như phát đại bác nã vào cái thành trì giáo dục đẳng cấp.
Ngài còn đặt nền móng cho đường lối giáo dục toàn dân tồn tại và phát triển
đến ngày nay.

7


Quan niệm giáo dục của Khổng Tử là chủ trương khá tiến bộ trong bối
cảnh bấy giờ. Đây là bước chuyển biến tư tưởng lớn. Trong hơn 3000 môn sinh
của Khổng Tử, Luận Ngữ ghi lại khoảng 30 người, trong số đó chỉ có Nam
Cung Quát và Tư Mã Canh thuộc giới quý tộc, số còn lại đều thuộc những

người bình dân. Điều này khác xa thời Tây Chu chỉ có trường công để dạy con
em quý tộc, con quan mà thôi.
Khổng Tử cho rằng, trong thiên hạ có bậc Thượng Trí và kẻ Hạ Ngu
nhưng là số ít “Thượng Trí ấy không có trong thực tế, còn kẻ Hạ Ngu không
chịu học thì không thể thay đổi và loại người như vậy cũng chẳng nhiều”, phần
lớn là hạng trung nhân có thể dạy bảo được. Vậy nên, “hữu giáo vô loại”, dạy
không phân biệt chủng loại, chú ý đến giáo hóa của Khổng Tử là rất tiến bộ.
Mục đích giáo hóa là dạy con người đến bậc Nhân. Người không có Nhân thì
tất phải Trung. Nhân với Trung là hai mục đích cơ bản. Muốn đạt mục đích ấy,
phải gây nên những tính cảm rất hậu và giữ hành vi có chừng mực. Đặc biệt,
Khổng Tử không chỉ đề xuất tư tưởng giáo dục cho mọi người bằng lời nói mà
còn bằng hành động. Suốt cuộc đời dạy học, ông không màng danh lợi, bổng
lộc mà chỉ chuyên tâm đào tạo cho được lớp người hữu đạo. Ông đã thực sự hết
lòng vì “Đạo”.
Khổng Tử cũng đề cập đến giáo hóa dân chúng, thu phục dân chúng
bằng cách giáo dục cho họ những điều phải Đạo, hợp Lễ. Như vậy, đối tượng
giáo dục của Khổng Tử là tất cả mọi loại người. Song, xét đến cùng đối tượng
giáo dục của Khổng Tử gồm hai loại: loại thứ nhất là tầng lớp quý tộc thống trị.
Họ là những người cai trị dẫn dắt dân chúng nên phải được đào tạo cẩn thận và
đầy đủ, hợp với “Nhân, Lễ, Nhạc” của giới mình. Và loại thứ hai là dân chúng.
Những người này được giáo dục để vâng lời tầng lớp trên, nghe theo sự cai trị
của tầng lớp trên. Giáo dục là làm cho dân biết nghĩa vụ và quyền lợi, trọng lễ
nghĩa. Làm vua, làm quan có giáo dục thì biết rõ trức trách của mình, không
làm điều tàn bạo. ZhouNanthao đã nhận định rằng: “trong lí thuyết về giáo dục
của đạo Khổng, người cai trị học cách chăm sóc người dân, còn người dân thì
học cách vâng lời người cai trị”.
Có một số quan điểm cho rằng: tư tưởng giáo dục “hữu giáo vô loại” của
Khổng Tử thể hiện quan điểm thân dân, yêu dân nhưng không phải. Khổng Tử
vẫn đứng trên quan điểm giai cấp, đứng trên ý thức hệ của giai cấp phong kiến,
quý tộc, và giáo dục cũng là bộ phận phục vụ cho tư tưởng giai cấp ấy, phục vụ

cho mục đích chính trị: giữ yên trật tự ngàn đời của xã hội phong kiến: kẻ
thống trị - người bị trị. Tuy vậy, ta cũng không phủ nhận công lao của Khổng
8


Tử với sự nghiệp giáo dục dân chúng. Nhờ đề xướng của Khổng Tử mà giáo
dục được mở mang, trình độ dân chúng được nâng lên rõ rệt,văn hiến nhờ vậy
mà càng rực rỡ.
2.1.3. Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục bao trùm của Khổng Tử là tạo ra những con người
thích nghi với địa vị của họ. Xã hội tiến bộ theo quan điểm của Nho Giáo là xã
hội có thể thống, kỉ cương, lễ nghĩa, luân thường đạo lí. Để giữ cái nền dựng
nước cho chắc chắn phải có tầng lớp thống trị cai trị tầng lớp dưới (người quân
tử) và tầng lớp địa vị dưới chịu sự cai trị của tầng lớp trên (kẻ tiểu nhân). Cái
chủ đích cuối cùng của Khổng giáo là dạy con người ta thành người nhân nghĩa
trung chính, có nhân cách - tức người quân tử. “Quân tử học đạo tắc ái nhân,
tiểu nhân học đạo tắc sĩ tử giã” (Luận Ngữ), nghĩa là: người quân tử ở ngôi trên
nhờ học đạo mà thương mến dân chúng, kẻ tiểu nhân ở bậc dưới nhờ học đạo
mà biết tuân lệnh nhà cầm quyền.
Mục đích của học theo Khổng Tử không chỉ để biết đạo “người quân tử
học để hiểu rõ cái đạo” (Luận Ngữ - Tứ Trương) mà xét đến tận cùng, học
chính là để làm quan, tham gia chính sự quốc gia, “trong lúc xã hội rối ren,
không ra làm quan, không phải là người nhân” (Luận Ngữ - Dương Hoá). Giáo
dục của Khổng Tử cũng nhằm mục đích phục vụ đường lối chính trị: đào tạo
lớp người kế tục xứng đáng, duy trì củng cố trật tự xã hội đã có từ thời Chu.
Như vậy, học trước hết để làm người quân tử với chí khí của bậc đại trượng
phu – hình mẫu con người lí tưởng của xã hội phong kiến. Người quân tử trước
hết phải tu dưỡng đạo đức cá nhân mới làm được việc lớn. “Quân tử thực vô
cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên,
khả vị hiếu học dã dị” (Luận Ngữ - Học Nhi), nghĩa là: người quân tử chớ có

truy cầu cơm ăn được no đủ, chớ có đòi hỏi nơi ở được thanh thản, làm việc
cần mẫn, nói năng thận trọng, tới chỗ người có đạo để cầu xin uốn nắn sửa
chữa đối với phẩm chất và học vấn của mình, như thế có thể gọi là hiếu học.
2.2. Mô hình con người lí tưởng trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Có thể nói, trong văn hoá Trung Quốc, nhân cách người quân tử của Nho
gia là sự thể hiện quan trọng tinh thần nhân văn Trung Quốc, mà mô hình bậc
kẻ sĩ, người quân tử của Khổng Tử lại là cơ sở và hạt nhân của nhân cách Nho
gia. Bậc kẻ sĩ, người quân tử là mẫu người có tính lý tưởng, có tính hiện thực.
Trên lý thuyết Nho giáo xây dựng con người huyền thoại “nội thánh ngoại
vương” làm gương cho mọi người noi theo. Và nó được chuyển hoá vào thực tế

9


là hình tượng người quân tử, bậc kẻ sĩ. Kẻ sĩ là những người có học, được giáo
dục và trưởng thành lên từ tầng lớp thứ dân, nhờ hết lòng học đạo, học giỏi,
thông qua thi cử mà ra làm quan. Tiêu chí cơ bản để phân biệt kẻ sĩ với dân
thường đó là sự chuyên tâm học đạo, tu dưỡng tinh thần, không chú ý mưu cầu
lợi ích vật chất. “Sĩ bất hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ” (Luận Ngữ - Hiến Vấn),
nghĩa là: kẻ sĩ nếu luyến tiếc cuộc sống thảnh thơi thì không đáng làm kẻ sĩ
nữa. Thế nhưng không phải kẻ sĩ nào cũng làm trọn bổn phận “tu thân”, không
ít những kẻ giả danh “kẻ sĩ” hay “giả danh đạo lí” làm lợi “vinh thân, phì gia”
đã làm xơ cứng, biến chất cái hay, cái nhân bản trong ý nghĩa giáo dục kẻ sĩ.
Đặc biệt, giáo dục người quân tử là vấn đề cốt yếu. Có thể hiểu “quân
tử” là người có địa vị trong xã hội cổ xưa. Đến Khổng Tử, ngoài địa vị còn
phải có nhân cách, có vai trò to lớn trong xã hội, được mọi người thừa nhận và
kính trọng. Người quân tử hướng tới giá trị tinh thần mà quên đi các nhu cầu
vật chất. “Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kì trung hĩ. Học giã,
lộc tài kì trung hĩ. Quân tử ưu đạo bất ưu bần” ( Luận Ngữ - Vệ Linh Công),
nghĩa là: người quân tử chỉ suy tới học thuật mà không chú ý đến ăn mặc. Đi

cày ruộng khó tránh khỏi đói rét. Học tập sẽ có hy vọng được bổng lộc. Điều lo
lắng của người quân tử là không học được chân lí, chứ không sợ bị đói nghèo.
Tuy nhiên, Khổng Tử đã hạn chế khi chưa nhìn ra vai trò quyết định của hoạt
động sản xuất vật chất. Muốn đạt đến nhân cách người quân tử thì từ bên trong
phải “học rộng theo văn” – bác học vu văn, mượn trí tuệ của cổ nhân để bổ
sung bên trong của mình, làm thanh tĩnh nội tâm của mình. Từ bên ngoài thì
phải “lấy lễ mà chế ước nó” - ước chi di lễ, làm một người hiểu phép tắc, giữ
đúng trật tự. Làm như vậy là làm theo cái nhân trong lòng.
Mục đích cao nhất của giáo dục Khổng Tử là tạo nên những bậc kẻ sĩ,
người quân tử ham hiểu biết, kinh bang tế thế, có nhân cách, có ý thức trách
nhiệm với cộng đồng, nhằm bổ sung cho giai cấp quý tộc thực thi “chính sách”
an nước lợi dân. Họ là những lực lượng hạt nhân trong cuộc sống đời thường
cùng các thế lực cầm quyền duy trì trật tự phong kiến ôn hoà. Đây chính là mô
hình trác tuyệt về con người lí tưởng: người quân tử, bậc kẻ sĩ. Song, chính họ
về phương diện nào đó lại là lực lượng bảo thủ, hạn chế, kéo dài sự trì trệ, trầm
kha của chế độ phong kiến phương Đông.
2.3. Nội dung giáo dục con người của Khổng Tử
Sử cũ chép lại, xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc loạn lạc
đẫm máu, các thế lực giành giật quyền lực, người dân sống trong cảnh lầm than
khổ cực. Cảnh “con giết cha, tôi giết vua” diễn ra thường xuyên. Mấy trăm
10


nước chư hầu thời Chu lần lượt bị tiêu diệt, còn lại vài chục nước vào thời
Xuân Thu và còn bảy nước vào thời Chiến Quốc. Bối cảnh xã hội bấy giờ xuất
hiện nhiều nhà tư tưởng, đưa ra nhiều học thuyết tìm cách lý giải và đề xuất
biện pháp ổn định trật tự xã hội. Nho giáo giáo dục “đạo làm người” cho tất cả
mọi người, để xã hội từ “loạn” thành “trị”. Khổng Tử từng nói “thiên hạ hữu
đạo Khâu bất dữ dịch giã”. Dạy kiến thức lấy Tứ thư, Ngũ kinh làm giáo trình
căn bản. Tứ thư là bốn bộ sách của Khổng Tử gồm: “Dục học”, “Trung dung”,

“Luận ngữ” và “Mạnh tứ”. Ngũ kinh là năm bộ sách của Khổng Tử được coi
như kinh điển gồm: “Kinh dịch” (giải thích sự biến hoá của trời đất), “Kinh
thi” (chép ca, ca dao lưu truyền trong dân gian từ thời cổ đến đời Chu), “Kinh
thơ” (chép lịch sử từ đời Nghiêu tới Đông Chu), “Kinh lễ” (chép các nghi lễ,
phép tắc ) và “Kinh nhạc” (dạy nhạc theo đạo Thánh hiền). Dạy đạo đức lấy
Tam cương và Ngũ thường làm căn bản. Tam cương gồm: Vua là rường cột
của tôi. Cha là rường cột của con. Chồng là rường cột của vợ. Ngũ thường
gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
2.3.1. Khổng Tử chú trọng giáo dục “đạo” và “đức”
Quan hệ cơ bản nhất của “đạo làm người” là quan hệ giữa con người với
con người. Bởi quan niệm Nho giáo cho rằng: vũ trụ có trời làm chủ, đất nước
có vua làm chủ, gia đình có cha làm chủ…mọi quan hệ có trật tự nề nếp rõ
ràng. Đạo người cũng chính là thực hiện các quan hệ ấy. Do mong muốn xây
dựng xã hội và gia đình tốt đẹp, Khổng Tử rất chú trọng vào các quan hệ ấy.
“Thiên hạ chi đạt đạo ngũ, sở dĩ hành chi giả tam, viết quân thần dã, phụ tử dã,
phu phụ dã, côn đệ giãm bằng hữu chi giao dã” (Trung Dung), nghĩa là: cái đạt
đạo của thiên hạ có năm điều mà mọi người thường làm được ba điều. Năm
điều đạt đạo là: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em và tình bầu bạn tương giao.
Nếu “ngũ luân” là nhưng quan hệ cơ bản của đạo thì tư tưởng “chính
danh” là điều kiện, phương thức thực hành “đạo”. Thực hiện các nghĩa vụ,
trách nhiệm bổn phận tương ứng với nó thì danh mới chính. “Chính danh” là
phương tiện là hệ quả của xã hội có trật tự kỉ cương “hữu đạo”. Giáo dục con
người hữu đạo chính là dạy con người biết và sống một cách “chính danh”.
Trong quan hệ gia đình, cơ bản nhất là phải có đạo Hiếu. Có thể nói đạo
Hiếu là gốc cơ bản của con người, bởi ai sinh ra mà không có cha mẹ. Tình
cảm với cha mẹ có tính tự nhiên huyết thống, mạnh mẽ như những nhu cầu bản
năng. Người biết hiếu thảo với cha mẹ thì sẽ không trái ngược với bậc bề trên.
Từ đó, cho rằng dạy con người “biết giữ gìn nết hiếu là biết nắm cái gốc đó”.
Khổng Tử nói nhiều về đạo Hiếu “Lập ái tự thân thỉ, giáo dân mục giã. Lập
11



kính tự trưởng thỉ, giáo dân thuận giã. Giáo dĩ từ mục, nhi dân quý hữu thân
giáo dĩ kính trưởng, nhi dân quý dụng mệnh. Hiếu dĩ sự thân thuận dĩ thính
mệnh, thố chủ thiên hạ vô sở bất hành” (Lế ký: Tế nghĩa, XXIV). Nghĩa là:
dựng lòng ái khởi đầu từ cha mẹ, là dạy dân hoà mục vậy. Dựng lòng kính khởi
đầu từ người huynh trưởng, là dạy dân biết quý cha mẹ. Lấy kính người huynh
trưởng mà dạy dân, thì dân biết quý sự theo mệnh người trên. Hiếu là để thờ
cha mẹ, thuận là để vâng mệnh người trên, đem những điều ấy mà thi thố ra
thiên hạ thì không có điều gì là không làm được.
Người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi phải kính chứ không
kính không phải là Hiếu. Khi cha mẹ còn không bao giờ làm điều gì cho cha
mẹ lo buồn. Bởi vậy đi đâu xa phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi cho cha mẹ khỏi
lo và nhỡ có việc gì còn tìm gọi được. “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu
phương” (Luận Ngữ - Lý Nhân).
Cái lễ cuối cùng của sự Hiếu là lấy Hiếu gây thành đạo Nhân, vì người
có hiếu tức là có nhân. Nhân với hiếu đi liền với nhau, cho nên người có địa vị
trọng yếu trong xã hội phải chú ý về đạo hiếu lắm. “Quân tử dốc ư thân, tắc dân
hưng ư nhân; cố cựu bất di, tắc dân bất thân” (Luận Ngữ - Thái Bá), nghĩa là:
người quân tử hậu với cha mẹ, thì dân hứng khởi làm điều nhân, không bỏ sót
những người cố cực, thì dân không có bạc tục.
Trong gia đình quan trọng nhất là đạo “hiếu”, ngoài xã hội cơ bản nhất là
đạo “trung”. Kẻ hiếu thảo trong gia đình thì ít ai lạc trái đạo “trung”, “hiếu” là
cơ sở của đạo “trung”. Dạy đạo làm người cơ bản chú trọng đạo làm con phải
“hiếu”, đạo làm tôi phải “trung”, nên Đại học viết “hiếu là để thờ vua”. Khổng
Tử luôn luôn đề cao đạo “trung” của bề tôi với vua. Tuy nhiên, ông cũng nhấn
mạnh “vua nhân tôi trung” hay “quân xử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”.
Làm “tôi” nhất thiết phải trung, nhưng chỉ trung thành với các bậc “vua xứng là
vua” mà thôi. Cả đời Khổng Tử bôn ba khắp các nước chư hầu, gặp nhiều khốn
khó, chỉ mong tìm được vị “vua đáng làm vua” nhưng đều thất bại. Ông ước

mong ngày nào đó có “vua sáng” để thiên hạ thái bình. Và làm tôi thì phải đem
tài, đức của mình ra giúp vua hoàn thành nghiệp lớn, không kể đến bổng lộc,
danh dự.
Ngoài nội dung giáo dục “đạo”, Khổng Tử còn chú trọng giáo dục “đức”
cho con người. “Đức” là cái sở đắc do hành đạo mà ra. Bởi vậy, “đạo gắn liền
với “đức”. Đạo làm người có nội dung cơ bản dựa vào quan hệ “ngũ luân”, đức
là sự khái quát cái giá trị cơ bản của con người gọi là “ngũ thường”. Dạy con
người “đạo” và “đức” cũng chính là dạy “luân thường”. Giáo sư Trần Văn Giàu
12


có nhận xét rất hợp lí về nội hàm của đức: “Khổng dạy điều đạt đức là nhân, trí,
dũng. Ưa học là gần trí, cố làm là gần nhân, biết xấu hổ là gần dũng”. Đức
“nhân” là đức quan trọng nhất của con người. “Lập nhân chi đạo, viết nhân dữ
nghĩa” (Kinh Dịch). Đức nhân là đức cơ bản, vì nó là nội dung lớn, bao chứa
trong nó các đức khác. “Nhân” vừa là tu thân, vừa là ái nhân, vừa là sở kỷ, vừa
là tiếp vật. Nó là trung tâm của đạo đức. Theo Khổng Tử từ đó mà phát ra các
đức khác, và các đức khác tụ cả ở nó. Cho nên, Phùng Hữu Lan gọi nó là “toàn
đức”, Lâm Ngữ Đường gọi đó là sự minh triết lí tưởng.
Khổng Tử vốn nổi tiếng là người giỏi lễ. Ông không bao giờ sao nhãng
dạy cho con người đức lễ. Bởi lễ là một phạm trù cơ bản, nó là hình thức thể
hiện trật tự kỉ cương, nề nếp ở con người và xã hội. Nó phổ biến ở mọi con
người, trong gia đình và xã hội. Chữ lễ trước tiên dùng để nói cách thờ thần
cho được phúc, nó chỉ nghĩa thuộc phần cúng tế mà thôi. Sau dùng rộng ra gồm
cả những quy củ mà phong tục tập quán xã hội thừa nhận…Sau cùng chữ lễ lại
bao gồm cả quyền bính của nhà vua và cách tiết chế hành vi của dân chúng.
Khổng Tử nói rất nhiều về những quy định cụ thể của lễ và cả những
công cụ của lễ. Giáo dục lễ là dạy cho con người những quy định về cách ứng
xử, đi đứng, giao tiếp, ăn mặc…đúng với danh vị. Dạy cho con người ta tiết
chế hành động phù hợp với chuẩn mực xã hội. Về tác dụng của lễ, Khổng Tử

nói “Lễ quý ở chỗ dứt bỏ mọi sự xấu khi nó chưa mọc mầm, làm nảy nở lòng
cung kính khi nó còn rất nhỏ bé. Làm cho dân ngày càng gần với điều lành, xa
với điều ác mà không biết” (Đại đái lễ kí - Lễ Tế).
Bên cạnh đó, Khổng Tử chú trọng giáo dục nhạc “nhạc giả âm chi sở do
sinh giã”, nghĩa là: nhạc do âm mà sinh ra. Âm khởi phát ra tự lòng người.
Lòng người cảm ở ngoại vật mà động, cho nên mới hình thành ra cái thanh.
Những thanh tương ứng với nhau rồi biến ra thành thương, tức là thành cung
bậc cao thấp, gọi là âm. Âm chia ra làm năm bậc: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ.
Đem các âm so vào nhạc khí đánh ra tiếng. Vậy, nhạc chính là nói chung cả
chuông trống, đàn hát, múa…
Nhạc với lòng người cảm hoá lẫn nhau. Lòng người cảm xúc trước cảnh
mà thành ra nhạc. Tiếng nhạc cảm lòng người khiến lòng người theo. Ngoại
cảnh đau đớn lòng người thương xót, âm thanh tiêu sái. Ngoại cảnh tốt lành thì
tất trong lòng tốt lành, vui vẻ, âm thanh thong thả, êm đềm.
Thánh nhân biết nhạc có thế lực mạnh về đường đạo đức nên mới chế
nhạc để dạy người, “nhạc giã giả, thánh nhân chi sở lạc giã, nhi khả dĩ thiện
dân tâm, kỳ cảm nhân thân, kỳ di phong dịch tục, cố tiên vương trứ kỳ giao
13


yên” (Nhạc ký). Nghĩa là: nhạc là cái vui vẻ của thánh nhân, mà khiến cho lòng
dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và di phong dịch tục được,
cho nên tiên vương muốn đặt ra dạy nhạc”.
Nhạc cũng như lễ, có ảnh hưởng về chính trị, “thanh âm chi đạo, dữ
chính thông hỹ” (Nhạc ký). Nghĩa là: đạo thanh âm thông với chính trị vậy. Hễ
chính trị hay thì nghe tiếng nhạc hay, chính trị dở thì nghe nhạc dở. Âm nhạc
đời trị thì nghe yên tĩnh, vui vẻ, âm nhạc đời loạn thì nghe oán giận tức tối, âm
nhạc lúc mất nước thì nghe bi ai, sầu thảm…Vì thế “thẩm nhạc dĩ tri chính”
(Nhạc ký), nghĩa là: xét cho kỹ âm nhạc để biết chính trị hay dở.
Lễ nhạc quan hệ đến luân lí, phong tục và chính trị mật thiết, cho nên

Khổng Tử tìm cái căn nguyên trong đạo của trời đất, cho lễ là cái trật tự của
trời đất, nhạc là cái điều hoà của trời đất.
Như vậy, nội dung bao trùm giáo dục Khổng Tử là dạy cho con người
nhân cách làm người là “đạo” và “đức”. Ông coi đó là cái thanh cao, cái
“thiện” mà con người cần hướng tới.
2.3.2. Khổng Tử chú trọng giáo dục các tri thức về văn hoá, chính trị
Khổng Tử dạy: “đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái
chúng nhi nhân thân. Hành hữu chỉ lực tắc dĩ học văn” (Luận Ngữ ). Nghĩa là:
kẻ đệ tử khi vào thì thảo với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi,
làm việc gì cũng phải cẩn thận, thương tất cả mọi người, hay thân cận với
người nhân đức. Làm được bao nhiêu việc đó hãy học qua văn chương lục
nghệ.
Giáo dục căn bản nhất của Khổng Tử là chú trọng giáo dục nhân cách,
đạo đức thông thường. Ở bước cao hơn, Khổng giáo dạy cho con người những
tri thức về văn hoá, chính trị nhằm đào tạo những mẫu người phục vụ thể chế
chính trị phong kiến.
Có thể hiểu văn là tri thức nói chung. Trước hết nó là văn chương, nghệ
thuật, làm đẹp nhân cách phong phú tâm hồn con người. Hơn thế, văn còn là
các tri thức khác về điển tích lịch sử, là văn hiến nói chung giúp con người trở
nên hoàn thiện, thành người “kinh bang tế thế” tham gia vào chính sự, bình ổn
xã hội. “Văn” là tri thức dành riêng cho những người có tư chất và đã đạt
những kết quả nhất định trên con đường tu dưỡng. Văn cũng được hiểu là cái
đẹp của nhân cách con người. Học văn là học tu dưỡng theo các nhân cách đẹp,
rèn luyện nhân cách theo cái thiện. Học văn cũng là để hoàn thiện đạo người,
suy nghĩ và hành động hợp với đạo trời.

14


Một tri thức khác trong nội dung giáo dục của Nho giáo chính là tri thức

chính trị hay còn được gọi là “đạo trị nước”. Đạo trị nước cốt theo đường lối
“đức trị”, quy định người làm chính trị trước hết phải có đức sáng “vi củng chi”
(Luận Ngữ), nghĩa là: ai thi hành việc chính trị, cầm quyền cai trị nước nhà mà
biết đem đức mình bổ hoá ra, mọi người đều phục tùng theo. Giống như ngôi
sao Bắc Đẩu sáng một chỗ mà mọi vì sao chầu theo. Hơn nữa, người làm chính
trị phải gương mẫu, tu thân, đạt đạo, đạt đức…Nhân cách, uy tín, sự gương
mẫu của kẻ cầm quyền là nhân tố quyết định việc trị nước.
Như vậy, đối với kẻ cầm quyền hay các nhà tri thức phong kiến chỉ chú
trọng dạy thêm nhiều tri thức văn chương, chính trị, trang bị tầm hiểu biết sâu
rộng, tầm nhìn xa, nhằm một mặt tạo nên những người hiền tài “kinh bang tế
thế” đảm đương công việc trị nước an dân, mặt khác tạo ra trong xã hội những
con người am hiểu đạo lí, sử sách nhằm phong hoá nề nếp phong tục trong dân
chúng. Và chính các giai tầng này sẽ thiết lập trật tự, ổn định trong xã hội. Đây
cũng chính là nét nổi bật trong nội dung giáo dục Khổng Tử.
2.4. Phương pháp giáo dục con người của Khổng Tử
Khổng Tử nói “quân tử học dĩ tri kì đạo” (Luận Ngữ - Tứ Trương), nghĩa
là: người quân tử học để hiểu rõ cái đạo. Người ta học có hiểu tới đạo thì mới
biết thao thư, để có cái phẩm giá đạo đức hơn người thường. Khẳng định được
ý nghĩa vai trò của việc học, Khổng Tử rất chú trọng đến cách thức phương
pháp học cũng như cách thức dạy nhằm hướng tới một mục đích là sự hiểu biết.
Cách thức giáo dục được Khổng Tử tiếp cận từ hai phía: người giáo dục (thầy)
và đối tượng giáo dục (trò) và sự tương tác giữa thầy và trò nhằm đạt hiệu quả
cao nhất. Đây là điểm rực rỡ trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và là bộ
phận cung cấp được nhiều bài học đáng tham khảo nhất.
Khổng Tử đặc biệt coi trọng phương pháp nêu gương. Thầy là gương
sáng cho trò. Khổng Tử cho rằng: giáo dục có điều dạy mà không nói, học trò
nhìn vào thái độ, cử chỉ, hành vi của thầy mà rút ra bài học. Mỗi sự mẫu mực
đều có thể trở thành bài học sinh động, bản thân sự gương mẫu, sự hoàn thiện
nhân cách, sự nghiêm túc của thầy là bài học lớn cho trò. Khổng Tử đặc biệt
chú trọng đến nhân cách, sự mực thước của người thầy. Đây cũng chính là cơ

sở cho tư tưởng “tôn sư trọng đạo” sau này.Ngài viết: “Thụ giáo dục giả tất
tiên thụ giáo dục”. (Nói theo cách của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là “thày
phải ra thày”) để người khác noi theo. Sở dĩ Khổng Tử được người đời ca
tụng là “thày của muôn đời” bởi chính ngài là tấm gương sáng đức tài trọn
vẹn. Cái tình của thày với trò như cha với con. Ngài không phân biệt giai cấp
15


mà chỉ chuộng đức tài. Chính vì thế học trò coi thày như cha ruột.
Thứ hai, Tự học là chính. Ba tuổi mồ côi cha. Gia cảnh sa sút. Thân
phận tưởng xuống đáy cùng xã hội. Thế mà 43 tuổi Khổng Tử đã lẫy lừng
danh tiếng bởi đức độ cao siêu, trí tuệ uyên bác nhờ học vấn và tu thân. Ngài
“lấy tự học và suy ngẫm là chính”. Đi nhiều, đọc nhiều, nghĩ nhiều, coi việc
học ở trường đời làm trọng. Ngài viết: “Học nhi bất tư tắc vãng, tư nhi bất học
tắc đãi”. Ngài viết: “Học mà không hỏi thì hiểu không sâu. Hỏi mà không học
thì thiếu sự suy nghĩ”. Ngài cũng dạy: “Bất sỉ hạ vấn” (không ngại hỏi bậc
dưới). “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên”. “Ai mà ta có thể học đều là
thày ta”. Tự học nhằm phát huy hết trí tuệ và sự sáng tạo cá nhân. Tự học sẽ
hiểu sâu, nhớ lâu. Ngày nay nếu chúng ta không khuyến khích tự học, chỉ lo
dạy thêm theo kiểu nhồi nhét áp đặt là trái với tư tưởng Khổng Tử, là triệt tiêu
sáng tạo.
Thứ 3, Phương pháp phân loại đối tượng trong quá trình giáo dục.
Khổng Tử nói “Từ người bậc trung trở lên mới dạy đạo lí chỗ cao. Từ người
bậc trung trở xuống chớ nên giảng dạy đạo lí chỗ cao siêu”. Kinh nghiệm dạy
học nhiều năm, lòng tận tuỵ vì sự nghiệp “hành đạo” của ông đã đúc rút được
kinh nghiệm: muốn đạt hiệu quả trong giáo dục phải cá biệt hoá đối tượng.
Phương pháp “nhân tài thi giáo” (dạy tuỳ theo đối tượng) thích hợp với đối
tượng đến tận ngày nay vẫn được đề cao trong lĩnh vực giáo dục.
“Sự học không bao giờ đủ”, “Việc dạy không bao giờ mệt mỏi”.
Một phương pháp nữa đặc trưng của Khổng Tử mà chúng ta phải kể đến

đó là phương pháp khai thác triệt để các bài học lịch sử truyền thống thông
qua các văn tịch cổ, tích cổ. Nhân sinh quan của Khổng Tử luôn hướng về thời
Chu Công, thời Đường Ngu, bởi ông coi thời ấy là thiên hạ “hữu đạo”. Khổng
Tử thường nhấn mạnh cách học theo kinh nghiệm của cổ nhân xưa, nhưng
không thụ động hoàn toàn: “ôn cố nhi tri tân, khả dỹ vi sư hỹ” (Luận Ngữ ).
Nghĩa là: người nào biết ôn lại những điều đã học nơi đó mà biết thêm những
điều mới người đó có thể làm thầy thiên hạ.
Đặc biệt hơn nữa, Khổng Tử sử dụng phương pháp chú trọng khơi dậy
tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học, “kẻ nào chẳng phấn phát lên để
thông hiểu thì ta chẳng giúp cho họ hiểu thông được. Kẻ nào biết một góc
nhưng chẳng căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia thì ta chẳng dạy cho kẻ đó
nữa”.
Theo Khổng Tử, con người ít có kẻ sinh ra tự biết mà phải chuyên chú
vào việc học, xác định học là con đường để lập thân “Ngũ thập hữu ngũ nhi chí
16


ư học, tam thập nhị lập” (Luận Ngữ - Vi Chính), nghĩa là: mười lăm tuổi ta dốc
trí vào học vấn, ba mươi tuổi đã học biết được lễ nghi, có thể tự lập trong xã
hội. Lứa tuổi để học vấn là từ ba mươi trở xuống. Đây chính là thời điểm học
hăng say, tích luỹ kiến thức để cống hiến cho đời.
Người học phải học tập không biết chán, phải hứng thú “tri chi giả bất
như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như nhạo chi giả” (Luận Ngữ - Ưng Giả).
Nghĩa là: biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui
say mà học. Và muốn cho việc học hứng thú, giúp con người tiến bộ thì phải
luyện tập luôn. “Học nhi thời tập chi, bất diệc tuyệt hồ ? Hữu bằng tự viễn
phương lai, bất diệc lạc hồ ? Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ ?”
(Luận Ngữ - Học Nhi). Nghĩa là: học mà cứ buổi buổi tập luôn thì trong bụng
không thoả thích hay sao ? Có bạn ở phương xa nghe tiếng đến học làm điều
lành với mình, thì không vui hay sao ? Mình học giỏi mà người ta không biết

cũng không lấy làm tức giận, thế không phải là người quân tử hay sao ?
Đã coi trọng việc học như thế nên người học phải biết phương pháp học.
“Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” (Luận Ngữ - Vi Chính), nghĩa
là: học mà không suy nghĩ thì mờ ám không hiểu, suy nghĩ viển vông mà
không có học thì nguy khốn. Khổng Tử đưa ra kết hợp học về suy nghĩ. Học và
suy nghĩ phải kết hợp với nhau. Suy nghĩ phải lấy học làm cơ sở, mà học phải
qua suy nghĩ mới biến nó thành thứ của mình.
Khổng Tử quan niệm “học vô thường sư” - học ở nhiều thầy để lĩnh hội
nhiều tri thức phong phú. Đây hàm chứa một sự tự giác cao độ, một chí hướng
sâu rộng và một ý thức sứ mệnh của văn hoá Trung Quốc.
Khổng Tử còn chủ trương học ở tất cả mọi người “ba người đi cùng
nhau tất có một người là thầy ta, chọn người hay mà làm gương, người gở mà
sửa mình” (Luận Ngữ - Thuật Nhi Biên). Và thậm chí phải học cả kẻ dưới mình
“học bất xỉ hạ vấn” - không thẹn học người dưới.
Như vậy, giáo dục chính là con đường giúp con người trở về “hữu đạo”.
Bởi thế, một lần nữa Khổng Tử nhấn mạnh vị thế quan trọng của giáo dục “học
để sau đó biết là không bao giờ đủ, dạy để sau đó biết còn nhiều khó khăn. Biết
không chỉ để sau tự mình cố gắng, biết khó khăn để sau đó tự mình kiên cường
lên. Do đó: dạy và học là việc suốt đời” (Lễ Kí, Học kí biên).

17


Chương 3
KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM MỚI THỜI
KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC

3.1. Tính tất yếu của sự kế thừa truyền thống giáo dục Khổng Tử
với việc xây dựng con người Việt Nam thời kì công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Suy rộng ra, người muốn nhấn
mạnh: xã hội như thế nào thì phải xây dựng con người như thế ấy, hay mỗi giai
đoạn lịch sử phải có những mẫu người riêng biệt, mang những đặc trưng cần có
của xã hội ấy. Ở đây, Người thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về con người, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử mà còn là chủ
thế sáng tạo lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có mẫu người trung tâm.
Con người đó mang dấu ấn thời đại, phản ánh lập trường giai cấp cơ bản mà nó
đại diện. Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc. Đạo đức của ông, học vấn của
ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế
phải cảm phục... Nhưng cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc
Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng.
Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải
là người cách mạng mà còn vì ông tiến hành cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có
lợi cho họ... Khổng giáo dựa trên ba sự phục tùng: quân - thần; phụ - tử; phu phụ và năm đức là “ nhân, nghĩa, lễ, trí , tín. Nếu Khổng Tử sống ở thời đại
chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở
thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể
chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện
mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách
mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”. Về sau này, khi đề cập tới Khổng
Tử, Bác đều nhấn mạnh đến những giá trị đạo đức nhiều hơn là chính trị. Bác
nhấn mạnh đến đặc trưng: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca
dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. (Báo Nhân
Dânngày14/6/1951). Còn trong sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động
18


của Hồ Chủ tịch”, tác giả viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự

tu dưỡng đạo đức cá nhân...”.
Trong giai đoạn hiện nay, để kiên trì mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”, đưa đất nước ngày một giàu mạnh, văn minh, Đảng ta đã chủ
trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bởi thế vấn đề con người - vấn đề nội lực có tầm quan trọng chiến lược, trở thành
nhân tố vô cùng cấp bách hiện nay. Và vì thế, giáo dục con người trở thành vấn đề
lớn của xã hội, đòi hỏi phải đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta xác
định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”. Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phác họa mô hình con người Việt
Nam cần hướng tới trong nghị quyết lần thứ tư, Ban chấp hành trung ương khóa
VII: “Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, về căn bản con người Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa là con người phát triển toàn
diện. Họ là người vừa có “đức”, vừa có “tài”, vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Bác
Hồ từng nói. Bởi vậy, vai trò của giáo dục là phải đào tạo được những con người
vừa có phẩm chất vừa có năng lực, trong đó yếu tố phẩm chất cần đặc biệt chú ý
và xem đó là điều kiện đủ để có một con người hoàn thiện.
Luận điểm trên kế thừa tư tưởng của Nho giáo. Nho giáo có vị thế hết sức
to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc, không phải ngẫu nhiên mà Nho giáo ra
đời ở nơi nổi tiếng là văn vật thuộc châu thổ sông Hoàng Hà vào buổi giao thời
chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến ở Trung Hoa. Cũng như Cơ Đốc
giáo ở phương Tây, Nho giáo trải qua ba thế kỉ thăng trầm rồi mới lên hàng độc
tôn trên vũ đài chính trị. Nho giáo như là một thành tố văn hóa làm phong phú văn
hóa Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng văn hóa Hán cùng với sự giao
lưu tiếp xúc của các tộc người. Và như một quy luật lan tỏa, Nho giáo ảnh hưởng
sâu sắc tới các nước láng giềng trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đặc biệt, ở Việt
Nam, Nho giáo còn có ảnh hưởng cho tới tận hôm nay, cụ thể là quan điểm giáo
dục của Khổng Tử với vấn đề giáo dục con người Việt Nam hôm nay. Chúng ta kế

thừa quan điểm coi trọng giáo dục đạo đức, nâng cao vai trò giáo dục, đề cao tự
học…nhưng được vận dụng sáng tạo, hợp lí vào công cuộc giáo dục ở nước ta, nó
có ý nghĩa định hướng con đường phát triển giáo dục và đó chính là sự khởi thủy
để giáo dục Việt Nam đi lên, xây dựng một nền quốc học nhân dân.

19


Giáo dục Việt Nam cũng như vậy. Thực tế giáo dục ở nước ta cho thấy giáo
dục trong những năm vừa qua còn rất nhiều bất cập: “Giáo dục và đào tạo nước ta
còn đứng trước nhiều khó khăn và yếu kém, đó là chất lượng giáo dục còn thấp,
nội dung và phương pháp dạy và học còn nhiều bất cập, các hiện tượng tiêu cực
trong giáo dục còn nhiều, cơ cấu giáo dục và đào tạo mất cân đối” (Nghị quyết hội
lần thứ sáu, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX).
Để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng ta chỉ rõ phải
xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, nhân văn và dân tộc. Điều đó đòi
hỏi giáo dục phải kết hợp được những thành tựu của xã hội hiện đại với những
tinh hoa của truyền thống. Giáo dục con người hiện nay không thể bỏ qua truyền
thống, cần kế thừa bài học truyền thống - bài học từ tư tưởng Nho giáo. Do vậy,
xác định được những hạt nhân tiến bộ trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử để
kế thừa là sự lựa chọn hợp quy luật của giáo dục nước ta, nó sẽ góp phần thúc đẩy
giáo dục phát triển, đáp ứng yêu cầu quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo
nên giá trị và sức sống cho giáo dục Việt Nam.
3.2. Kế thừa, phát triển quan điểm giáo dục Khổng Tử trong việc
xây dựng con người Việt Nam mới thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước
Khi bàn về con người, C.Mác có một luận điểm rất hợp lí: con người là một
thể thống nhất những năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Ông cho rằng, đạo
đức là một bộ phận không thể thiếu trong năng lực tinh thần, nhờ chúng mà năng
lực thể chất có sự định hướng, phát triển đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh - học

trò xuất sắc của Mác cũng nhiều lần nhấn mạnh: nhân cách con người bao gồm cả
đức và tài, đức là gốc và tài là quan trọng. Vì vậy, chú trọng đạo đức nhằm gây
dựng những con người có năng lực phẩm chất để tự điều chỉnh hành vi của mình,
làm trong sạch lành mạnh xã hội, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa là
nhiệm vô cùng quan trọng, không thể xem nhẹ giáo dục con người hiện nay. Đặc
biệt, trong quá trình chuyển đổi kinh tế nước ta, vấn đề đạo đức đặt ra hết sức bức
xúc. Bởi lẽ, xã hội đang có những chuyển biến sâu sắc trong đời sống vật chất tất
yếu dẫn đến biến đổi đời sống tinh thần, trong đó có đạo đức. Chính vì vậy, giáo
dục đạo đức càng cần được đề cao.
Thêm nữa, thực tế trong ngành giáo dục những năm qua các biểu hiện kém
đạo đức xuất hiện tràn lan bằng nhiều hình thức: thầy không ra thầy, trò không ra
trò…” Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức và nhân cách bị xem nhẹ”
(Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII). Việc lơi lỏng giáo
dục đạo đức hay việc giáo dục đạo đức có tính hình thức, xơ cứng trong nội dung,
20


thiếu biện pháp đồng bộ tất yếu dẫn đến biểu hiện suy thoái đạo đức. Vì thế, coi
trọng giáo dục đạo đức, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức là vấn đề không chỉ
mang tính lý luận mà còn mang tính thời sự cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta.
Trở lại truyền thống cho thấy, trong lịch sử nước ta một nền giáo dục Nho
học phát triển rực rỡ, một nền giáo dục chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm giáo
dục của Khổng Tử, đặc biệt đề cao giáo dục đạo đức. Chủ tích Hồ Chí Minh tiếp
thu vận dụng sáng tạo và tuyệt vời tư tưởng của các bậc lãnh tụ và trở thành người
thầy xuất sắc của cách mạng và nhân dân Việt Nam. Người đã kế thừa quan điểm
giáo dục đạo đức tiến bộ của Khổng Tử và thấy đó là một học thuyết tích cực.
Người nhận thấy rằng: Học thuyết Mác - Lênin chỉ cho người ta con đường làm
cách mạng, còn Khổng giáo thì hướng cho người ta hoàn thiện nhân cách. Để
hoàn thiện nhân cách, người ta cần biết lựa chọn cái hay, cái đẹp, cái hợp lí để

theo, cũng để hoàn thiện nhân cách cần biết cái dở, cái bất hợp lí để tránh. Đó là
thái độ nhất quán, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp thu, kế thừa quan
điểm giáo dục đạo đức của Khổng Tử.
3.2.1. Luận điểm có tính bao trùm, thể hiện nội dung cơ bản, chủ
đạo trong giáo dục chính là coi trọng giáo dục đạo đức
Toàn bộ nội dung cơ bản của giáo dục theo tinh thần của Khổng Tử là giáo
dục đạo đức. Trước hết, dạy cho con người cái đạo thông thường để làm người,
coi đó là cơ sở, nền tảng cái gốc bền chắc để con người tiến xa hơn, làm chính trị,
thực hiện lí tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đạo làm chính trị cũng dựa trên
cốt lõi là đạo đức. Như vậy, Khổng Tử coi giáo dục đạo đức là nhiệm vụ cơ bản
của mọi quá trình giáo dục.
Chủ tích Hồ Chí Minh thừa nhận “Học thuyết của Khổng tử có cái hay là
coi trọng giáo dục đạo đức”. Người đã tiếp thu một cách nhuần nhuyễn, Người chỉ
rõ “Học để làm người” “nên người rồi mới học làm cán bộ, làm người tốt là cơ sở
để làm cán bộ tốt”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được xa rời giáo dục
đạo đức mà phải luôn coi trọng đề cao bởi vai trò của nó là hết sức to lớn. Từ xưa,
cha ông ta đã dạy: “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở:
“Thiện ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân”
(Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên)

21


Vì vậy, chủ động giáo dục đạo đức cho con người sẽ hạn chế được những
nhiện tượng suy thoái đạo đức.
Và chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rõ “Mỗi con người đều có thiện
và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho lòng tốt trong mỗi con người nảy nở như

hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi”. Giáo dục đạo đức trong xã hội mới
là giáo dục đạo đức cách mạng chứ không phải đạo đức thủ cựu.
3.2.2. Coi trọng giáo dục đạo đức cá nhân
Giáo dục đạo đức cá nhân là một vấn đề quan trọng của giáo dục đạo
đức, bởi lẽ đạo đức xã hội thể hiện thông qua các cá nhân. Đạo đức cá nhân
một mặt bao chứa trong nó những nguyên tắc chuẩn mực chung của đạo đức
xã hội, phản ánh yêu cầu của xã hội, mặt khác nó cũng chứa đựng những sắc
thái riêng, phản ánh nét đặc thù của từng cá nhân.
Trọng tâm của giáo dục đạo đức của Khổng Tử là ở hai chữ “tu thân”.
Nhân cách, đạo đức con người không phụ thuộc vào tính trời cho mà quyết
định bởi chính công rèn luyện tu dưỡng của con người. Giáo dục ngày nay nói
nhiều đến tự rèn luyện, tự tu dưỡng. Nếu như “tu thân” trong quan niệm của
Khổng Tử quy định chặt chẽ bởi “ danh - vị” của cá nhân thì giáo dục ở thời
kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải xoay quanh những phẩm chất năng lực
cần có của con người hiện đại. Năng lực, vị trí ấy được hiểu cụ thể theo vị trí,
nhiệm vụ từng cá nhân.
Khổng Tử đề cập tư tưởng đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ cá nhân. Nó
được thể hiện ở bốn thang bậc: đối với bản thân, đối với gia đình, đối với
quốc gia, đối với thiên hạ. Khổng Tử hướng tới các mục tiêu “tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ” tức là nhận ra mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân với
xã hội, cá nhân với các hình thức cộng đồng tồn tại của mình. Tư tưởng của
Khổng Tử bao chứa một triết lí nhân sinh, nhân bản sâu sắc.
Kế thừa và vượt lên trên quan niệm của Khổng Tử, trách nhiệm, nghĩa
vụ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính rộng rãi hơn, phổ quát hơn, gắn với
yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ngoài nghĩa vụ, trách
nhiệm có tính truyền thống thì đạo đức cá nhân phải được thể hiện ở nghĩa vụ
công dân trong từng vị trí, công việc mình đảm trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt chú trọng giáo dục đức hy sinh, lòng dũng cảm, tinh thần sáng tạo
vượt khó hoàn thành nhiệm vụ. Trên mặt trận kinh tế, Người đặc biệt giáo dục
tính tập thể, tránh tư lợi cá nhân, chống tham ô, lãng phí. Đạo đức cách mạng

chính là “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”.

22


Cùng với đó, Khổng Tử giáo dục tư tưởng chính danh quy định mỗi
người trong xã hội có một “danh vị” nhất định, thực hiện đúng nghĩa vụ, trách
nhiệm theo “danh vị” là biết sống một cách chính danh. Xã hội chúng ta ngày
nay tồn tại nhiều biểu hiện không chính danh, làm suy thoái đạo đức. Sự
không chính danh của một bộ phận dẫn đến sự mất ổn định trật tự xã hội.
Tư tưởng chính danh đã được ông cha ta kế thừa. Việc giáo dục con
người theo chuẩn mực công dân của xã hội mới, giáo dục con người sống theo
lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…chính là hình thức duy trì tư
tưởng chính danh trong xã hội mới.
Trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi con người phải có
tri thức trình độ, tay nghề cao so với giai đoạn trước đây. Tri thức tay nghề
không phải sản phẩm tự nhiên mà do phải học hỏi tích lũy mới có. Ở đây,
chúng ta kế thừa tư tưởng “học không mỏi, dạy không chán của Khổng Tử”.
Nghị quyết lần thứ 5, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa VIII nhấn
mạnh: “Thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn” là
một trong những đức tính cần có của người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới. Tuy nhiên, khơi dậy truyền thống ham học song cần tránh tâm lí
khoa bảng, học để làm quan vốn là truyền thống nặng nề ở các nước phương
Đông, trong đó có Việt Nam.
3.2.3. Tư tưởng chú trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng
đồng
Từ khi loài người sống với tư cách là xã hội loài người thì đã bắt đầu xuất
hiện quy ước chung của cộng đồng. Khi nhà nước ra đời xuất hiện quy định chung
có tính pháp lí cao, buộc mọi người sống trong xã hội phải chấp hành kỉ cương
phép nước. Xã hội loài người tồn tại một cách ổn định, trật tự nhờ quy định của

phép nước cũng như quy ước của cộng đồng. Nội dung cơ bản của giáo dục đạo
đức lối sống hiện nay là dạy cho con người các kỉ cương phép nước, lối sống cộng
đồng. Khổng Tử đặt vấn đề này lên hàng đầu, biểu hiện ở giáo dục Lễ. Ở Việt
Nam cũng vậy, nhưng chữ Lễ ở đây không chỉ thuần túy nội dung cụ thể mà là
đạo lí truyền thống, có sức khái quát chuyển tải nội dung rộng lớn, bao quát được
cả quá khứ và lịch sử, truyền thống và hiện đại. Giáo sư, tiến sĩ Hồ Ngọc Đại đánh
giá: “Giáo dục Lễ không phải lập lại kỉ cương cũ mà là xác lập kỉ cương mới,
không phải dạy Lễ mà hình thành lẽ sống mới”. Đó là cách làm cho Lễ vừa mang
tính hiện đại, vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc.

23


3.2.4. Giáo dục của Khổng Tử gợi mở những phương thức giáo dục
đạo đức có hiệu quả
Khổng Tử nhấn mạnh tư tưởng “luân thường”, đặc biệt là Nhân, Trung…
gắn bó chặt chẽ với nhau, và rồi nó được chính trị hóa, trở thành chuẩn mực trong
xã hội. Vận dụng nó, giáo dục con người Việt Nam trong xã hội là yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội phải bắt đầu bằng tình cảm tự nhiên sẵn có của con người.
Mặt khác, Khổng Tử coi trọng thực tiễn đạo đức đó là nêu gương lấy bản
thân mình là mẫu mực. Điều này có ý nghĩa trong giáo dục nhân cách. Việc kết
bạn, chơi với bạn cũng là một hình thức giáo dục. Khi nhấn mạnh nhân tố tự giác
tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử đề cao phương pháp “khắc kỉ”. Đây là hình thức
giáo dục tự giác để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Đây cũng
là hình thức cần được giáo dục và duy trì trong xã hội mới.
3.2.5. Xây dựng mẫu người lí tưởng làm mục tiêu phấn đấu cho mọi
người
Thành quả của sự nghiệp giáo dục - đào tạo ngưng tụ ở mẫu người lí tưởng.
Khổng Tử thành công khi xây dựng mẫu người lí tưởng là kẻ sĩ, quân tử. Quân tử
chính là mẫu người lí tưởng cao nhất, đẹp nhất mà xã hội hướng đến. Đó chính là

niềm tự hào của xã hội phong kiến không chỉ trong lí thuyết mà cả thực tế cuộc
sống.
Chữ Nhân, hạt nhân cơ bản của Nho giáo. Nhân là gì? Gần 30 thế kỷ đã trôi
qua nhưng người ta vẫn còn tranh luận về khái niệm này. Tuy vậy, cũng có thể
nói gắn gọn mà không sợ xa đề: Nhân là lòng yêu thương con người và là mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở lòng yêu thương, tôn trọng
con người. Còn theo Hồ Chí Minh: “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng
giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người,
những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ
trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu
sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền”(Hồ Chí Minh về vấn đề giáo
dục, Nxb Giáo dục, H.1990, tr.64, 155).
Ở một chỗ khác, Người lại giải thích: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”(Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo
dục, H.1990, tr.64, 155). Ở đây Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm Dân để định
nghĩa khái niệm Nhân. Mà Nhân và Dân là hai khái niệm quen thuộc của Nho
giáo. Khổng Tử chưa coi trọng Dân. Nhưng Mạnh Tử thì nói: “Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh” (Tận tâm - hạ). Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã
24


dịch câu này trong một bài báo viết cho Tạp chí Cộng sản (tiếng Pháp): Lợi
ích của nhân dân là trước hết, thứ đến là lợi ích của quốc gia, còn lợi ích của
vua là không đáng kể. Như vậy, Nhân, Dân, hay Nhân dân của Hồ Chí Minh
đều là các khái niệm Mác - xít.
Trong chiến lược giáo dục “trồng người”, chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng mẫu người tiên phong làm mục tiêu phấn đấu cho mọi người. Người xuất
phát từ thực tiễn cách mạng và những yêu cầu của thực tiễn cách mạng mà nêu ra
mẫu người đặc thù. Tựu chung hình ảnh ấy là người chiến sĩ yêu nước và cách

mạng. Ngày nay, độc lập dân tộc thống nhất đất nước đã trở thành hiện thực, lí
tưởng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu cơ bản, hơn nữa
chúng ta đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục phải hướng đến đào tạo những con người
đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng. Đó là những con
người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, vừa có “đức”, vừa có “tài” như Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn.
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục không
chỉ những kiến thức giao dục hiện đại mà tư tưởng giáo dục Khổng Tử và nền
giáo dục Nho học vốn được coi là xưa cũ cũng cho chúng ta bài học quý giá. Đó
là cách nhìn đúng đắn với sự nghiệp giáo dục hiện nay. Trên cơ sở kế thừa và phát
triển, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở Việt
Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lí luận cho việc xác định chiến lược đào tạo
con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục nước ta của
Đảng qua các thời kì cách mạng mà còn là những bài học thực tiễn giáo dục hết
sức sinh động, thiết thực đối với người làm công tác giao dục nói riêng, ngành
giáo dục nói chung hiện nay.

25


×