Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận cao học các tác phẩm kinh điển của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.1 KB, 26 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

“Đường cách mệnh" là một tác phẩm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mang tính lịch sử quan trọng của Đảng và dân tộc ta, là cuốn sách giáo
khoa về chủ nghĩa cộng sản của những người cách mạng Việt Nam, góp
phần to lớn trong việc cổ vũ, giáo dục cả một thế hệ thanh niên và nhân
dân ta về con đường cách mạng đúng đắn.
Tác phẩm là tập hợp và biên soạn từ những bài giảng của Người ở
các lớp đào tạo thanh niên yêu nước Việt Nam tại Quảng Châu 1925 –
1927, được Bị áp bức dân tộc Liên hiệp hội, tuyên truyền bộ ấn hành lần
đầu tiên tại Quảng Châu – Trung Quốc, năm 1927.
Trong tác phẩm đã nêu nên rất nhiều vấn đề về mục đích của
Đường cách mệnh, về giáo dục đạo đức nhân cách cho người cách mạng,


cho học viên, về những khái niệm cách mạng, rồi con đường cách mạng
Việt Nam phải đi và những nhân tố đảm bảo cho cuộc cách mạng giải
phóng dân ộc giành thắng lợi. Ở đó vấn đề mà trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm có
thể nói đến là lĩnh vực đạo đức nhất là đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên. Tư tưởng đạo đức của Người bao quát mọi đối tượng, đề
cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trên mọi quan hệ xã hội
với phạm vi rộng, hẹp khác nhau

1



NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÁCH MỆNH
TRONG TÁC PHẨM "ĐƯỜNG CÁCH MỆNH"

1. Một số vấn đề lý luận chung về “Cách mệnh” và “đường cách
mệnh”
Tại Hội thảo khoa học: “Giá trị lý luận và thực tiễn tác phẩm “Đường
cách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 12 tháng 9 năm 2007, tại
Hà Nội, đã có tới 58 bài tham luận, công trình nghiên cứu của các đồng chí
lão thành cách mạng, các giáo sư, tiến sĩ và các nhà khoa học, trong đó chủ
yếu bàn về vấn đề tư cách người cách mạng và đạo đức cách mạng. Trong
hội thảo đã có nhiều quan điểm, cách nhìn nhận mới về các vấn đề trong tác

phẩm.
Theo nhà báo - học giả Quang Đạm, hai chữ “cách mệnh” từ Trung
Quốc “vào” Việt Nam ta có thể là vào những năm xã hội Việt Nam tiếp
nhận “Tân thư” của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu - trước, sau vài năm
cùng với các tác phẩm từ nước Pháp của R.Descartes, Montesquieu - BT).
Chữ “cách mệnh” theo tinh thần của Nho giáo Trung Quốc là “đổi cái mệnh
Trời giao cho con Trời (thiên tử) - là vua nếu vua không làm tròn nhiệm vụ,
giữ cái mệnh ấy, vì vậy phải giao “sứ mệnh” này cho con Trời khác”. “Nhập
cảng” từ Châu Âu với từ gốc Latinh là “Révolution” - có nghĩa ban đầu là
"quay lại" - được "vào" Pháp với “Révolution”, Anh: “Revolution”, Tây
Ban Nha: “Revolucion”... Nhiều từ điển phương Tây đều định nghĩa theo từ
gốc Latinh: “Vòng quay, sự quay vòng, chu kỳ quay vòng”. Nghĩa thứ hai

được chú thích thêm là: Biến đổi bất ngờ táo bạo trong cơ cấu kinh tế, xã
2


hội", “bước ngoặt cơ bản, bất ngờ”, “thay đổi từ một tình trạng chất lượng
này sang một chất lượng khác”, “iểu hiện biện chứng của sự phát triển vật
chất, xã hội, tư tưởng”.
Trong Sổ tay từ điển Hán Việt (NXB Giáo dục VN, 1989) viết: “Cách
mạng là một biến đổi và căn bản lớn trong quan hệ xã hội, chính trị, thực
hiện thông qua đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoặc biến
đổi về căn bản. Quá trình thay đổi lớn về căn bản theo hướng tiến bộ”.
Những định nghĩa trên, tuy ý tứ có đôi chút chưa “nhập” vào nhau

chặt chẽ, đều có mặt “thay đổi, tiến bộ” nhưng ít nhiều mang màu sắc giai
cấp đấu tranh của chủ nghĩa Mác ở Châu Âu (mà Châu Âu chưa phải toàn
thế giới) - Nguyễn Ái Quốc viết vào năm 1924 - chứ không phải ở Việt
Nam.
Kế thừa và phát huy sáng tạo giá trị nhân loại, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa về “cách mạng”, một
định nghĩa – một chân lý rất gắn gọn nhưng rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu, dễ
nhớ.
“Cách mệnh” được Nguyễn Ái Quốc nêu ra trong tác phẩm “Đường
kách mệnh”, thực sự là một định nghĩa mới - chưa hề có trong các từ điển
bách khoa: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái
tốt: Thí dụ ông Galilê (1633) là khoa học cách mệnh..., ông Stephenxoong

(1800) làm ra xe lửa là cơ khí cách mệnh... ông Đácuyn (1859) là cách
mệnh... ông Các Mác là kinh tế học cách mệnh".
Có thể thấy không phải ở một con người, một đảng, một nhà nước...
chỉ làm cách mạng một lần là thôi, là đủ. Vì cách mạng có vận động, làm,
tìm được, xây dựng nên cái “mới” rồi, cái “tốt” rồi, nhưng do nhiều nguyên
3


nhân cái mới đang có, cái tốt hiện hành, đã trở thành cũ, xấu, đòi hỏi một
cuộc cách mạng “phá cái xấu, đổi ra cái tốt, phá cái cũ đổi ra cái mới”...
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho
sự đúng đắn, vững bền đối với định nghĩa của Nguyễn Ái Quốc về “cách

mệnh”. Cách mạng không phải chỉ làm một lần đánh đổ đế quốc, phong
kiến là xong, mà cách mạng là phải luôn luôn đổi mới, ngay trên cái mới đã
cũ, cái tốt cũ đang dần dần xấu đi... mặc rù đã hơn 84 trôi qua nhưng định
nghĩa “cách mệnh” trong tác phẩm “Đường kách mệnh” đến hôm nay vẫn
còn nguyên giá trị về lý luận cũng như về thực tiễn, đó cũng là cẩm nang
quý báu cho Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước trong tình hình
mới.
2. Tác phẩm "Đường cách mệnh" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng
giải phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của
giai cấp vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách

mạng soi đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế
giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như:
Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp
được thành lập (1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)...
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng
chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời

4


cũng báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới

bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng
thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc
ở các thuộc địa.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát
trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác
- Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới
- cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở
các nước.

Đặc điểm nổi bật của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ
bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa
giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân (chủ yếu là nông dân).
Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa
dân tộc tiến lên.
Dưới ách thống trị của thực dân – phong kiến, đã có hàng trăm cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản,
nhưng rút cuộc đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra,
nhân dân đang mong đợi đó là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực
dân phong kiến.


5


Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu
chính trị khác nhau. Song, các tổ chức yêu nước này đều thiếu đường lối
chính trị đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa
học, cho nên, họ không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng trên
cơ sở hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, có đường lối chính trị đúng đắn,
có tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Hồ Chí
Minh đã viết tác phẩm "Đường kách mệnh" đã tạo cơ sở cho việc hình

thành Đảng Cộng sản cách mạng và khoa học.
2.2. Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm "Đường cách
mệnh"
2.2.1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm.
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách
mệnh”. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao
trùm toàn bộ tác phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của
độc lập tự do và vạch con đường cụ thể để giành thắng lợi. Kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách
mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách
mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của

dân tộc với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm
vụ giải phóng dân tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô
sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ
6


nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo.
2.2.2. Nội dung của tác phẩm
Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề, tuy nhiên có thể khái quát chia
nội dung tác phẩm này thành ba phần:

- Phần thứ nhất, gồm một số bài viết dành để trả lời cho các câu
hỏi: Cách mạng là gì? Vì sao phải làm cách mạng và làm cách mạng như
thế nào?
- Phần thứ hai là những bài học cách mạng rút ra từ lịch sử cách
mạng của các nước Mỹ, Pháp, Nga…
- Phần thứ ba là các bài giảng trình bày tóm tắt về các tổ chức cách
mạng, từ Quốc tế cộng sản đến các tổ chức công hội, thanh niên, phụ nữ.
Đối với một tổ chức cách mạng, Bác đều chú trọng rút ra những kết luận
cần thiết cho cách mạng Việt Nam.
Tác phẩm đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương pháp cách
mạng Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng
kết kinh nghiệm cách mạng các nước. Những quan điểm đó là cơ sở cho

Đảng xây dựng phương pháp cách mạng của mình. Bao gồm: Tư cách
người cách mệnh; con đường cách mệnh; lực lượng cách mạng; về đoàn kết
quốc tế; về vai trò của Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng...
Bằng tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc đã đáp ứng yêu cầu bức bách của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX,
chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

7


2.3. Ý nghĩa của tác phẩm

- "Đường cách mệnh" là tác phẩm nối tiếp tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân Pháp” định hướng cho nhân dân ta hành động đi tới giải phóng và có vai trò
quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập
chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân,
nhằm xây dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập
Đảng.
Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhận cho cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng
cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh
chính trị của Đảng.

Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong
trào công nhân phát triển mạnh mẽ .
Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng
và các tổ chức quần chúng như công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để
Đảng tập hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
- Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt
Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện
trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết
hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Tác phẩm cũng là một hình

8


mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của tác
giả.
Tác phẩm Đường cách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển
biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạng của
cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
3. Vấn đề tư cách người cách mệnh trong tác phẩm
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức là cái gốc của người cách mạng,
do vậy người cán bộ, đảng viên trước hết phải tự mình nêu một tấm gương

đạo đức, phải giác ngộ sâu sắc về vai trò nêu gương của mình. Bất kỳ ở đâu
và bao giờ Người cũng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải trở thành tấm
gương mẫu mực về nhân cách đạo đức. Người nói, sự nghiệp cách mạng là
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng loài người, đó là một công việc to
tát, nếu tự mình đã không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì.
Theo Hồ Chí Minh thì cuộc cách mạng ở Việt Nam do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, không chỉ dừng lại ở giai đoạn là giải phóng dân tộc mà
còn tiến lên một giai đoạn cao hơn là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đó là cuộc cách mạng giải phóng hoàn toàn xã hội, giải phóng triệt để con
người, để xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Theo nghĩa đó, thì đây còn có nghĩa là
một cuộc cách mạng đạo đức vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Đạo đức có

vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng theo quan điểm Hồ Chí
Minh, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt nam là một động lực tinh thần,

9


một sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xây dựng chế độ mới.
Như vậy, con người trong quá trình thực hiện vai trò của mình trong
sự nghiệp cách mạng đó phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cần cho mọi
người, và đạo đức đặc biệt cần thiết cho cán bộ, đảng viên, cho những
người cách mạng. Bởi vì trong cuộc cách mạng khó khăn, gian khổ đó,

người cán bộ phải hy sinh rất nhiều thậm chí là cuộc sống để phục vụ lý
tưởng. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người có đạo đức chân chính mới
chiến thắng được cám dỗ và chiến thắng được bản thân để hoàn thành
nhiệm vụ.
Cần, kiệm, liêm, chính, theo Hồ Chí Minh là bốn đức cơ bản của con
người.
Bác nói:

Trời có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có 4 đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, không thành trời

Thiếu một phương, không thành đất
Thiếu một đức, không thành người.

Như vậy đạo đức là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích nội dung cần, kiệm, liêm, chính rất rõ
ràng, dễ hiểu, dễ nhớ. Người đã dành thời gian viết hẳn một cuốn sách giải
thích 4 chữ "Cần, kiệm, liêm, chính", với bút danh Lê Quyết Thắng vào năm
1949.
Cần: Người phân tích cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp. Chỉ ra rằng cần không
chỉ là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, mà còn là phải biết làm việc có
10



kế hoạch, có sự phân công, tính toán một cách khoa học, là phải biết lao
động có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động. Vì xét cho đến cùng, như Lênin nói, cái quyết định
thắng lợi của chế độ mới đối với chế độ cũ là ở chỗ nó đưa ra được năng
suất lao động mới cao hơn.
Đối với cán bộ công nhân viên chức, Người cho rằng: Cần là làm việc
phải đến đúng giờ, chớ đến muộn, về sớm, làm việc mau chóng, chu đáo.
Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày mai. Phải nhớ rằng
dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta, trong những thời giờ
đó, ai lười biếng tức là lừa gạt dân.
Nhìn trên tầm vĩ mô, cả nước cần cù siêng năng có ý nghĩa hết sức to

lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Mỗi người siêng năng thì ắt sẽ tiến
bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làm phồn
thịnh. Cả nước cần cù siêng năng thì dân giàu nước mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, cần cù, siêng năng phải đi liền với kế hoạch thì
cần cù, siêng năng mới có tác dụng to lớn. Công việc bất kỳ to nhỏ đều có
điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, thì sẽ hao tổn
thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít.
Cũng theo Bác, cần và chuyên phải luôn luôn đi đôi với nhau. Chuyên
nghĩa là dẻo dai bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà 10 ngày
không cần thì cũng vô ích... cần là luôn luôn cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả
đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực
lượng của mình để làm việc cho lâu dài.

Kiệm: theo Bác đó chính là sự tiết kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động;
tiết kiệm thì giờ; tiết kiệm tiền của dân, của đất nước, của ngay cả chính
11


mình; phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành
cái to. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, khi không nên tiêu xài thì một đồng
xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào,
cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như
thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm thì phải kiên quyết chống xa xỉ, ăn chơi, ăn
không ngồi rồi, mà hãy tự mình lo chính cuộc sống của mình và xã hội v.v...
Liêm: tức là trong sạch; không tham lam, không tham tiền của, địa vị,

lợi danh, không tham ăn ngon, mặc đẹp, sống yên, không ham người tâng
bốc mình... những cán bộ ở các công sở, từ xã, phường cho đến Trung ương
phải luôn lấy chữ Liêm làm đầu.
Bác nói: "Liêm là thước đo có tình người hay không”; "Nếu tham tiền
của, địa vị, danh tiếng là bất liêm”. Cán bộ phải thực hành - chữ liêm trước
để làm kiểu mẫu cho dân "Quan tham vì dân dại” bởi lẽ nếu dân hiểu biết
không chịu đút lót, thì quan dù không liêm cũng phải hoá liêm. Chính vì thế
dân phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm. Mỗi
người phải nhận thấy rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là
có tội với nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên
tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là
một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh

tiến bộ.
Nhìn vào thực tiễn trong cuộc sống thời gian qua, đã có những lúc
chúng ta mất những cán bộ cách mạng, những người đã từng vào sinh ra tử,
chỉ vì một chốc lát họ không làm chủ bản thân đã đánh mất chữ liêm trong
lòng mình.

12


Chính: tức là không tà, thẳng thắn, đúng đắn v.v... tất cả đều là những
đức tính cần thiết cho con người, mỗi gia đình, mỗi tập thể, mỗi cơ quan,
địa phương cũng như của cả dân tộc. Là người làm việc công, phải có công

tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm
việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên tư ân, tư huệ,
hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người
có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ,
chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải
trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm "quan cách
mệnh".
Theo Hồ Chí Minh mỗi người cần thực hiện đạo đức trên 3 mặt:
Đối với mình: Không tự cao tự đại, vì tự cao tự đại thì thất bại. Thất
bại vì kiêu ngạo vừa cạn lại bé như đĩa như chén, còn người khiêm tốn thì
rộng lại sâu như biển như sông.
Đối với người: Không nịnh trên nạt dưới, vì nịnh hót là đánh mất

mình, mà đánh mất mình là sai lầm lớn nhất của đời người; vì đối với loài
người, lễ vật lớn nhất là sự bao dung.
Đối với công việc: Không dối trá lọc lừa, vì dối trá lọc lừa cũng như
"tiền giả", "thuốc độc" nó vô cùng nguy hiểm. Việc công đặt trên việc tư.
Việc thiện việc đúng dù nhỏ mấy cũng làm, khó mấy cũng làm, việc ác việc
sai trái dù nhỏ mấy cũng tránh, lợi mấy cũng không làm.
Chí công vô tư: Có nghĩa là hết sức lo cho việc chung không màng tư
lợi. Hết sức về sự công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của cách
mạng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện chí

13



công vô tư cũng có nghĩa như thực hiện đạo đức, mình vì mọi người, mọi
người vì mình, theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể.
Người cũng chỉ rõ phải: nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, bởi vì, theo Người: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy
hiểm của đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Chủ nghĩa cá nhân là một
trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ gian ngoan, xảo quyệt, nó
khéo léo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là nguyên nhân sinh ra căn
bệnh tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi, thích địa vị,
quyền hành, tự kiêu, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc

đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh v.v...
Một người mà cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư thì đó là một
con người đáng kính. Vì đó là những người: “Giàu sang không thể quyến
rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục”. Đó là
những con người trọng đạo lý, vì đạo lý, tôn thờ đạo lý, vì lẽ công bằng,
không khuất phục quyền uy. “Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ; cúi đầu làm
ngựa đám nhi đồng”.
Người không chỉ nêu lên từ đạo đức mà Người còn chỉ rõ đạo đức là
cán bộ phải: Đối với mình, đối với đồng chí mình, đối với công việc, đối với
nhân dân, đối với đoàn thể phải như thế nào? Và con đường để rèn luyện đạo
đức cho cán bộ, đảng viên là: "Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, cho dân tộc; Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng,

thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng; Đặt lợi ích của Đảng và nhân
dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết
14


sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu
trong mọi công việc; Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự
phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng cải tiến công tác của mình và
cùng đồng chí mình tiến bộ".
Theo Hồ Chí Minh, rèn luyện tư cách, đạo đức không chỉ là thực hiện
tốt những nguyên tắc mà còn phải đấu tranh chống lại những biểu hiện phi
đạo đức. Đó là địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu,

óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, kỷ luật
không nghiêm, ích kỷ, hủ hoá, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu
ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh xu
nịnh, a dua, bệnh khai hội, bệnh nể nang, bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham
ô, lãng phí…
II. HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH
NGƯỜI CÁCH MỆNH TRONG TÁC PHẨM "ĐƯỜNG KÁCH MỆNH" TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Sự cần thiết phải học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
tư cách người cách mệnh trong bối cảnh hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo

đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh đạo đức là cái gốc của người cách mạng, do vậy người cán bộ,
đảng viên trước hết phải tự mình nêu một tấm gương đạo đức, phải giác ngộ
sâu sắc về vai trò nêu gương của mình. Bất kỳ ở đâu và bao giờ Người cũng
15


đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải trở thành tấm gương mẫu mực về nhân
cách đạo đức. Người nói, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng loài người, đó là một công việc to tát, nếu tự mình đã không

có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì. Theo Người trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; đất có bốn
phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
thiếu một mùa thì không thành trời; thiếu một phương thì không thành đất;
thiếu một đức thì không thành người. Đối với người cán bộ cách mạng, nếu
không có bốn đức ấy thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Do vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, mỗi người cách
mạng phải giữ gìn cho bản thân mình trong sạch sao cho “giàu sang không
thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục”.
Trong cuộc sống, ai cũng có những nhu cầu cầu nhất định về vật chất
và tinh thần cho bản thân và gia đình. Nhưng nếu không có sự tự điều

chỉnh, để nhu cầu hợp lý trở thành những đòi hỏi phi lý, từ nhu cầu vật chất
chính đáng trở thành ham muốn quá đáng, và hơn nữa nếu nhu cầu không
còn là phương tiện mà trở thành mục đích, dục vọng của cuộc sống thì con
người sẽ dẫn đến thoái hoá, biến chất, hư hỏng nhanh chóng. Vì thế, khi đã
trau dồi các đức tính trở thành những phẩm chất tự nhiên của chính mình,
thì con người sẽ có khả năng tự điều chỉnh nhu cầu và hành vi của mình một
cách hợp đạo đức. Trong công việc thường ngày, người cán bộ luôn phải
trực diện giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích, nếu xa rời các đức
tính ấy thì rất dễ bị sa ngã, hủ bại.

16



Trong thực tế hiện nay, những hiện tượng tiêu cực như tham nhũng,
hối lộ, lãng phí của công trước kia chỉ diễn ra ở cán bộ, đảng viên hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế nhằm lợi dụng chức quyền, lợi dụng sơ hở trong quản
lý kinh tế để móc ngoặc, đầu cơ, buôn lậu, sống xa hoa, truỵ lạc.... Và mức
độ ngày càng tăng, nếu trước kia chỉ là ăn cắp vặt, bớt xén mang tính chất
đơn lẻ thì nay diễn ra với nhiều thủ đoạn, có tính tổ chức chặt chẽ, móc nối
chằng chịt trên dưới, trong ngoài để trục lợi như: thông đồng, chia chác giữa
các bên trong đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, mua sắm vật
tư, thiết bị, hàng hóa, đấu thầu và chỉ định thầu, phân phối dự án, hoàn thuế
giá trị gia tăng, cấp phát vốn, nhận lối lộ trong điều tra, truy tố, xét xử; ra
giá trong việc cung cấp thông tin bí mật và trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.

Trong khi đó, tình trạng bình bầu, đánh giá đảng viên, công chức của nhiều
cơ quan, tổ chức còn chung chung, việc nhận xét cán bộ lại quan liêu, kết
luận đánh giá đa số đều hoàn thành công việc, nhưng trên thực tế khi cán
bộ, công chức giải quyết công việc lại dây dưa, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm,
làm cho doanh nghiệp, nhân dân kêu ca, phàn nàn; thậm chí có ý kiến đánh
giá sai lệch tới mức độ vô trách nhiệm...
Nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực trên là do chúng ta chưa
lường hết tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, chưa kịp nhận dạng
những hành vi tiêu cực nảy sinh nên lúng túng trong chuẩn bị tư tưởng, khả
năng tự đề kháng trong cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng không có những
biện pháp ngăn ngừa, khắc phục một cách hiệu quả khi sự việc sảy ra...
Nhưng nguyên nhân cơ bản là do xa rời các giá trị tư cách, đạo đức cách

mạng. Tất cả đều làm tổn hại đến uy tín, thanh danh của Đảng, làm lu mờ
vai trò nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước quần chúng nhân dân.
17


Điều đó làm cho chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác về tư cách người
cách mệnh.
Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn này là vấn đề cần thiết nhưng trước hết phải
bằng việc lựa chọn, bố trí đúng cán bộ, nhất là người đứng đầu phải có đức,
có tài, có bản lĩnh, tâm huyết và bằng chương trình hành động cụ thể, nêu cao
trách nhiệm của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị. Thường xuyên giáo dục về
tư tưởng chính trị, nhân cách, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong chỉ đạo

thực hiện phải kiên quyết, ráo riết hơn.
Cần nêu cao hơn nữa học tập và làm theo tấm gương của Bác, mỗi
cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng về đạo đức cách mạng của
Người. Đối với bản thân mình phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính. Đối với
nhân dân phải có quan điểm phục vụ nhân dân, thật sự là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Đối với công việc phải hết lòng tận tuỵ hy sinh và có
tinh thần trách nhiệm cao. Đây là bài học quý báu về tư cách của người cán
bộ cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà mỗi cán bộ, đảng
viên hôm nay phải thường xuyên học tập, rèn luyện và phấn đấu.
2. Quán triệt và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người
cách mệnh trong giai đoạn hiện nay
Trước thực trạng đáng lo ngại về đạo đức, tư cách của một bộ phận

cán bộ, đảng viên hiện nay, việc quán triệt, vận dụng và học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh về tư cách người cách mệnh là một yêu cầu và nhiệm vụ hết sức
cần thiết.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải quán triệt và học tập trước
hết về đạo đức cách mạng. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc

18


của cách mạng, bất kỳ ở đâu và bao giờ Người cũng đòi hỏi mỗi cán bộ,
đảng viên phải trở thành tấm gương mẫu mực về nhân cách đạo đức.
Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, do tác động tiêu cực

trong quá trình mở cửa, hội nhập, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực
tiễn xã hội nước ta vẫn đang tồn tại một số hạn chế khuyết điểm, một bộ
phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức. Đây là cơ hội cho
kẻ thù khoét sâu để chống phá hòng làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước
ta với nhân dân. Bởi vậy, việc nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình
hình hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Vì vậy cần phải tăng
cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên;
đồng thời xây dựng chỉnh đốn Đảng cốt nhằm cho Đảng luôn vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt

nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất
đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời nắm vững và có khả
năng vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân. Hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.
Đồng thời xây dựng ý chí cách mạng cao, rèn luyện đạo đức cách mạng
theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức luôn là “cái gốc”, là “nền tảng”
của người cách mạng. Người cho rằng cũng như “sông có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
19



héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức cách mạng không tự
nhiên mà có, mà là kết quả của một quá trình giáo dục, rèn luyện bền bỉ mà
nên, như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức
nội hàm sức mạnh to lớn, người có đạo đức cách mạng mới “gánh được
nặng” và “đi được xa”. Đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người cán bộ,
đảng viên chính là những biểu hiện tổng hòa của những tiêu chí đạo đức
trong các mối quan hệ của họ với Đảng, Nhà nước, giai cấp, nhân dân, dân
tộc; trong các mối quan hệ đa diện đa chiều của con người (đối với mình,đối
với người, đối với việc)...
Đó là những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương

con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; là tinh thần quốc tế trong
sáng thủy chung... Những phẩm chất ấy được Người đặc biệt quan tâm
trong điều kiện Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền và đội ngũ cán
bộ, đảng viên là những “công bộc” của nhân dân.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có sức mạnh tinh
thần to lớn; là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của cán bộ, đảng viên, làm tăng
sức mạnh của Đảng và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có
nghĩa đặt ra một yêu cầu, đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải trở thành
một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ
cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước
nhân dân là vô cùng cần thiết, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu

mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước”.
20


Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, để xây dựng
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, với quan điểm đổi mới tư
duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công
tác, Đảng ta đã triển khai sâu rộng công tác xây dựng đảng nói chung và giáo
dục đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên nói riêng. Từ năm 1987
đến nay, BCH Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành các nghị

quyết chuyên đề về xây dựng đảng trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cán
bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng. Trước những thử thách khắc nghiệt
của kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, mở cửa hội nhập với thế giới, tuyệt
đại đa số cán bộ, đảng viên vẫn tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo. Họ đã khắc phục gian khổ, khó khăn, vượt qua thử
thách, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, được dân tin, dân phục, dân
yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế là tình trạng một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng.
Để khắc phục tình trạng đó, không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến
đấu của Đảng, chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng thật tốt tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nghiêm khắc nhìn nhận thực trạng, nguy

cơ đó với tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, theo tinh thần Hồ Chí
Minh: “Chúng ta đã không hề che giấu sai lầm, trái lại chúng ta đã thật thà tự
phê bình và tích cực sửa chữa”. Trong các biện pháp tích cực sửa chữa, đặc
biệt coi trọng các biện pháp giáo dục nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ
vai trò, vị trí của mình trong Đảng và trong xã hội, có nhận thức đúng về
những nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải nâng
21


cao tư tưởng chính trị, chăm lo tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu
tranh chống những biểu hiện sa sút phẩm chất đạo đức. Bảo đảm các nguyên
tắc trong tổ chức và sinh hoạt Đảng...

Có thể nói, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng
của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng. Những
điều Hồ Chí Minh nói về đạo đức cách mạng cách đây đã rất lâu rồi nhưng
chúng ta vẫn như thấy đang nói về hôm nay, về tình hình tư tưởng đạo đức
của cán bộ, đảng viên hôm nay.
Việc không ngừng nghiên cứu sâu sắc các quan điểm của Hồ Chí
Minh về tư cách người cách mệnh nói chung và giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; vận dụng các quan điểm, tư
tưởng đó và thực tiễn hoạt động của Đảng là một công việc căn cốt trong
xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng và xã hội đang đẩy mạnh thực

hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh được hiệu quả hơn, để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu hơn
trong từng lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân, không chỉ tiến hành bằng một cuộc vận động là đủ mà phải coi đây là
sinh hoạt chính trị thường xuyên trong Đảng và trong toàn xã hội, qua đó
góp phần nâng cao văn hóa đảng, để Đảng ta mãi mãi là đạo đức, là văn
minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.

22



KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Người là hiện thân của
những giá trị cao đẹp về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, là “hiện
thân của nền văn hóa tương lai”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của
người cán bộ đảng viên. Những nội dung cơ bản, chủ yếu nhất trong quan
điểm của Người về tư cách người cách mệnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh
sớm đưa ra trong tác phẩm "Đường cách mệnh" (1927). Đây là nhưng cơ
sở, tiêu chuẩn cơ bản để giáo dục, rèn luyện, đánh giá cán bộ, đảng viên của

Đảng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đáp ứng yêu
cầu của cách mạng trong từng thời kỳ.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với rất
nhiều thời cơ, thách thức và những nhiệm vụ cách mạng to lớn, điều đó đòi
hỏi chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh đó, dưới những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự
tác động của những yếu tố tiêu cực của toàn cầu hóa và sự chống phá của
các thế lực thù địch, và trước thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên của
Đảng tha hóa, biến chất, không đủ năng lực, tư cách... thì vấn đề học tập,
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt ra như một yêu cầu thường xuyên
và đặc biệt bức thiết hiện nay. Để việc học tập, quán triệt có hiệu quả, chúng
ta cần phải tìm hiểu, làm rõ những nội dung cốt lõi trong tư tưởng của

23


Người, đặc biệt về tư cách đạo đức người cách mạng, từ đó có sự vận dụng,
quán triệt và học tập phù hợp và sáng tạo.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Hồ Chí Minh toàn tập,tập 2 Nxb.Chính trị Quốc gia, H.2002
2, Hồ Chí Minh toàn tập,tập 5 Nxb.Chính trị Quốc gia, H.2000

3, Hồ Chí Minh toàn tập,tập 9 Nxb.Chính trị Quốc gia, H.2000
4, Tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng, Hà nội 2007
5, Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà
nội 2008.
6, Giáo sư Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
Chính trị

25



×