Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận cao học những nhận thức mới về thể chế kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.18 KB, 26 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại.
Đây là thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm
mang tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực
hiện mô hình kinh tế thị trường trên thế giới rất phong phú, đa dạng. Vì vậy,
mỗi một quốc gia phải tự chủ động nghiên cứu, tìm tòi mô hình thể chế riêng
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, xã hội, chính trị, truyền
thống văn hóa… của quốc gia mình, dân tộc mình và xu thế khách quan của
thời đại.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đến Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng ta khẳng định “phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là đường lối chiến
lược nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Có thể thấy rằng, mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Vì vậy, em chọn đề tài “Những nhận thức mới về thể chế
kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm
tiểu luận của mình. Trong quá trình nghiên cứu do kinh nghiệm còn nhiều hạn
chế nên kính mong thầy, cô giúp đỡ, bổ sung để tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

1


I. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN
PHÁT TRIỂN
Ở các nước tư bản phát triển, mô hình kinh tế thị trường đã trải qua
nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, tiến hóa theo thời gian cùng với sự phát


triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế, dưới tác động của cách
mạng khoa học – kỹ thuật, ngày nay là cách mạng khoa học – công nghệ. Các
mô hình kinh tế thị trường của các nước này có những sự biến đổi, thích nghi
để tồn tại và phát triển.
Trong những năm gần đây, dựa theo những nét khác biệt và tương
đồng, người ta đã chia các mô hình kinh tế thị trường đang vận hành ở các
nước tư bản phát triển trên thế giới thành 3 nhóm tiêu biểu:
- Mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do (tiêu biểu là nền kinh tế thị
trường của Mỹ, Anh, Ốx-trây-li-a,…).
- Mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức, Thụy
Điển và các nước Bắc Âu khác).
- Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là nền
kinh tế Pháp, Nhật Bản).
Ba mô hình thể chế kinh tế thị trường nêu trên có những điểm khác biệt
với nhau như sau:
1- Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do
Có một cơ chế thị trường tự do thuần khiết hơn so với các nền kinh tế
khác. Trong mô hình kinh tế thị trường này, các mối quan hệ kinh tế đều được
giải quyết thông qua thị trường là chính, còn sự can thiệp của nhà nước rất

2


hãn hữu. Do đó, mọi sự bất cập và thất bại của nền kinh tế đều do nguyên
nhân chủ yếu từ sự trục trặc hay sự phát triển thiếu đồng bộ của thị trường.
Trong mô hình này, thị trường lao động có tính linh hoạt cao và các luật
lệ về thị trường lao động đều thiên về bảo hộ người chủ tư bản hơn là người
lao động làm thuê.
2 – Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội
Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai và

là kết quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ trương
khác nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình
kinh tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ
sở thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế – xã hội và chính trị.
Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ
và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức,… không hề kém quan trọng hơn so với
các chính sách kinh tế, tài chính.
Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội.
3 – Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển
Chức năng chủ yếu của nhà nước trong mô hình này là thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế dài hạn. Do đó, nhà nước phải chủ động thực hiện
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trên cơ sở những
thành tựu của công nghiệp hóa và tái công nghiệp hóa dựa vào tri thức, nhằm
thích ứng với sự biến động nhanh chóng của nhu cầu thị trường để luôn tạo ra
được lợi thế so sánh mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không thụ động chấp
nhận sự phân công lao động quốc tế dựa trên những lợi thế so sánh có sẵn.

3


Nhà nước không chỉ quan tâm đến luật chơi của nền kinh tế thị trường
mà còn đi sâu hướng dẫn, chỉ đạo, điều tiết cả phương hướng, nội dung của
hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chức năng phát triển của nhà nước.
Cơ sở lý thuyết về chức năng phát triển của nhà nước là những phân
tích “lợi thế so sánh động” của một nền kinh tế dựa vào tri thức.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm vị trí quan trọng trong nền
kinh tế của các nước phát triển nền kinh tế theo mô hình này.
Bên cạnh những điểm khác biệt của mỗi mô hình như đã nêu trên, giữa
3 mô hình này cũng có những điểm tương đồng rất cơ bản:

- Cả 3 mô hình thể chế kinh tế thị trường nêu trên đều được xây dựng
và vận hành dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi là: sở hữu tư nhân, lợi ích cá nhân,
cạnh tranh thị trường và tự do dân chủ theo kiểu phương Tây.
- Những thể chế, chính sách trước đây bị coi là phi kinh tế như chính
sách giáo dục – đào tạo, khoa học, công nghệ thì ngày nay trở thành những
chính sách phát triển hàng đầu, do giáo dục – đào tạo và khoa học, công nghệ
trong những thập niên gần đây đã trở thành những động lực trọng yếu của
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính nhờ tập trung những khoản đầu tư lớn
cho phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học, công nghệ mà Mỹ trở thành
nước đang dẫn đầu trong các ngành mới, hiện đại và thu được nhiều khoản lợi
nhuận kếch sù từ các ngành công nghiệp bán dẫn, máy tính, Internet, công
nghệ sinh học,… Đó chính là cơ sở trọng yếu để nền kinh tế Mỹ duy trì được
đà tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt thập niên vừa qua.
Trong vài thập niên gần đây, tuy rằng cả sự phát triển bền vững và sự
phát triển con người đều vượt ra ngoài lô-gíc bình thường của chủ nghĩa tư
bản. Nhưng những yêu cầu đó đều là xu thế tất yếu của thời đại mà chủ nghĩa

4


tư bản hiện đại không cưỡng lại được, cho nên không chỉ Mỹ mà ở tất cả các
nước theo những mô hình nêu trên đang khôn ngoan tìm cách thích nghi.
- Trên thực tế, cả 3 mô hình này đều sử dụng rộng rãi sự điều tiết và
quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò điều tiết và
quản lý vĩ mô của nhà nước luôn được thay đổi linh hoạt, theo những hình
thức và phương pháp phù hợp với diễn biến và yêu cầu khách quan của tình
hình thực tế.
Chính phủ ở các nước này đều sử dụng những biện pháp can thiệp có
chủ đích nhằm trợ giúp một số ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong
sự phát triển dài hạn của nền kinh tế, hoặc kiểm soát, hạn chế sự phát triển

của những doanh nghiệp, những ngành gây ảnh hưởng tiêu cực đối với nền
kinh tế.
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
MỘT SỐ NƯỚC KHÁC
Mỗi một mô hình kinh tế thị trường trên đây đều có những nét ưu việt
cùng những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Chưa có cơ sở chắc chắn để
khẳng định mô hình nào sẽ thắng thế lâu dài và có khả năng trở thành một
hình mẫu chung cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới. Tuy vậy, hiện
nay mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ đang ưu thế, vì trong những năm gần
đây các mô hình kinh tế thị trường của Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Đông Á
đều trì trệ, khủng hoảng. Trong khi đó, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ
dựa trên lý thuyết kinh tế Tân tự do và dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự,
khoa học – công nghệ của Mỹ cùng sự ủng hộ của IMF, WB, WTO,… được
khuyếch trương rộng rãi. Từ đó, nhà cầm quyền Mỹ tự cho phép mình đặt ra
luật lệ cho “cuộc chơi” và chi phối các tổ chức quốc tế đa phương để điển
hình hóa mô hình kinh tế thị trường của Mỹ thành kiểu mẫu đem chuyển giao

5


cho các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi dưới tên gọi
“Đồng thuận Oa-sinh-tơn”.
Hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện đường lối phát triển
kinh tế thị trường đã thu được những thành công hay thất bại rất khác nhau:
có một số nước thành công, đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định
như các nước công nghiệp mới ở Đông Á (NICs) và các nền kinh tế công
nghiệp hóa mới (NIEs). Nhưng nhiều nước lại thất bại: kinh tế tăng trưởng
chậm, luôn bị khủng hoảng, thậm chí bị suy thoái như các nước ở châu Phi và
Mỹ La-tinh.
Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã,

Liên bang Nga và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã tiến
hành chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Nhưng việc áp dụng máy móc, rập khuôn đã thất bại với hậu quả
nghiêm trọng. Trong khi đó, Trung Quốc có điểm xuất phát thấp hơn đã tiến
hành chuyển đổi và cải cách mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô
hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Cách tiếp cận này, vừa đổi mới, vừa
đúc rút kinh nghiệm và khái quát lý luận làm căn cứ cho việc triển khai các
bước cải cách thể chế tiếp sau, nhằm đạt mục tiêu xây dựng một nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Quá trình chuyển đổi
sang mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã thu được
những thành tựu to lớn, tuy có phải trả những khoản học phí không nhỏ. Bài
học quý báu cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, cả trong thành công cũng
như thất bại đang tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn thiện kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc.
Thực tế trên cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường
hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình
kinh tế thị trường của nước này cho nước khác được. Nó luôn là bài toán đầy
6


thách thức đối với bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường. Do
đó mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi kinh
nghiệm của các nước khác. Không nên rập khuôn, máy móc theo bất cứ một
mô hình ngoại lai nào. Phải phát huy hiệu quả nội lực kết hợp thu hút các
nguồn ngoại lực, chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo, quyết định và thực
hiện mô hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
đất nước mình.
III. THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Thể chế kinh tế và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế

1.1. Thể chế, thể chế kinh tế
Lý luận về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng rất phong phú
và được phát triển dựa trên nhiều tư tưởng nhiều học thuyết, trải qua nhiều
thời kỳ lịch sử khác nhau và cho đến nay vẫn đang được hoàn thiện.
Thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các
chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể
chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu: các đạo luật, luật lệ, quy định, quy
tắc,.. về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm; các tổ chức kinh tế; cơ chế
vận hành nền kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là loại hình thể
chế kinh tế trong đó có sự thống nhất biện chứng giữa cái chung là kinh tế thị
trường với các đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa. Thuộc về cái chung có
các yếu tố như: đa dạng chủ thể kinh tế và các chủ thể tự do sản xuất kinh
doanh, cạnh tranh theo pháp luật; thừa nhận các phạm trù hàng hoá, tiền tệ, thị
trường, cạnh tranh, cung cầu, giá cả thị trường, lợi nhuận; sự hoạt động của
quy luật kinh tế thị trường; nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
7


Thuộc về cái đặc thù có các yếu tố: tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên
nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan
điểm của Đảng cộng sản; các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ cơ bản trong
phát triển nền kinh tế gắn với mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Trong sự kết hợp giữa các chung và cái đặc thù này chúng tạo thành sự giao
thoa, cái chung không nằm ngoài ngoài mà nằm trong cái đặc thù, nhưng
không bao quát hết cái đặc thù, trong đó kinh tế thị trường là động lực và
phương tiện để phát triển kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa giữ vai trò dẫn
dắt quá trình phát triển nền kinh tế. Như vậy, nội dung cốt lõi và thực chất của
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
- Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự đa dạng các hình thức sở

hữu và các thành phần kinh tế, trong đó sở hữu công hữu xã hội chủ nghĩa giữ
vai trò nền tảng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế. Các thành phần kinh tế cùng
tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau.
- Hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các
thị trường trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính,
đồng thời áp dụng các hình thức phân phối khác; coi trọng hiệu quả kinh tế,
đồng thời đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối và phân phối
lại.
- Có một hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội theo hướng từng bước
thực hiện chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân,
quan tâm hỗ trợ những người nghèo và yếu thế, những đối tượng được hưởng
chính sánh xã hội

8


- Chính phủ điều hành kinh tế vĩ mô trên cơ sở tôn trọng sự tác động
khách quan của thị trường và cơ chế thị trường, tạo các điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể kinh tế hoạt động
- Có hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả
thể chế kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất: Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là tổng thể đường lối, chủ trương, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật, chính sách, hệ thống đảm bảo
xã hội, các quy tắc, quy chế mà Đảng, Nhà nước có nghệ thuật ban hành
nhằm đảm bảo sự phát triển đất nước theo đúng mục tiêu định hướng xã hội
chủ nghĩa đã lựa chọn
2.2 Vai trò của thể chế kinh tế với sự phát triển kinh tế xã hội

Một là, định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, hoạt
động của nền kinh tế. Thể chế kinh tế là những luật lệ, qui tắc nên vai trò
hàng đầu của nó là định hướng, hướng dẫn hành vi và tạo khung khổ pháp lý
cho việc tổ chức hoạt động của nền kinh tế, tác động lớn đến sự lựa chọn và
việc quyết định sản xuất cái gì, đầu tư như thế nào vào lĩnh vực nào, ở đâu...
của các chủ thể kinh tế. Ngoài ra thể chế có tác dụng hướng dẫn trong mối
quan hệ qua lại của con người để khi làm bất cứ việc gì, mỗi người sẽ biết
được cách thức thực hiện những việc đó như thế nào;
Hai là, thể chế kinh tế tạo ra nền tảng kinh tế xã hội của một nền kinh
tế như: chế độ sỡ hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế;
Ba là, thể chế kinh tế đóng vai trò chủ thể quản lý kinh tế, và các công
cụ quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước với tư cách là

9


một thể chế kinh tế, trong quá trình tổ chức quản lý vĩ mô nền kinh tế, đóng
vai trò chủ thể quản lý kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN.
Hệ thống pháp luật, các công cụ kế hoạch hoá, tài chính, tiền tệ trong nền
KTTT luôn có vai trò hết sức quan trọng việc tạo ra khung khổ pháp lý, tác
động đến điều tiết, định hướng nền kinh tế;
Bốn là, thể chế kinh tế hình thành góp phần đồng bộ hoá hệ thống thị
trường, từng bước hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền KTTT
nước ta. Theo quan niệm hiện nay hệ thống thị trường đồng bộ bao gồm hai
vấn đề: Thứ nhất, phải có đẩy đủ các loại thị trường sản phẩm và thị trường
yếu tố sản xuất hay thị trường đầu vào, thị trường đầu ra. Thứ hai, bảo đảm
cho các loại thị trường này phát triển cân đối cả về qui mô, trình độ.
Tính đồng hộ của hệ thống thị trường có vai trò hết sức to lớn đối với quá
trình phát triển hệ thống thị trường và nền kinh tế. Nếu thiếu một trong các

loại thị trường thì một mặt, các chủ thể sản xuất kinh doanh khó có được
những cơ hội và điều kiện thuận lợi, bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng
các nguồn lực cho sự phát triển; mặt khác, tính đồng hộ, tính ràng buộc và
tính cân đối giữa chúng bị vi phạm sẽ cản trở, thậm chí làm phá vỡ các chiến
lược kinh doanh đã định. Trong nền KTTT, giữa các thị trường có mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau, dựa vào nhau và tác động lẫn nhau. Thị trường đầu ra của
ngành này, doanh nghiệp này có khi lại là thị trường đầu vào của ngành khác,
doanh nghiệp khác. Do đó, nếu một thị trường nào đó không phát triển đầy đủ
hoặc trì trệ sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển và phát huy vai trò, chức năng
của các thị trường khác, ảnh hưởng đến hiệu quả tổng thể của hệ thống thị
trường;
Năm là, thể chế kinh tế góp phần tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích
cực là tạo ra cơ chế năng động, sáng tạo và hiệu quả thì cũng thường xuyên
xảy ra tiêu cực cần hạn như cạnh tranh và chính phủ, chạy theo lợi nhuận mà
10


quên đi mục tiêu xã hội, phân hoá giàu nghèo... thông qua hệ thống pháp
luật, hệ thống các chính sách mà tác động điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu
cực trên đây.
3.3. Các nhân tố tác động đến thể chế kinh tế
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển thể chế
kinh tế, nhưng trong đó các nhân tố dưới đây được coi là quan trọng nhất.
- Phương thức sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng làm thay đổi
phần lớn các thể chế chính thức, trong đó có thể chế kinh tế. Việc chuyển từ
phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác sẽ làm thay đổi
căn bản thể chế nói chung của một thuốc gia, do sự khác biệt cơ bản về tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự thay đổi các quan hệ về sở hữu,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng, sự khác biệt về cơ cấu bộ máy nhà nước, sự

thay đổi trong địa vị của những người ban hành và cả những người thực thi
thể chế
- Chế độ sở hữu và cơ cấu quyền tài sản là những yếu tố rất quan trọng
tác động tới thể chế mà trước hết là thể chế kinh tế.
- Hệ tư tưởng là nền tảng tinh thần làm thay đổi nhận thức của con
người về thế giới quan, nhân sinh quan. Hệ tư tưởng có tác động lớn tới việc
giải thích thế giới xung quanh và các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, hệ tư
tưởng có tác động rất lớn tới hệ thống thể chế nói chung, thể chế quản lý kinh
tế nói riêng.
- Mô hình kinh tế cũng có tác động mạnh tới thể chế. Sự khác biệt giữa
các mô hình kinh tế, chẳng hạn như giữa mô hình kinh tế thị trường với mô
hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế
kinh tế. Ngoài ra, sự khác nhau giữa các mô hình kinh tế thị trường (kinh tế

11


thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa...) cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong thể chế kinh tế.
- Cơ cấu quyền lực chính trị, sự tập trung quyền lực hay phân quyền sẽ
tạo ra sự khác nhau cơ bản dẫn tới khác nhau đáng kể trong cả tổ chức nhà
nước lẫn thể chế kinh tế;
- Trình độ của chủ thể quản lý vĩ mô thể hiện trình độ nhận thức các
quy luật khách quan, nhận thức về kinh tế - xã hội, con người, nhận thức về
đối tượng điều chỉnh... Điều này có tác động lớn đến chất lượng của thể chế
kinh
tế, vì các thể chế kinh tế do con người tạo lập ra. Các tập tục thông lệ
cũng có tác động mạnh tới các thể chế chính thức của quốc gia, trong đó có
thể chế kinh tế.
2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

2.1. Bản chất của “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mô hình thể chế kinh tế do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
thực hiện đã có những thay đổi lớn cùng với những đổi mới trong hoạt động
kinh tế – xã hội của đất nước. Sau 25 năm đổi mới, nhận thức của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
ngày càng trở nên sáng tỏ. Những nét cơ bản của một hệ thống lý luận về mục
tiêu và bản chất của một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường tự do
cạnh tranh, nhưng vẫn bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước đầu
được hình thành; trong đó, bước đầu đã xác định phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm:

12


Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”. Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất,
huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, nâng cao đời sống nhân dân.
Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển xã hội, văn hóa,
y tế, giáo dục và đào tạo…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người. Hoàn thiện chế độ phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh

đạo của Đảng.
Như vậy, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái đặc thù là định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kinh tế thị trường phải vừa là động lực, vừa là
công cụ, phương tiện để phát triển kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa giữ
vai trò dẫn dắt quá trình phát triển nền kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa sẽ là công cụ hướng dẫn cho các chủ thể trong nền
kinh tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế – xã hội tối đa, chứ không chỉ đơn
thuần theo đuổi mục tiêu lợi nhuận tối đa. Sự lựa chọn mô hình phát triển
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” – được khẳng định tại Đại
hội IX của Đảng: “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
13


nghĩa xã hội ở Việt Nam” – đã thể hiện quyết tâm khắc phục triệt để (đoạn
tuyệt) hệ thống kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để xây dựng hệ
thống kinh tế thị trường hiện đại.
2.2. Thực trạng quá trình xây dựng và vận hành thể chế kinh tế ở Việt
Nam những năm qua.
Thực tiễn quá trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế trong hai thập niên
qua cho thấy, Việt Nam đang thực hiện theo phương thức “tiến dần từng
bước” và “điều chỉnh từng bước”. Phương thức này đã tỏ ra hữu hiệu nhằm
giúp Việt Nam tránh được các “cú sốc” về kinh tế – xã hội, bảo đảm mục tiêu
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với ổn định và duy trì trật tự xã hội.
Cùng với cải cách kinh tế, quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định.
Tổ hợp ba hệ thống “con” của cả hệ thống thể chế kinh tế gồm: các quy tắc
quy định “luật chơi” kinh tế; các chủ thể tham gia “trò chơi” kinh tế và cơ chế
tổ chức thực thi “luật chơi” kinh tế – đã được xây dựng tương đối đầy đủ và

đang dần hoàn thiện.
- Bàn về hệ thống “con” liên quan đến “luật chơi” kinh tế: Thời gian
qua ở Việt Nam, điểm nổi bật là đã thiết lập rất nhiều văn bản pháp luật và
dưới luật… Nội dung pháp luật kinh tế ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị
trường, với thông lệ quốc tế. Đặc biệt, khung pháp luật đã cho phép thực hiện
những bước đi đầu tiên trong quá trình chuyển đổi hoạt động quản lý về kinh
tế của Nhà nước từ can thiệp trực tiếp sang tác động gián tiếp vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, một loạt cải tiến trong công tác soạn thảo,
thẩm định, ban hành văn bản cũng như kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa các
văn bản pháp luật trên diện rộng và việc phổ biến thông tin pháp luật một
cách tích cực đã góp phần làm cho “luật chơi” đi nhanh vào cuộc sống và
chấp hành nghiêm chỉnh hơn. Có thể nói, toàn bộ hệ thống “luật chơi” kinh tế
14


hiện nay đã không chỉ tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do
kinh doanh, phát triển kinh tế nhiều thành phần, khai thác hiệu quả các nguồn
lực của toàn xã hội, giúp cho thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng (thị
trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa
học – công nghệ,…) hình thành và vận hành hiệu quả hơn, mà còn tạo dựng
và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy đã có những cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng trong
hệ thống “luật chơi”, song cũng phải thừa nhận rằng, hệ thống này hiện vẫn
chưa theo kịp nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới để phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn bản luật pháp quan
trọng còn thiếu hoặc không đầy đủ, đặc biệt là những luật liên quan đến điều
chỉnh hành vi cạnh tranh, đến bảo hộ quyền sở hữu, đến xử lý các vấn đề
tranh chấp khác nhau (nhất là tranh chấp về các quyết định hành chính).
Trong một số luật đã ban hành có biểu hiện không nhất quán, nội dung của
nhiều luật còn thiếu tính cụ thể, dồn những vấn đề cho các văn bản dưới luật

xử lý, nên dễ làm giảm tính ổn định của luật. Nội dung một số luật còn mang
nặng tư duy chủ quan, bao cấp, cục bộ, không còn phù hợp với cơ chế thị
trường và lợi ích toàn xã hội.
Tính khả thi của một số luật chưa cao do quá trình nghiên cứu xây dựng
dự luật chưa được thực hiện nghiêm túc và cặn kẽ, chưa hình dung được đầy
đủ các khả năng có thể phát sinh trong quá trình thực hiện luật. Tính khả thi
của luật chưa cao cũng có phần còn do quy trình lập pháp chưa được thực
hiện một cách hợp lý với một số lý do khác nhau như: quá trình xây dựng dự
luật chưa có thời gian thỏa đáng để được thảo luận công khai, nhất là ít tiếp
thu được ý kiến đầy đủ của những đối tượng bị điều chỉnh; dự án luật thông
thường được xây dựng với tư duy hướng về phía thuận lợi cho công tác quản
lý của các cơ quan nhà nước và thường được chính các cơ quan quản lý
chuyên ngành soạn thảo. Bởi vậy, không ít luật và các văn bản pháp luật mới
15


đưa ra đã xuất hiện những bất hợp lý cần chỉnh sửa, thậm chí khó đi vào cuộc
sống.
- Bàn về các chủ thể tham gia “trò chơi” kinh tế: hai trong ba chủ thể
rất quan trọng là doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự đã ngày càng thể
hiện vai trò to lớn, tích cực trên thị trường. Doanh nghiệp nhà nước đang
được đổi mới trên cơ sở xác định rõ chức năng sở hữu nhà nước với chức
năng quản lý nhà nước để bảo đảm minh bạch quyền của chủ sở hữu và đang
phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
khác. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là khối doanh nghiệp trong
nước, cũng đang thực sự đóng góp có chiều sâu vào phát triển kinh tế của đất
nước. Khối các tổ chức xã hội dân sự ngày càng thể hiện vai trò trong việc
tham gia tích cực vào các hoạt động cung cấp dịch vụ công, thay thế dần vị trí
của các cơ quan công quyền trong việc bảo đảm một số dịch vụ công cộng.
Một chủ thể đặc biệt quan trọng là Nhà nước, với đặc thù vừa tham gia

điều hành hoạt động kinh tế và vừa tham gia hoạt động kinh tế, thời gian qua
cũng có nhiều đổi mới tích cực, đó là: đổi mới cơ cấu hệ thống bộ máy quản
lý nhà nước; đổi mới chức năng kinh tế, nhà nước theo hướng gần hơn với cơ
chế thị trường. Tuy nhiên, do chưa xác định và lý giải thấu đáo vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế, nên việc xác định chức năng của bộ máy nhà
nước nói chung và của từng cơ quan nói riêng gặp nhiều khó khăn. Chính vì
vậy, quá trình sắp xếp lại bộ máy tỏ ra còn nhiều lúng túng trong suốt 25 năm
qua. Cũng vì lý do này, sự can thiệp của Nhà nước nhiều khi còn chưa đúng
chỗ và chưa đúng lúc, do đó nhiều biện pháp thực thi còn kém hiệu quả, thậm
chí còn có tác động ngược lại với mong đợi.
Yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức là yếu tố con người. Chuyển
sang nền kinh tế thị trường, bộ máy nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng những
công chức của cơ chế cũ. Việc thay đổi tư duy, trang bị kiến thức mới còn rất
16


chậm chạp. Chất lượng đội ngũ công chức cho đến nay vẫn chưa đáp ứng
được những yêu cầu của công cuộc cải cách về cả tư duy lẫn kiến thức, điều
đó đã cản trở đáng kể tiến trình cải cách và sự phát triển của đất nước.
- Bàn về “cơ chế tổ chức thực thi” luật chơi kinh tế: ở đâu cũng vậy, dù
là thực thi cơ chế tự do cạnh tranh thị trường; cơ chế phân cấp quản lý kinh tế;
cơ chế phân bổ nguồn lực; cơ chế phối hợp hay cơ chế tham gia, báo cáo, giải
trình,… bị ảnh hưởng rất lớn trước hết bởi tư duy của các cơ quan hoạch định
chính sách. Ở nước ta tư duy phân biệt đối xử, lợi ích cục bộ, đùn đẩy trách
nhiệm, ôm đồm nhiều nhiệm vụ quá khả năng, đặc biệt tư duy “công chức”
đóng vai trò là “quan”… vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
công chức. Vì vậy, với các cách tư duy này đã đẩy doanh nghiệp và người dân
luôn ở vào thế “người đi xin” và công chức là “người cho” – ban phát, hạn
chế rất nhiều sáng kiến kinh doanh trong xã hội cũng như làm nảy sinh thêm
nhiều chi phí giao dịch dẫn đến làm xấu môi trường đầu tư kinh doanh. Ngoài

ra, việc giám sát thực thi luật thực hiện rất lỏng lẻo ở nhiều lĩnh vực dẫn đến
xuất hiện rất nhiều hiện tượng lừa đảo, tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng
trong đời sống kinh tế – xã hội. Trong điều kiện đội ngũ công chức ở một số
lĩnh vực còn hạn chế cả về chất lượng và số lượng, việc giám sát càng trở nên
rất khó khăn. Trong khi đó, chúng ta vẫn chưa hình thành được một cơ chế
khuyến khích sự giám sát của các tổ chức ngoài nhà nước, của cộng đồng. Để
thực hiện điều này đòi hỏi phải thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình dân chủ và
công khai, minh bạch các chính sách, các quyết định từ các cơ quan công
quyền.
Đi liền với việc xác định nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế là
quá trình phân cấp quản lý. Trong thời gian qua, việc phân cấp hầu như dựa
chủ yếu vào tiêu thức quy mô, ít dựa vào đặc điểm và tính chất của vấn đề,
của công việc. Phân cấp không phù hợp đã dẫn đến hiện tượng “xin – cho”,
hiện tượng đùn đẩy giải quyết công việc lên cấp trên. Sự phân cấp không hợp
17


lý trong công việc tất yếu sẽ dẫn đến sự bất hợp lý trong hệ thống tổ chức ở
các cấp. Bên cạnh đó, hiệu quả của phân cấp cũng lệ thuộc rất nhiều vào cơ
chế phối hợp giữa các cấp cũng như giữa các cơ quan đồng cấp. Hiện nay, sự
phối hợp giữa các cấp tỏ ra không hiệu quả, sự phối hợp giữa các cơ quan
đồng cấp cũng rất yếu, kể cả việc trao đổi những thông tin cần thiết. Cho đến
nay, hầu như chưa có một quy định pháp lý nào chế định việc trao đổi thông
tin bắt buộc hoặc công bố thông tin công khai đối với các cơ quan nhà nước.
Như vậy, có thể nói trong ba hệ thống “con”, hệ thống “cơ chế tổ chức thực
thi” đang là hệ thống yếu nhất.
2.3. Quan điểm và định hướng xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới
2.3.1. Về quan điểm
Cần khẳng định tính tất yếu lịch sử của quá trình phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này là do: mô hình kế hoạch
hóa tập trung (tồn tại nhiều năm) tỏ ra thiếu sức sống và khả năng phát triển
nội sinh về kinh tế; kinh tế thị trường được nhìn nhận như là một phương thức
sản xuất có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó được sử
dụng phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng của mọi dân tộc mà không
phải là tài sản riêng có của chủ nghĩa tư bản. Qua tổng kết thực tiễn 20 năm
đổi mới và trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại,
trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quyết định vừa phù hợp với
xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị
truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong quá trình phát triển.
Nội hàm và bản chất của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” phải được xác định rõ và được khẳng định chắc chắn thông qua hệ
thống thể chế kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới. Mặc dù những nét cơ
18


bản của hệ thống lý luận đã được hình thành, song trong đó vẫn còn khá nhiều
khái niệm chưa được sáng tỏ. Vì vậy, cần sớm xác định rõ hơn nữa nội hàm
của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cơ sở cho việc xây
dựng mới hoặc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện có ở nước
ta.
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam phải phù hợp với các
cam kết của quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối
với mọi quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Các thể chế kinh tế ở nước ta phải
được xây dựng và vận hành theo hướng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại,
hỗ trợ tốt cho việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế với các thể chế kinh
tế toàn cầu, khu vực và song phương mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải cho phép
xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội và

tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định, có tính cạnh tranh cao.
Bảo đảm tính đồng bộ, công khai, dân chủ trong quá trình xây dựng thể
chế kinh tế ở Việt Nam: tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, trong hệ thống
chính sách, cơ chế là một tiền đề để bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả thi
hành.
2.3.2. Định hướng một số giải pháp:
- Tiếp tục làm rõ nội hàm cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa: đặc biệt một số vấn đề cơ bản liên quan đến bản chất
của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” như: công cụ thực hiện
kinh tế thị trường, các vấn đề liên quan đến sở hữu, vai trò của Nhà nước,…
cần sớm được làm sáng tỏ và được thể chế hóa.

19


- Hoàn thiện khung pháp luật cho nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa: đó là khung pháp luật về sở hữu (làm rõ nội hàm cụ thể của sở
hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và xác định rõ quyền của chủ sở hữu, quyền
của người sử dụng, cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân,…); khung
pháp luật bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, phù hợp với cam kết quốc tế; xác định nguyên tắc và làm rõ
giới hạn của sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào
hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng khung pháp luật về: hợp đồng mang
tính thống nhất, giao dịch điện tử, tài chính công, thuế, tài nguyên và môi
trường…
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế thị trường:đối
với chủ thể là Nhà nước, để hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế,
cần:
+ Cải cách mạnh hơn nữa tổ chức bộ máy hành chính thông qua việc
từng bước điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng,

nhiệm vụ giữa chính quyền các cấp, cũng như các cơ quan đồng cấp, chuyển
giao cho doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội dân sự thực hiện một số dịch vụ
công không nhất thiết do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp đảm nhiệm;
cải tiến phương thức quản lý cũng như lề lối làm việc của cơ quan nhà nước
các cấp,…;
+ Kiên quyết đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt xóa bỏ những quy định không cần thiết về cấp phép, thanh tra,
kiểm tra, giám định, kiểm dịch…;
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thông qua đổi mới
công tác tuyển chọn, sử dụng, sa thải và quản lý cán bộ, đồng thời tăng cường
các biện pháp giáo dục cán bộ về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm, tận
tụy với công việc đi đôi với trả lương thỏa đáng (lương đủ cao và có các chế
20


tài đi kèm để góp phần chống tham nhũng), thực hành kỷ luật nghiêm minh,
nghiêm khắc.
Đối với chủ thể là doanh nghiệp, cần tiến hành: đổi mới phương thức
giám sát doanh nghiệp theo hướng nâng cao tính chủ động và tự chịu trách
nhiệm; hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện cơ
chế hỗ trợ, hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế; mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường năng lực thị
trường cho các chủ thể kinh tế nông nghiệp và nông thôn,…
Đối với các tổ chức xã hội dân sự – một bộ phận cấu thành quan trọng
và ngày càng thể hiện vai trò không thể thiếu của nền kinh tế, cần có cơ chế
khuyến khích, hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức này mạnh hơn nữa, đặc biệt là
tạo điều kiện cho việc tham gia thực thi một số nhiệm vụ: cung cấp các dịch
vụ công; thay thế Nhà nước trong việc thực hiện một số chức năng kinh tế –
xã hội; thực hiện vai trò giám sát, giám định xã hội và phản biện chính sách;
khuyến khích tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi pháp luật,…

- Hoàn thiện từng bước cơ chế thực thi thể chế kinh tế thị trường:
+ Bảo đảm lấy “tự do cạnh tranh thị trường” làm cơ chế chủ yếu cho
việc vận hành nền kinh tế, tập trung vào các hướng điều chỉnh cấu trúc thị
trường, điều chỉnh hành vi và giám sát các hành vi lạm dụng vị thế trên thị
trường;
+ Hoàn thiện việc phân cấp trong quản lý nhà nước về kinh tế, trong đó
đặc biệt là xác định rõ những nhiệm vụ Nhà nước cần làm và những việc
không nhất thiết phải thực hiện, phân định rõ các công việc địa phương có
toàn quyền quyết định và những việc phải tham vấn ý kiến của Trung ương
hoặc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương, cần nghiên cứu kỹ để

21


thực hiện cơ chế phân cấp khác nhau cho các địa bàn khác nhau tùy theo điều
kiện và năng lực các cấp;
+ Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
hoạch định, thực thi chính sách và cung cấp dịch vụ công. Song song với việc
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước, cần có
các quy định, chế tài bảo đảm nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình,
có sự tham gia của cộng đồng, làm rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan
và cá nhân…;
+ Tạo lập các cơ chế hữu hiệu để mở rộng quyền tham gia, quyền giám
sát thực hiện chính sách và quyền được thông tin của người dân, đặc biệt chú
trọng nâng cao chất lượng, lưu lượng thông tin cho các chủ thể tham gia thị
trường và thể chế hóa quyền được tham gia và cơ chế tham gia của người dân
bằng việc sớm ban hành Luật Trưng cầu ý dân và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật này.

22



KẾT LUẬN
Thể chế kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế – xã
hội. Đặc biệt chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghiên cứu thể chế kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng tới thể chế kinh
tế, nhất là kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta sẽ có được các chủ
trương, chính sách hợp lý để xây dựng và phát triển nó.
Phát biểu khai mạc Hội nghị toàn thể lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X , Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: "Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ.
Chúng ta phải vừa làm, vừa đúc kết thực tiễn. Vấn đề đặt ra là phải tạo được
sự thống nhất nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương, giải pháp để
đi đến sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn, từng bước hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải tôn
trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường, đồng thời phải phù hợp với điều kiện cụ thể phát triển của Việt Nam.
Phải bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế;
giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường để hình thành và vận hành
thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa thể chế
kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn
kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát
triển văn hóa và bảo vệ môi trường...".

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng IX, X
2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hà Huy Thành chủ biên. Nxb Chính trị quốc gia
3. Tạp chí Cộng sản số 11/2006, số 23/2010
4. Tạp chí Xây dựng Đảng 12/10/1010

24


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................1
I. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN
PHÁT TRIỂN....................................................................................................2
1- Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do................................2
2 – Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội............................3
3 – Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển.......................................3
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở MỘT SỐ NƯỚC KHÁC...............................................................................5
III. THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM..............................................7
1. Thể chế kinh tế và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế.....................7
1.1. Thể chế, thể chế kinh tế..............................................................................7
2.2 Vai trò của thể chế kinh tế với sự phát triển kinh tế xã hội.........................9
3.3. Các nhân tố tác động đến thể chế kinh tế.................................................11
2. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
.........................................................................................................................12
2.1. Bản chất của “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa” ở Việt Nam...........................................................................................12
2.2. Thực trạng quá trình xây dựng và vận hành thể chế kinh tế ở Việt
Nam những năm qua.......................................................................................14
2.3. Quan điểm và định hướng xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới..........................18
2.3.1. Về quan điểm.........................................................................................18
2.3.2. Định hướng một số giải pháp:...............................................................19
KẾT LUẬN.....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................24


×