Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Pháp luật về giai quyet tranh chap trong kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.48 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGOAN

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH

Ngành, chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Giảng viên: PGS.TS Bùi Nguyên Khánh

Hà Nội, năm 2018


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................................2
3.1 Đối tượng........................................................................................................................................2
3.2 Phạm vi............................................................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................2

NỘI DUNG.............................................................................................................. 4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI .............................4
1. Khái niệm về tranh chấp thương mại...............................................................................................4
2. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh....................................................................7



CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI....................................8
1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại......................................8
2. Đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại..................9

CHƯƠNG III: CÁC HÌNH THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI..................11
1. Trọng tài vụ việc............................................................................................................................11
2. Trọng tài quy chế............................................................................................................................12

CHƯƠNG IV: TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI......................................16
1. Khởi kiện........................................................................................................................................16
2. Thành lập Hội đồng trọng tài.........................................................................................................17
3. Thủ tục tố tụng...............................................................................................................................21
4. Hủy Quyết định của Trọng tài.......................................................................................................25
5. Thi hành Quyết định của Trọng tài................................................................................................27

KẾT LUẬN...........................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................29


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi tham gia các quan hệ kinh tế, việc xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn là
điều không thể tránh khỏi. Các bên trong tranh chấp đều mong muốn tìm
được biện pháp giải quyết tranh chấp, đảm bảo tốt nhất quyền lợi, ảnh hưởng
đến mối quan hệ giữa các bên là thấp nhất, ít tốn kém về thời gian và tiền bạc.
Vì vậy, việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vô cùng quan
trọng. Theo qui định của pháp luật, các phương thức giải quyết tranh chấp:

thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp đó thì giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong
quá trình phát triển của các quan hệ kinh tế và được các chủ thể ưa chuộng.
Phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa thuận lựa chọn,
nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình pháp luật quy định. Trong phương
thức trọng tài sẽ có một Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là
một bên trung gian, độc lập nhằm giải quyết các mẫu thuẫn, tranh chấp bằng
việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, tính nhanh chóng,
tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí
mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định
trọng tài không được công bố công khai rộng rãi. Theo nguyên tắc này, các
bên có thể giữ được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình.
Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với
hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài
đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ
1


chức hay tòa án nào. Đồng thời, phán quyết của trọng tài có tính bắt buộc thi
hành với các bên. Khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành nhưng có một trong
các bên không thực hiện, bên còn lại có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài . Đó là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, em chọn vấn đề "Giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay" làm
đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản về

giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại. Bao gồm các quy
định về giải quyết tranh chấp thương mại, về phương thức giải quyết bằng
trọng tài thương mại. Đồng thời đưa ra những nhận xét về các quy định này
của pháp luật Việt Nam cũng như thực trạng, những phương hướng hoàn thiện
pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
Những vấn đề pháp lý cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài thương mại.
3.2 Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống pháp luật Việt Nam, đánh
giá đầy đủ, khách quan, nhận định chính xác pháp luật về giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2


Bên cạnh đó, đề tài được viết dựa trên các phương pháp thu thập, tổng
hợp tài liệu; phương pháp diễn giải, quy nạp; phương pháp so sánh và phương
pháp phân tích, tổng hợp.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1. Khái niệm về tranh chấp thương mại
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường
với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau đã
làm cho các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Dưới sự
tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, lợi nhuận chẳng những là
động lực, là một trong những thước đo hiệu quả hoạt động mà còn là mục
đích và phương tiện tồn tại của các chủ thể kinh doanh.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian gần đây
được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các
quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng
định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh chấp
trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả
tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay
gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Bởi vậy, yêu cầu phải áp dụng các
hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là một
đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi
trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Về mặt học thuật, tranh chấp kinh tế và tranh chấp trong kinh doanh là
những khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, mặc dù chúng đều được

4


hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột lợi ích, về quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song nhiều nhà khoa học đã thống
nhất cho rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu
thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia
vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Theo đó, tranh chấp kinh tế

có thể có các dạng cơ bản sau: Tranh chấp trong kinh doanh diễn ra giữa các
chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong
các khâu đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi; Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài
với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc
thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, thực hiện các Điều ước quốc tế
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương; Tranh chấp giữa
các quốc gia trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế về thương mại song
phương và đa phương; Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế
quốc tế trong việc thực hiện các Điều ước quốc tế trong khuôn khổ thương
mại đa phương như: tranh chấp giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối tại Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Có thể nói, trong các loại hình tranh chấp quốc tế kể trên, tranh chấp
trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số
trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp
kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương với nhau.
Từ cách tiếp cận khác, tranh chấp trong kinh doanh còn được hiểu là sự
bất đồng về một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các
chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố, lợi ích
về mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh
5


doanh như sau: Nó luôn gắn liền với những hoạt động kinh doanh của các chủ
thể; Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp; Nó
là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích
kinh tế của các bên1 .
Điều cần nhấn mạnh là, hình thức tồn tại của các tranh chấp trong kinh
doanh tự thân nó là yếu tố phản ánh những đặc trưng của các quan hệ kinh tế
trong các cơ chế kinh tế tuỳ ứng2.

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh
chủ yếu tồn tại dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính
đơn điệu của các lợi ích cần bảo vệ trong mô hình kinh tế này. Ngược lại,
trong điều kiện kinh tế thị trường, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
kéo theo sự đa dạng vệ đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, sự xuất hiện
của các phương thức kinh doanh, thị trường và các yếu tố sản xuất phi truyền
thống làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới như: tranh chấp giữa thành
viên công ty với công ty, tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau trong
quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh chấp đến mua bán các
loại cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên doanh, liên kết kinh tế; tranh chấp
trong các lĩnh vực quảng cáo, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, giám định....;
tranh chấp liên quan đến hối phiếu và séc, tranh chấp liên quan đến việc bảo
hộ các bí mật thương mại... Có thể nói, sự thay đổi về nội dung và hình thức
các tranh chấp trong kinh doanh trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
mới đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
1

Trần Đình Hảo, Hoà giải thương lượng trong việc giải quyết tranh chấp HĐKT, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, só 1 năm 2000, Trang.28.
2

Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Khoa Luật, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1997,Trang.468.

6


phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
2. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh

Tranh chấp là hệ quả tât yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì
vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh dược coi là đòi hỏi tự thân của các
quan hệ kinh tế. Theo hiểu biết chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn,
bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà
các bên có thể chấp nhận được
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị
trường phải đáp ứng các yêu cầu: Nhanh chóng, thuận lợi , không làm hạn
chế, cản trở các hoạt động kinh doanh; Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp
tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh; Giữ bí mật kinh doanh, uy tín
của các bên trên thương trường; Kinh tế nhất (ít tốn kém nhất).
Sự tác động của những đặc điểm riêng biệt về phong tục, tập quán,
truyền thống, trình độ phát triển kinh tế- xã hội, đã làm cho các cơ chế giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh của các quốc gia rất khác nhau. Mặc dù
vậy, căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp luật có sự phân hoá đối với các hoạt
động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, cho tới thời điểm hiện tại,
các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thế
giới bao gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính phủ) và giải quyết
thông qua Toà án.

7


CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ
ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng việc đưa ra phán quyết trọng tài

buộc các bên tôn trọng và thực hiện.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi
chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp
thương mại. Trọng tài phi chính phủ đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm
60 của thế kỷ XX và được các nhà kinh doanh trong nước, ngoài nước biết
đến như một hính thức giải quyết tranh chấp nhanh, hiệu quả. Có được điều
này là bởi pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài qua thời gian đã khá hoàn
thiện. đến thời điểm hiện tại, văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài
là Luật trọng tài thương mại năm 2010 hầu như tương thích với các qui định
của Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế (sửa đổi năm 2006) và luật
trọng tài của nhiều nước trên thế giới
Phù hợp với thông lệ quốc tế, Trọng tài thương mại ở Việt Nam tồn tại
dưới cả hai hình thức là Trọng tài thường trực (quy chế) và Trọng tài vụ việc
(Ad-hoc). Trong khi Trọng tài thường trực 3 đã có lịch sử phát triển lâu dài
trong đời sống pháp lý của Việt Nam, thì Trọng tài vụ việc mới chỉ được ghi
nhận chính thức trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Do tính chất của
Trọng tài vụ việc là giải quyết một lần, nên việc thiết lập Hội đồng trọng tài
3

Trọng tài ngoại thương được thành lập trên cơ sỏ Nghị định của Chính phủ số 59/CP ngày
30.04.1963. Trọng tài hàng hải được thành lập trên cơ sỏ Nghị định của Chính phủ số 153/CP ngày
15.10.1964.
8


vụ việc được thực hiện thông qua thủ tục chỉ định Trọng tài viên của các bên
đương sự.
2. Đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài thương mại
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi

chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp
thương mại mang các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trọng tài chỉ giải quyết tranh chaapskhi có yêu cầu của các
bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài. Khi tranh chấp phát sinh các bên có quyền yêu cầu giải quyết vụ tranh
chấp bằng trognj tài. Đây là một trong những qui định đảm bảo quyền định
đoạt của các bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Việc
yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên được ghi nhận bằng thỏa thuận
trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp. Thỏa thuận trognj tài phải có hiệu lực pháp luật. các tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài bao gồm: (i) Tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó
ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên
mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Tuy nhiên, các bên có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau thì vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác như: Có quyết
định của Tòa án hủy phán quyết trọng tài, huuyr quyết định của Hội đồng
trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên; Có quyết định đình chỉ
giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, trung tâm trọng tài được qui

9


định tại khoản 1 Điều 43, các điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều 59 Luật trọng tài
thương mại năm 2010.
Thứ hai, chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại là các trọng tài viên
thực hiện thông qua Hội đồng trọng tài gồm một trọng tài viên độc lập hoặc
hội đồng gồm nhiều Trọng tài viên. Trọng tài viên là người được các bên lựa
chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh

chấp theo qui định của Luật trọng tài thương mại năm 2010. Trọng tài viên
phải đáp ứng đủ các điều kiện tiêu chuẩn theo qui định tại Điều 20 Luật trọng
tài thương mại năm 2010. Trọng tài là một tổ chức phi chính phủ, không nằm
trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Bản thân các trọng tài viên cũng
không phải là cán bộ, công chức,viên chức.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
đảm bảo sự kết hợp hai yếu tố: thỏa thuận và phán quyết
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là phương thức đảm
bảo quyền tự định đoạt cao nhất của các bên. Các bên tranh chấp có thể thống
nhất, thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài, Trọng tài viên,địa điểm giải
quyết hay luật áp dụng… Các bên có thể thỏa thuận trognj tài về việc giải
quyết bằng trọng tài tranh chấp costheer phát sinh hoặc đã phát sinh.
Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết
toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trognj tài. Khác với phán
quyết của Tòa án có thể bằng bản án hoặ quyết định (mang tính quyên flwcj
nhà nước) thì phán quyết của trọng tài bằng quyết định nhân danh và vì lợi ích
của các bên tranh chấp (không mang tính quyền lực nhà nước). Phán quyết
trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành, không biij kháng
cáo, kháng nghị.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chaos đam rbaor tính bí
mật.

10


Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. hầu
hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử
kín nếu các bên không qui định khác. Theo qui định tại khoản 4 Điều 4 Luật
trognj tài thương mại năm 2010 thì việc giải quyết tranh chấp bằng trognj tài
được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được
giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Qui định này có ý
nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh và giải
quyết được sự quan ngại vì nếu nội dung vụ tranh chấp được công khai sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp.

CHƯƠNG III: CÁC HÌNH THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc
(trọng tài ad-hoc) và trọng tài quy chế.
1. Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử
dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. pháp luật về trọng tài của các nước
trên thế giới đều ghi nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên qui
định của pháp luật các nước về hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu,
rộng khác nhau.
Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo qui định của
luật trọng tài thương mại năm 2010 và trình tự,, thủ tục do các bên thỏa thuận.
Trọng tài vụ việc có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, trognj tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp
và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Tín
chất “vụ việc” hay “lâm thời” của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ,

11


trognj tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải
quyết vụ tranh chấp cụ thể giữa các bên. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và
hoạt động trong thời gian giải quyết vụ tranh chấp, khi các bên xong vụ trnah
chấp,, trọng tài tự chấm dứt hoạt động.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ

máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên
được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên trong hoặc ngoài
danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có qui tắc tố tụng riêng.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp
nên qui tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận
xây dựng. tuy nhiên, để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào
việc xây dựng qui tắc tố tụng, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn
bất lỳ qui tắc tố tụng phổ biến nào (thông thường là qui tắc tố tụng của các
Trung tâm Trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế)
Cách thức hình thành, qui trình tố tụng cũng như giá trị của phán quyết
và cơ chế bảo đảm thi hành quyết định của trọng tài vụ việc lần đầu tiên được
qui định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Trọng tài vụ việc có
một số ưu việt như: giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém hay quyền lựa chọn
trognj tài viên của các bên không bị giới hạn bởi dnah sách Trọng tài viên mà
có thể lựa chọn bất kỳ Trọng tài viên nào. Bên cạnh đó, trọng tài vụ việc có
lợi thế trong việc xác định qui tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp.
2. Trọng tài quy chế
Theo qui định của hầu hết các quốc giathì trongjt ài đều tồn tại dưới
hình thức trọng tài phi chính phủ (với tư cách là một tổ chức xã hội nghề
nghiệp), không nằm trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có những ngoại
lệ mang sắc thái riêng trong pháp luật trognj tài ở một số nước châu Á, như:
12


Trung Quốc, Thái Lan. ở Trung Quốc, các ủy ban trọng tài hợp đồng kinh tế
lầ những cơ quan nhà nước thuộc Cục quản lý hành chính công thương các
cấp.Thái Lan thành lập Viện trọng tài thuộc Bộ Tư pháp, có qui tắc tố tụng
riêng nhằm hỗ trợ, phát triển các hoạt động hòa giải và trọng tài. Theo đó,
trognj tài quy chế ở các quốc gia trên thế giới thường được tổ chức dưới

những hình thức đa dạng, như: các Trung tâm Trọng tài, các Hiệp hội trọng tài
hay các Viện trognj tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng
các Trung tâm Trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng
các Trung tâm trọng tài, Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư
cách pháp nhân,có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại mộtTrung tâm
trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và quy tắc tố
tụng của Trung tâm trọng tài đó.
Đặc điểm của trọng tài quy chế.
Thứ nhất, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới hình thức các Trung tâm
trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trogn hệ
thống cơ quan nhà nước.
Các Trung tâm trọng tài được thành lập theo sang kiến của các Trọng
tài viên sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ
không phải bởi được thành lập bởi nhà nước. các Trung tâm trọng tài không
nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (như trognj tài kinh tế nhà nước
trước đây), cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước (như tòa án
kinh tế hiện nay), Trung tâm trọng tài hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
Hoạt động của Trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước. Trọng tài viên duy nhất

13


hoặc Hội đồng Trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh
người thứ ba độc lập ra phán quyết.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng các Trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt
dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý đối với
mọi mặt của đời sống xã hội. nhà nước quản lý đối với các Trung tâm trọng

tài thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật tọa cơ sở pháp lý cho việc
tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài. Ngoài ra, việc quan rlys nhà
nước đới với Trọng tài thương mại còn được thực hiện thông qua haotj động
quản lý của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trogn việc cấp;
thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của
các Trung tâm trọng tài…
Thứ hai, các Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có con dấu và
tài khoản riêng tồn tại độc lập với nhau. Trung tâm trọng tài là tổ chức có tư
cách pháp nhân, đáp ứng đầy đủ các điều kiện của pháp nhân quy định tại
Điều 74 BLDS năm 2015.
Mỗi Trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng
với các Trung tâm trọng tài khác. Trung tâm trọng tài được lập chi nhánh, Văn
phòng đại diện ở trong nước và ngoài nước.
Ngoài sự độc lập, bình đẳng và quan hệ hợp tác (nếu có) giữa các
Trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc mang tính hành chính
trogn cơ quan tài phán hành chính như cấp trên, cấp dưới. Sự khác biệt này về
tổ chức của Trọng tài thương mại (cơ quan tài phán tư) so với hệ thống tổ
chức của Tòa án (cơ quan tài phán công) dẫn đến tính đặc thù của tố tụng
trọng tìa trong việc áp dụng nguyên tắc xét xử một lần.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các Trung tâm trọng tài đơn giản, gọn nhẹ.
Trung tâm trọng tài có ban điều hành và Ban thư ký. Cơ cấu bộ máy của
Trung tâm trọng tài do Điều lệ của Trung tâm quy định

14


Thứ tư, mỗi Trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và
có quy tắc tố tụng riêng. Mỗi Trung tâm trọng tài tự xác định về lĩnh vực hoạt
động của mình tùy thuộc vào khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên
và phải được ghi rõ trong Điều lệ của Trung tâm trọng tài. Trong quá trinh

fhoatj động, các Trung tâm trọng tài có quyền mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi
lĩnh vực hoạt động nhưng phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Là tổ chức phi chính phủ các Trung tâm trọng tài tồn tại độc lập với
nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh cùng nhau. Bên cạnh chất lượng các Trọng
tài viên, sự đơn giản và linh hoạt của quy tắc tố tụng cũng là yếu tố tạo ra sự
hấp dẫn của mỗi Trung tâm trọng tài trước các khách hang. Bởi vậy, mỗi
Trung tâm trọng tài đều có Điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng
được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của Trung taamm và
không trái với qui định của pháp luật trọng tài thương mại.
Thứ năm, hoạt động xét xử của Trung tâm trọng tài được tiến hành bởi
các Trọng tài viên. Mỗi Trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về Trọng
tài viên của Trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định Trọng tài viên tham gia Hội
đồng trọng tài hoặc trognj tài viên duy nhất để giải quyết vụ tranh chấp chỉ
được giới hạn trogn danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài. Vì vậy
hoạt động xét xử của Trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các Trọng tài
viên của chính Trung tâm. Dặc điểm này có sự khác biệt so với giải quyết
tranh chấp thương mại tại trọng tài vụ việc.
Xét trên phương diện phạm vi cả nước, ngoài các Trung tâm trọng tài
thì còn có Hiệp hội Trọng tài. Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp
của Trọng tài viên và Trung tâm trọng tài trong phạm vi cả nước.
Tổ chức trọng tài nước ngoài đã được thành lập và đang hoạt động hợp
pháp tại nước ngoài, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam thì được

15


phép hoạt động tại Việt Nam theo qui định của Luật trọng tài thương mại năm
2010. Tổ chức trọng tài nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới các hình
thức sau đây: (i) Chi nhánh của tổ chức trọng tài nước ngoài; (ii) Văn phòng

đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài.
CHƯƠNG IV: TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
1. Khởi kiện
Trình tự khởi kiện tại trọng tài theo Luật trọng tài thương mại năm 2010
chia thành hai loại: Khởi kiện tại Trung tâm trọng tài và khởi kiện tại trọng tài
vụ việc.
a, Khỏi kiện tại Trung tâm trọng tài
Khi giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn làm đơn
khởi kiện gửi Trung tâm.Nội dung đơn khởi kiện qui định tại khoản 2 Điều 30
Luật trọng tài thương mại năm 2010. Kèm theo đơn khởi kiện phải có thỏa
thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên quan. Việc gửi kèm
thỏa thuận trọng tài khi khởi kiện thể hiện đặc trưng của giải quyết tranh chấp
tại trọng tài, bởi vì chỉ khi có thỏa thuận trọng tài thỏa mãn điều kiện, trọng
tài mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài
tính từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu nộp
kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng án phí trognjt ài, Trung tâm trọng tài phải
gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu thoe
qui định của pháp luật. Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm
trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ

16


ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho
Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
thời hạn này có thể được Trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ

thể của vụ việc; Đối với vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc,
nếu các bên không có thoả thuận khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải
gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người
mà mình chọn làm Trọng tài viên; Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì
phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ.
b, Khởi kiện tại trọng tài vụ việc
Khi vụ tranh chấp được giải quyết bằng trognj tài vụ việc, nguyên đơn
làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn. Thời điểm bắt dầu tố tụng trọng tài được
tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, nếu các bên
không có thỏa thuận khác. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện của nguyên đơn và các tìa liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho
nguyên đơn và Trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình
chọn làm Trọng tài viên. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thủ tục khởi kiện
tại trung tâm trọng tài và thủ tục khởi kiện tại trognj tài vụ việc. Đối với trọng
tài vụ việc, vì trọng tài chỉ được thành lập khi có tranh chấp xảy ra nên khi
nguyên đơn khởi kiện, không có Trung tâm trọng tài và cũng chưa tồn tại Hội
đồng trọng tài, do đó các bên gửi trực tiếp cho nhau. Trong đơn khởi kiện và
trong bản tự bảo vệ, nguyên đơn, bị đơn sẽ chọn Trọng tài viên cho mình.
2. Thành lập Hội đồng trọng tài
a, Thành lập Hội đồng Trọng tài tại Trung tâm Trọng tài

17


Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn
năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện, Trung tâm Trọng tài phải
gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện, tên Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn và

các tài liệu kèm theo cùng với danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng
tài. Nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể
từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do Trung tâm Trọng tài
gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên
của Trung tâm Trọng tài và báo cho Trung tâm Trọng tài biết hoặc yêu cầu
Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho mình. Hết thời hạn
này, nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không yêu cầu Chủ tịch
Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn bảy ngày làm
việc, kể từ ngày hết hạn quy định tại khoản này, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài
chỉ định Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài cho bị đơn.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống
nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu chọn Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài. Hết thời hạn này,
nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì trong thời hạn bảy ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ
định Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài cho các bị đơn.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hai Trọng tài viên được các bên
chọn hoặc được Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định, các Trọng tài viên này
phải chọn Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của
Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, hai
Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn được Trọng tài viên

18


thứ ba thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn, theo yêu cầu
của một bên hoặc các bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài
viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm

Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy
nhất của Trung tâm Trọng tài giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài
viên thì theo yêu cầu của một bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định
Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên.
Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội đồng Trọng tài. Quyết
định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội
đồng Trọng tài.
b, Thành lập Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, bị đơn phải chọn
Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình
chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên
Trọng tài viên mà mình chọn, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh) nơi bị
đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Trong thời hạn
bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao
cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và thông báo cho các
bên.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống
nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận

19


được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này, các
bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa
án cấp tỉnh, nơi có trụ sở hoặc cư trú của một trong các bị đơn chỉ định Trọng
tài viên cho các bị đơn. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng
tài viên theo yêu cầu của nguyên đơn và thông báo cho các bên.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hai Trọng viên được chọn hoặc
được Toà án chỉ định, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn Trọng tài
viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, nếu hai Trọng
tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ
ba, các bên có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú
chỉ định Trọng tài viên thứ ba. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng
tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài và thông báo cho các bên.
Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài
viên trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm
Trọng tài của Việt Nam.
Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy
nhất giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên duy nhất thì theo yêu
cầu của một bên, Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú
giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các
bên.

20


Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội đồng Trọng tài. Quyết
định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội
đồng Trọng tài.
3. Thủ tục tố tụng
Thủ tục tố tụng trọng tài được bắt đầu bằng thủ tục thụ lý đơn khởi kiện
do nguyên đơn nộp gửi Trung tâm Trọng tài (nếu vụ tranh chấp được giải
quyết tại Trung tâm Trọng tài) hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của

nguyên đơn (nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do các
bên thành lập). Đơn kiện4 của nguyên đơn phải có các nội dung chủ yếu sau
đây: Ngày, tháng, năm viết đơn; Tên và địa chỉ của các bên; Tóm tắt nội dung
vụ tranh chấp; Các yêu cầu của nguyên đơn; Trị giá tài sản mà nguyên đơn
yêu cầu; Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài mà nguyên đơn chọn.
Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao thoả
thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu, chứng cứ. Bản sao phải có
chứng thực hợp lệ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được
đơn kiện, Trung tâm Trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của
nguyên đơn và những tài liệu nói trên.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng
Trọng tài ra quyết định trọng tài.
Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề có liên quan đến
yêu cầu của nguyên đơn. Đơn kiện lại phải được gửi cho Hội đồng Trọng tài,

4

Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thực hiện theo quy định đó của

pháp luật. Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải
quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng.
Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện
bất khả kháng.

21


đồng thời được gửi cho nguyên đơn trước ngày mở phiên họp của Hội đồng
Trọng tài giải quyết đơn kiện của nguyên đơn.
Nguyên đơn phải có bản trả lời đơn kiện lại trong thời hạn ba mươi ngày,

kể từ ngày nhận được đơn kiện lại. Bản trả lời phải được gửi cho bị đơn và
Hội đồng Trọng tài.Thủ tục kiện lại được tiến hành như thủ tục giải quyết đơn
kiện của nguyên đơn và do Hội đồng Trọng tài giải quyết cùng một lúc.
Kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 20 của Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên Trọng tài viên mà
mình chọn.
Bản tự bảo vệ phải gồm có các nội dung chủ yếu sau đây: Ngày, tháng,
năm viết bản tự bảo vệ; Tên và địa chỉ của bị đơn; Lý lẽ và chứng cứ để tự
bảo vệ trong đó bao gồm việc phản bác một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn
kiện của nguyên đơn. Ngoài nội dung quy định tại điểm này, nếu bị đơn cho
rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài, không có
thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu thì có quyền nêu ra
trong bản tự bảo vệ.
Sau khi được chọn hoặc được chỉ định, các Trọng tài viên phải nghiên cứu
hồ sơ; xác minh sự việc nếu thấy cần thiết. Hội đồng Trọng tài có quyền gặp
các bên để nghe các bên trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của một bên hoặc các
bên hoặc theo sáng kiến của mình, Hội đồng Trọng tài có thể tìm hiểu sự việc
từ người thứ ba, với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các
bên.

22


Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh sự việc mà mình
nêu ra. Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên
quan đến vụ tranh chấp.
Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tài có thể tự mình thu thập
chứng cứ; mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và phải
thông báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng phí

giám định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải nộp tạm ứng phí
giám định.
Trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì
các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý
vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
sau đây: Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hoặc
có nguy cơ bị tiêu huỷ; Kê biên tài sản tranh chấp; Cấm chuyển dịch tài sản
tranh chấp; Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp; Kê biên và niêm
phong tài sản ở nơi gửi giữ; Phong toả tài khoản tại ngân hàng.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể tự hoà giải. Trong trường
hợp hoà giải thành thì theo yêu cầu của các bên, Hội đồng Trọng tài sẽ đình
chỉ tố tụng.Các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài tiến hành hoà giải.
Trong trương hợp hoà giải thành thì các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng
tài lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận hoà giải thành.
Biên bản hoà giải thành phải được các bên và các Trọng tài viên ký. Quyết
định công nhận hoà giải thành của Hội đồng Trọng tài là chung thẩm và được
thi hành theo quy định tại Điều 57 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.

23


×