Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT. lIÊN HỆ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.93 KB, 33 trang )

Câu 1/ Làm rõ qui luật chuyển đổi về lượng đảm bảo đến thay đổi về chất
và ngược lại? Liên hệ vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện đại
hóa đất nước?
Trong thế giới sự vật hiện tượng, để chuyển đổi từ sự vật này sang sự vật
khác hoàn chỉnh hơn, theo triết học duy vật biện chứng, mỗi sự vật hiện tượng đều
có sự thống nhất giữa chất và lượng. Đây là một qui luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật, vạch ra cách thức của sự vận động và phát triển.
Khái niệm lượng - chất.
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có sự vật hiện
tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, hiển thị đại lượng con số các thuộc tính,
các yếu tố cấu thành sự vật. Lượng là cái chưa làm cho nó là nó.
Ví dụ: Đo kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, qui mô, trình độ
cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm
Chất: Là phạm trù triết học dùng như tính quy định khách quan vẫn có của
sự vật. Hiện tượng là sự thống nhất hữu cơ, các thuộc tính sự vật làm cho sự vật là
nó mà không phải là sự vật khác. Chất là chất của sự vật, là khách quan, không do
ai tạo ra nó, chất của sự vật chỉ bộc lộ thông qua các mối quan hệ.
Ví dụ: Cùng là phân tử Cacbon nhưng phương thức liên kết của than khác với
phương thức liên kết của kim cương dẫn đến chúng hoàn toàn khác nhau. Kim
cương cứng, còn than thì rất mềm.
Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có sự thống nhất giữa chất và lượng. Chúng gắn
bó hữu cơ với nhau, quy định lẫn nhau trong đó lượng là cái thường xuyên biến
đổi, chất là cái tương đối ổn định, lượng biến đổi đến một mức độ nhất định sự vật
chuyển hóa, chất mới ra đời thay thế chất cũ.
Sự thay đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng, nhưng
không phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn đến thay đổi về chất.
Độ là một phạm trù triết học, dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay
đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự thay đổi về lượng của sự vật đến giới hạn nhất định sẽ làm cho chất của
sự vật thay đổi nghĩa là nó không còn là nó điểm giới hạn đó được gọi là điểm nút.




Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay
đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật.
Khi sự vật thay đổi về chất diễn ra do sự thay đổi về lượng tiến trình đó gây
ra bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật, sự chuyển hóa được thực hiện là do sự thay đổi về lượng trước đó của sự
vật gây ra.
Các hình thức của bước nhảy:
Bước nhảy đột biến là bước nhảy thực hiện trong thời gian rất ngắn làm thay
đổi chất của toàn bộ kết cấu sự vật.
Ví dụ: Khi ngọn lửa được châm lên đến giới hạn nhất định nó sẽ tạo ra vụ cháy lớn.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ từng bước bằng cách
tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và 1 nhân tố của chất cũ dần dần mất
đi.
Ví dụ: Từ chất của 1 sinh viên sang chất của 1 cử nhân phải có quá trình tích
lũy kiến thức kéo dài suốt 4 năm.
Căn cứ vào các hình thức của bước nhảy có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố, cấu thành sự vật.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy thay đổi các mặt những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong lĩnh vực xã hội sự thay đổi về lượng gọi là tiến hóa. Sự thay đổi về
chất gọi là cách mạng.
Sau khi ra đời chất mới lại được hình thành trở lại đối với lượng mới được
thể hiện ở 1 lượng mới như quy mô, nhịp điệu, tốc độ.
Tóm lại sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành “ độ” những
thay đổi dần dần về lượng đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất của sự
phá vỡ chất mới ra đời cùng với độ mới như vậy sự vật phát triển theo cách thức,
dứt đoạn trong liên tục.

Ý nghĩa phương pháp luận:


Trong nhận thức và hoạt động thực tiển phải chú ý tích lũy dần dần, thay đổi
về lượng đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện
chín mùi.
Trong nhận thức đòi hỏi mỗi cán bộ phải nhận thức cả lượng và chất của sự
vật, do đó muốn thay đổi chất của sự vật phải làm thay đổi về lượng, cho nên
không được chủ quan nóng vội khi tích lũy về lượng đã đủ, chúng ta cần thực hiện
bước nhảy không được bảo thủ, trì trệ, ngại khó, lùi bước.
Chống lại quan điểm bảo thủ, trì truệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút
nhưng không thực hiện bước nhảy.
Phải thấy được tính đa dạng các bước nhảy nhận thức được từng hình thức
bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy thực
hiện một cách kịp thời.
Liên hệ vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện đại hóa đất
nước?
Trước năm 1975 nước ta vận dụng nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung là hoàn
toàn đúng đắn nhằm huy động tối đa sức người, sức của cho công cuộc xây dựng
CNXH ở Miền Bắc và đấu tranh giành độc lập ở miền Nam, thống nhất đất nước.
Do việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế – xã hội này, trong khi không còn
phù hợp với tình hình mới nữa nên đã kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất.
Hậu quả làm nền kinh tế-xã hội bị khủng hoảng, trì trệ, và ảnh hưởng đến các lĩnh
vực khác, uy tín nước ta trên trường quốc tế bị giảm sút.
Từ đó Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng trước hết đòi hỏi Đảng
nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về CNXH và con đường đi lện CNXH ở
nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế xã hội có tính chất quá độ. Mỗi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật
Đồng thời, cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận
dụng tri thức cũng như các qui luật của thế giới khách quan. Nhận thức được vấn
đề này, Đảng, Nhà nước đã đổi mới tư duy, thực hiện nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN.


Để ổn định và phát triển đất nước trong tình hình như hiện nay là lấy công
cuộc đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ sự đổi mới & XD
cơ sở vật chất cho XHCN.
Liên hệ tại cơ quan nơi công tác.
Là đơn vị hành chính sự nghiệp để quán triệt chủ trương, các chính sách đề ra
thì trước hết phải công khai dân chủ thông qua hội nghị cán bộ công chức hàng
năm cho toàn thể cán bộ trong đơn vị được biết, hiểu và giải đáp các kiến nghị nếu
có, để cùng thực hiện. Như vậy mới không xảy ra tình trạng chưa công khai đã áp
dụng vội vàng làm cho người lao động bở ngỡ không tích cực thi hành.
Mở rộng các văn bản đến các đoàn thể như tổ chức công đoàn, đoàn thanh
niên nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ hăng say làm việc tạo tiền đề tốt để hoàn
thành nhiệm vụ.
Xây dựng nếp sống văn hóa, cơ sở mang đậm đà bản sắc dân tộc , lấy tư tưởng
Mac Lê Ninh Và đạo đức HCM làm kim chỉ nam cho hành động.
Câu 2: Trình bày nội dung quy luật: Quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ của Lực lượng sản xuất. Liện hệ thực tiễn quá trình đổi mới của nền kinh
tế nước ta hiện nay?
Trình bày nội dung quy luật: Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của Lực
lượng sản xuất.
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử phát triển sản xuất. Sản xuất
chính là đặc trưng riêng có của con ngườivà xã hội loài người,đó là quá trình hoạt
động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. QHSX và LLSX là 2
mặt của PTSX và nó có quan hệ mật thiết với nhau.

Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Các khái niệm:
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
LLSX là nói về con người có trí tuệ, sức khỏe, chuyên môn.


Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư
liệu lao động có ý nghĩa quan trọng và đóng vai trò thể hiện trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Đối tượng lao động bao gồm 2 loại: Loại có sẳn trong tự nhiên như đất đai,
tài nguyên, khoáng sản, … và loại đã qua chế biến.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, chính người lao động là chủ thể
tác động trực tiếp vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, với ý nghĩa đó
người lao động là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất.
Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất cần thiết. Những thành tựu
của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển. Sản phẩm nào làm ra có nhiều chất xám thì
sản phẩm đó càng có giá trị.
Vd: Cùng một đội giày với nhiều giá khác nhau, chất lượng khác nhau,
người tiêu dùng sẽ chọn đôi giày có thương hiệu trên thị trường và sẵn sàng mua
giá cao hơn để có được sản phẩm chất lượng cho mình.
Quan hệ sản xuất :
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Những quan hệ sản xuất
này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau, trong đó
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định.

Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trên cơ sở trình độ
phát triển của LLSX và tác động trở lại của LLSX.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá
trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản
của sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất:
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Nội
dung quy luật được thể hiện như sau:


Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan
hệ khách quan, vốn có của mọi quá trình sản xuất vật chất. Để sản xuất vật chất
con người phải thực hiện mối quan hệ “đôi”, “kép”, quan hệ “song trùng” thiếu
một hai quan hệ đó thì quá trình sản xuất không thực hiện được. Mối quan hệ sản
xuất, các yếu tố cấu thành của nó tạo điều kiện cho LLSX phát triển.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng
sản xuất giữ vai trò quyết định:
Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho
lực lượng sản xuất phát triển, sức sản xuất xã hội phát triển thì của cải vật chất làm
ra dồi dào đáp ứng nhu cầu cho con người và cho toàn xã hội.
Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó
sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để
hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển,
làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
Do đó trong một PTSX, LLSX giữ vai trò q/định, nói cách khác QHSX phải

phù hợp với tr/độ phát triển của LLSX.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất,
tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công
lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ… do đó tác động
đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Và khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được điều chỉnh
hoặc thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Ý nghĩa pp luận:
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX là quy luật chung, cơ bản nhất, nó quyết định các quy luật XH khác.
Quy luật này giúp ta nắm được tính tất yếu, tính phức tạp của sự vận động
và phát triển của đời sống XH.
Muốn thúc đẩy KT-XH phát triển phải thúc đẩy LLSX phát triển trước, sau
đó từng bước điều chỉnh QHSX cho phù hợp.
Tránh áp đặt một cách chủ quan một QHSX đi quá xa so với trình độ phát
triển của LLSX.
Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta:


Sau 1975 do sai lầm duy ý chí, Đảng ta thực hiện đường lối thiết lập QHSX
XHCN đi trước LLSX kg phù hợp dẫn đến trì tuệ nền KT, đời sống nhân dân gặp
khó khăn do thực hiện cơ chế KT bao cấp, hình thức sở hữu là công hữu và hợp tác
xã kg phù hợp.
- Trước thời kỳ đổi mới, trong nhận thức và vận dụng quy luật này ở các
nước XHCN nói chung và ở những nước mà xuất phát điểm đi lên CNXH thấp như

nước ta nói riêng đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm chủ quan; chủ trương xây
dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu là sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ llsx còn thấp kém và phát triển ko đồng
đều là một chủ trương nóng vội, chủ quan, duy ý chí - vi phạm quy luật, làm trái
quy luật khách quan, dẫn đến những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn như:
+ Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sx một cách ồ ạt, trong khi chế độ
đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển llsx.
+ Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sx một cách tràn lan, trong khi trình
độ llsx còn thấp kém và phát triển ko đồng đều.
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng. Ý thức được điều đó, thời kỳ đổi mới Đ ta đã chủ trương chuyển từ
một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền k.tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN. Đây là sự vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo quy luật quan hệ sx
phù hợp với trình độ phát triển llsx; llsx còn thấp kém và phát triển không đồng
đều.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ ra có các thành phần: kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo, là ll vật chất
quan trọng để NN định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo nên môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này ở Việt Nam đã làm cho nền kinh
tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc, nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, tạo
đà cho sự phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản
của mọi nền kinh tế. Việc nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo QL này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với các nước đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Câu 3: Tính độc lập tương đối của ý thức XH
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất,

quan hệ vật chất của xã hội. Những yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và đk sinh


hoạt vật chất bao gồm: phương thức sx vật chất,điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa
lý, dân số và mật độ dân số. Trong đó, phương thức sx vật chất là yếu tố cơ bản
nhất. Trong các qh vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan
hệ vật chất giữa ngườivới nhau là cơ bản. Ngoài những yếu tố cơ bản trên, những
yếu tố khác như quan hệ quốc tế, quan hệ giai cấp,qh dân tộc, qh gia đình, …cũng
đóng vai trò quan trọng trong tồn tại XH.
Ý thức xã hội: là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng …của những cộng đồng xã hội nảy
sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn
lịch sữ cụ thể nhất định .
Tính độc lập tương đối của ý thức xh:
Theo TH Mác – Lênin, ý thức xh là sự phản ánh tồn tại xh, do tồn tại xh quyết
định. Tuy nhiên, ý thức xh không phụ thuộc vào tồn tại xh một cách thụ động, mà
thông qua hđ thực tiễn của con người, ý thức xh cóthể tác động trở lại tồn tại xh.
Hơn nữa, trong quá trình p/triển của mình, mặc dù chịu sự quy định của các quy
luật của tồn tại xh, nhưng ý xh có những quy luật riêng của mình. Tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội còn thể hiện ở chức năng đặc thù của ý thức xh như 1
nhân tố sáng tạo tích cực của con người ra đời sống xã hội của chính mình. Như
vậy, TH Mác Lênin thừa nhận tính độc lập tương đối của ý thức xh trong mqh với
tồn tại xh.
Tính độc lập tương đối của ý thức xh biểu hiện ở những điểm sau:
1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xh: ý thức xh là cái phản ánh của
tồn tại xh, còn tồn tại xh là cái được phản ánh bởi ý thức xh. Do vậy, ý thức xh với
tư cách là cái phản ánh bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với tồn tại xh – cái
được phản ánh. Điều này thể hiện rất rõ khi ý thức xh không phản ánh kịp sự
biến đổi, phát triển của tồn tại xh. Ví dụ: tư tưởng trọng nam khi nữ, yêu thích sinh
con trai trong thời đại ngày nay vẫn còn trong tư tưởng của thiếu số gia đình. Tính

gia trưởng, độc tài. Hay thói mê tín dị đoan....
Sự lạc hậu của ý thức xh so với tồn tại xã hội có nhiều nguyên nhân khác nhau:
+ do sức ỳ của tâm lý xh, nhất là thói quen, phong tục, tập quán, truyền thống: khi
tâm lý xh trở thành thói quen, tập quán, ...thì nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi
người, mỗi nhóm cộng đồng, tầng lớp, xh.
+ trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ, chẳng hạn như ý thức tôn giáo phản
ánh không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của xh.
+ trong xh có giai cấp, ý thức xh luôn gắn với lợi ích của những nhóm xh, tập đoàn
xh, giai cấp xh khácnhau. Vì vậy, những quan điểm, tư tưởng, tâm lý cũ thường dc
các lực lượng xh, các nhóm xh, g/c xh bảo thủ,phản tiến bộ, lưu giữ và truyền bá
nhằm chống lại những lực lượng xh tiến bộ.Chính vì vậy, những tư tưởng, quan
điểm, tâm lý cũ không tự động mất đi khi tồn tại xh cũ mà trên đóchúng nảy sinh,
tồn tại, phản ánh mất đi mà phải thông qua cuộc dấu tranh cải tạo, triệt để toàn bộ




xh cũ, tồn tạixh cũ và xây dựng xh mới , tồn tại xh mới của các lực lượng xh tiến
bộ.
2. Ý thức xã hội có thể “ vượt trước” tồn tại xã hội.ý thức xã hội nếu phản ánh
đúng quy luật vận độngcủa tồn tại xh thì nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xh.
TH Mác Lênin chỉ rõ, trong những đk, hoàn cảnh nhất định, ý thức của
con người nếu phản ánh đúngquy luật vận động, phát triển của tồn tại xh, thì nó có
thể chỉ ra những khuynh hướng vận động, phát triển củatồn tại xh, thì nó có thể
chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của tồn tại xh, trên cơ sở đó có thể dự
báo
tương lai, góp phần chỉ đạo tổ chức thực tiễn đat hiệu quả cao nhất.
Ví dụ: với chủ trương của Đảng và nhà nước: kêu gọi mọi người giữ ý thức bảo vệ
môi trường, nghiêmcấm chặt cây rừng, rác thải bừa bãi, bảo tồn động vật quý hiếm
....nhằm tránh thiên tai, lũ lụt, bảo vệ nguồnnước, bảo vệ các loài động vật quý

hiếm tránh nguy cơ tuyệt chủng.
Sự phản ánh của ý thức xh đối với tồn tại xh dc coi là sáng tạo khi nó phản ánh
đúng được những mốiliên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của tồn tại xh.
Khi ấy, sự phản ánh vượt trước của ý thức xh đốivới tồn tại xh sẽ có cơ sở. Ngược
lại, nếu ý thức xh phản ánh kg đúng quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của tồn tại xh, hơn nữa, nó lại bị chi phối bởi mong muốn chủ quan, duy
ý chí thì khi ấy sự phản ánhvượt trước của ý thức xh sẽ là sự vượt trước không có
cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.
3. ý thức xh có tính kế thừa trong sự phát triển của mình. Có ý nghĩa to lớn đối với
việc xây dựng vănhóa tinh thần xhcn của nước ta hiện nay. Trong quá trình xây
dựng VH tinh thần XHCN của xh ta hiện nay,chúng ta phải biết kế thừa có chọn
lọc tất cả những tinh hoa VH của nhân loại, trước hết phải biết phát huynhững giá
trị tinh thần truyền thông vh cao đẹp của dân tộc.
Trong quá trình tiếp thu, kế thừa những di sản vh tinh thần của nhân loại phải trên
qua điểm lịch sử cụthể, quan điểm lợi ích. Đồng thời chúng ta phải có thái độ đúng
với qk, tránh phủ định sách trơn cũng như tránhbê nguyên xi những yếu tố tinh
thần của các thời đại trước. Đối với việc tiếp thu VH của nhân loại, Đảng ta đề
ra nhiệm vụ “ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để VH thực sự là nền tảng tinh
thần của xh”
Ví dụ: sự lựa chon trang phục sao cho phù hợp từng nơi, từng vùng, từng thời điểm
sẽ làm cho conngười trở nên sang trọng và đẹp đẽ trong mắt mọi người
4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triền của
chúng: Các hình thái ýthức xh tác động lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
các hình thái ý thức xh vừa là sự biểu hiện của tínhtương đối của ý thức xh vừa là
quy luật phát triển của ý thức xh. Mỗi hình thái ý thức xh phản ánh tồn tại xh
theo những phương thức riêng của mình. Chính sự phản ánh theo những cách thức
riêng của mỗi hình thái ýthức xh làm cho sự phản ánh của ý thức xh nói chung đa







dạng, phong phú. Nhưng cũng chính điều đó làm chomỗi hình thái ý thức xh có đời
sống riêng và quy luật riêng của mình. Điều này cũng làm cho các hình thái ýthức
xh không thể thay thế lẫn nhau, nhung lại cần đến nhau, bổ sung cho nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, tác động ,thâm nhập lẫn nhau và cùng nhau tác động đến tồn tại
xh.
Ví dụ: triết học ảnh hưởng tới hệ tư tưởng, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật...về
mặt thế giới quan;
khoa học ảnh hưởng tới triết học, ý thức chính trị, pháp quyền, .....
5. sự tác động trở lại của ý thức xh đối với tồn tại xh
+ Tác động tích cực: Nếu ý thức xh phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển
của tồn tại xh thì thôngqua hđ thực tiễn của con người nó có thể tác động tích cực
tới tồn tại xh: Biểu hiện là thúc đẩy phương thức sxphát triển; góp phần cải biến đk
tự nhiên, hoàn cảnh địa lý theo hướng có lợi cho con người và sx vật chất; điều
chỉnh dân số và mật độ dân cư phù hộp với đk kinh tế địa lý, ..trên sơ sở đó thúc
đẩy xh phát triển theo hươngtiến bộ.
+ Tác động tiêu cực: Nếu ý thức xh lạc hậu, phản ánh kg đúng quy luật
vận động, phát triển của tồn tạixh; hoặc ý thức xh phản tiến bộ, nhất lá ý thức
chính trị; hoặc là ý thức xh phản ánh vượt trước tồn tại xh nhưngvượt trước ảo
tưởng, duy ý chí...thì sẽ tác động tiêu cực tới tồn tại xh. Biểu biện là: cản trở tồn tại
xh phát triển;cản trở sx vật chất phát triển; hủy hoại môi trường sống tự nhiên; làm
mất cân bằng về dân số và mật độ dân cư,...Như vậy là kìm hãm sự phát triển của
xh theo hướng tiến bộ.
Nhận thức sâu sắc tác động to lớn của ý thức xh đối với tồn tại xh trong
công cuộc đổi mới hiện nay, tạiđại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Đảng CSVN
đã đề ra nhiệm vụ: “ Xây dựng nền văn hóa Việt nam tiêntiến, đậm dà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân

văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho vh gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xh, trở thành nền tảng tinhthần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển”
Ý nghĩa:
Một là: ý thức xh mới không hình thành 1 cách tự phát mà hình thành 1 cách tự
giác, lâu dài, dưới sựlãnh đạo của Đảng CS với sự tham gia tích cực của quảng đại
quần chúng nhân dân.
Hai là: ý thức xh mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng dân tộc vànhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với
những ý thức lạc hậu, phản tiến bộ.
Ba là: Hình thành ý thức xh mới phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan
hệ sx XHCN , pháthuy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Liên hệ:


Quan niệm duy vật lịch sử về ý thức xh chỉ rõ rằng: muốn hình thành dc ý thức xh
mới, về lâu dài, cơbản phải hình thành được tồn tại XHCN. Muốn vậy, phải phát
triển theo định hướng XHCN, phải khơng ngừng
cũng cố qh sx XHCN. Hiện nay nước ta đang phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở cửa, giao lưu,hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta càng cần phải
chú ý giữ vững định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế.Bởi lẽ, ktế thị trường
khơng chỉ có tác động tích cực mà còn là mơi trường thuận lợi cho những hiện
tượng tiêucực về tinh thần, tư tưởng, đạo đức nảy sinh. Cùng với ptriển ktế thị
trường định hướng xhcn, chúng ta phảiphát huy dc quyền làm chủ của nhdân lao
động, lơi cuốn dc quần chúng nhdân tham gia cải tạo những tư tưởng
lạc hậu, đấu tranh có hiệu quả với những tư tưởng sai trái, phản tiến bộ; tự giác
hình thành trong bản thân ý thứcxh mới. Có phát huy dc quyền làm chủ của nhân
dân lao động thì mới thu hút dc đơng đảo họ tham gia quản lý,
xây dựng, ptriển ktế - xh, vh, giáo dục, khoa học. Đây là đk cơ bản, quan trọng cho
việc hình thành và phát triển ý thức xã hội mới.

Câu 4: QLGT trong nền SXHH:
Quy luật giá trò là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao
đổi hàng hoá. Quy luật giá trò yêu cầu: sản xuất và trao đổi hàng
hoá phải dựa trên cơ sở giá trò của nó, tức là dựa trên hao phí lao động
xã hội cần thiết. Do đó ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự
tồn tại và phát huy tác dụng của QLGT.
VD: Trước đây ở nước ta thời kỳ bao cấp ko có qlgt vì ko có sx tập trung,ko
thơng qua trao đổi mua bán, còn hiện nay trong nền kinh tế thị trường thì QLGT
phát huy vai trò của nó vì có trao đổi,sx hh.
Nội dung của quy luật giá trị:
Theo QLGT SX& trao đổi hh phải dựa trên cơ sở hao phí lđ XH cần thiết:
- Trong sản xuất QLGT buộc người sx phải làm sao cho mức hao phí lđ cá biệt của
mình phù hợp với mức phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới tồn tại
được:
+ Giá trị của hàng hóa phụ thuộc vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nên để bù
đắp được chi phí sản xuất và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh sao cho hao phí
lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
VD: Sản xuất 01 cái cái bóng đèn trong 01 giờ là 30.000đ/, trong khi đó giá trên
thị trường là 35.000đ.


- Trong trao đổi ( hay lưu thơng), QLGT u cầu phải thực hiện theo ngun tắc
ngang giá tức giá cả bằng giá trị.
Hai hh được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh trong một lượng lao động như
nhau, hoặc trao đổi, mua bán thì giá cả hh phải dựa trên cơ sở giá trị .
VD: 1 m vải = 5 kg thóc.
Chúng trao đổi được với nhau do chúng đều là sản phẩm của lao động, được kết
tinh bởi lao động. Nhờ vậy chúng có thể trao đổi được với nhau.
+ Giá cả của một hàng hóa phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa đó, hàng hóa nào có
nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.

Chính sự lên xuống của giá cả thò trường xoay quanh
giá trò hàng hoá đã trở thành cơ chế tác động của
quy luật giá trò. Cơ chế này phát sinh tác động trên thò
trường thông qua cạnh tranh cung – cầu, sức mua của
đồng tiền …
Cơ chế vận hành của quy luật giá trò (0.5
điểm)
Cung = cầu: giá cả thò trường = giá trò: HV
Cung > cầu: giá cả < giá trò: Lỗ
Cung < cầu: giá cả > giá trò: Lãi
Việc vận dụng cơ chế vận hành theo quy luật xoay quanh giá trị , để giá trị thấp
hơn giá trị thi trường của hàng hóa, chủ doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức
sản xuất tối ưu, máy móc, trang thiết bị đưa vào sản xuất phải hiện đại, có như vậy
doanh nghiệp mới đứng vũng trên thi trường và đặc biệt phải am hiểu về thi trường
và hiểu được nhu cầu cần thiết của thị trường là gì để lựa chọn phương thức sản
xuất cho phù hợp.
Trong nền sản xuất hàng hố, quy luật giá trị có ba tác dụng sau đây:
- Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố:
Điều tiết sản xuất tức là điều hồ, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thơng qua sự biến động
của giá cả hàng hố trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở
ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hố sẽ lên cao hơn giá trị, hàng
hố bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xơ vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản


xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung
ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy
và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất
lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả thị trường. Sự biến

động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất
định.
Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến động về
kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Kích thích tiến bộ nâng cao NSLĐ:
+ Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có
mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá
đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậyngười sản
xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích
thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất, cải tiến
tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn.
Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng
suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng
giảm xuống.
- Phân hoá những người SXHH thành giàu, nghèo:
+ Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm
tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành
ông chủ.
+ Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt
lớn hơn mức hao phí lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình
trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.


Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư

bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Tác dụng của QL, một mặt, QLGT chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu
tố yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển, mặt khác phân hóa XH thành
kẻ giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong XH
3. Ý nghĩa:
Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của
quy luạt gía trị trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
Vận dụng quy luật giá trị đã và đang phát huy tác dụng: kích thích nhà sản xuất ko
ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế phát triển, nhưng cũng có tác
động tiêu cực: vì chạy theo lợi nhuận mà nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật.
Kết luận: Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần
có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của QLGT, đặc
biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Câu 5/ Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản thời kỳ quá độ lên CNXN ở VN?
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ
nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải
xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
Muốn vậy, trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải thực hiện 3 nhiệm vụ kinh tế cơ
bản sau:
1/Phát triển lực lượng sản xuất thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân:
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ , là xây dựng thành công
cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Khi và
chỉ khi hoàn thành nhiệm vụ CNH, HĐH mới có thể nâng cao năng suất lao động
mang tính lịch sử và trong quan hệ so sánh với các nước tư bản phát triển, mới có
thể khằng định được sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.



Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết
chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ: Phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm xây dựng một số ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển các ngành
công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo và các ngành công nghiệp có lợi thế, phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt chất lượng nhằm hỗ trợ đắc lực cho
nông nghiệp phát triển và xây dựng nông thôn mới.
Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền tạo điều kiện phát triển cho
vùng xâu, vùng xa. Phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy phát triển
nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điền kiện phát triển các vùng có
nhiều khó khăn.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
2/Xây dựng quan hệ sản xuất mới thông qua phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa:
-Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình
thức phân phối. (0.5 điểm)
Phát triển các thành phần kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, điều đó làm
cho nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế; Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà xây dựng quan
hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Chính vì vậy, trong thời kỳ quá
độ việc thừa nhận tính đa dạng của chế độ sở hữu trên cơ sở đó có sự tồn tại lâu dài
của nền kinh tế nhiều thành phần là cần thiết song chưa đủ. Điều quan trọng là phải
tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, nhất là những thành
phần kinh tế còn nhiều tiềm năng, không mặc cảm hoặc thiên vị trong quản lý và
điều tiết nhà nước về kinh tế.
- Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước

được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo
đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các yếu tố thị trường như: thị trường hang hóa dịch vụ, thị trường lao động, thị
trường tài chính tiền tệ,thị trường công nghệ, bất động sản. Phân định rõ quyền sở
hữu, quyền làm chủ tư liệu sản xuất, quyền quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh
tế, đảm bảo mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của mình. Quan hệ phân phố đảm bảo công bằng tạo động lực cho phát
triển, thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phân phối qua hệ
thống anh sinh xã hội, phúc lợi xã hội.


- Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực
lượng vật chất.
Các thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng theo pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết
nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Nhà nước quản
lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-XH bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách…
3/ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập, nâng cao vị thế đất nước, vì lợi ích quốc gia, vì một Việt Nam XHCN
giàu mạnh, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế.
- Kinh tế đối ngoại là nơi có thể khai thác một cách triệt để các lợi thế so sánh của
kinh tế trong nước biến chúng thành lợi ích kinh tế cụ thể của đất nước.
- Trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thời cơ và thách thức
đều song song tồn tại.
- Trong quá trình hội nhập phải vừa hội nhập phải vừa đấu tranh để góp phần thiết

lập trật tự kinh tế quốc tế mới vừa tích cực tích cực đàm phán để có được nhưng
quy chế ưu đãi phổ cập hoặc đặc thù dành cho các nước kém phát triển.
Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã lần lượt gia nhập cac tổ chức kinh tế quốc tế và
khu vực: Khôi phục quan hệ bình thường với ngân hàng thế giới(WB); Quỹ tiền tệ
quốc tế và Ngân hàng phát triển Châu á, trở thành thành viên của ASEAN, APEC,
thực hiện chương trình CEPT, đồng sáng lập ASEM. Việc VN trở thành thành viên
chính thức của WTO vào tháng 01/2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá
trình hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Giải pháp thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời
kỳ quá độ ở nước ta:
- Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước: Kinh tế
nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, là chỗ dựa vật chất có tính
quyết định của Nhà nước XHCN để điều hành và hướng dẫn sự phát triển nền kinh
tế


-Cũng cố nâng cao vai trò của kinh tế tập thể: Cần phát triển thành phần
kinh tế tập thể mà đặc biệt trong đó là hình thức HTX thành một thành phần quan
trọng hơn nữa trong nền kinh tế.
- Phát triển thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân):
Trong một số ngành kinh tế cá thể, tiểu chủ tỏ ra ưu thế hơn các bộ phận
kinh tế khác. Vì thế, nhà nước cần hướng dẫn kinh tế cá thể tiểu chủ, vì lợi ích thiết
thực và nhu cầu phát triển sản xuất, từng bước đi vào hợp tác xã với những hình
thức và quy mô thích hợp.
Kinh tế tư bản tư nhân mới được khôi phục và khuyến khích phát triển trong
thời gian gần đây(làm ăn có hiệu quả), song sự đóng góp của nó đối với nền kinh tế
là không nhỏ. Do đó, cần khuyến khích, tạo diều kiện và hướng dẫn nó phát triển.
- Phát triển các thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế có

vốn đầu tư nước ngoài: Áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà
nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong và ngoài nước, coi trọng liên doanh với
tư nhân trong nước nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước phát triển,
tăng cường hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài; Cải thiện môi trường đầu tư và
nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong xí nghiệp hợp
tác liên doanh

Câu 6:
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và điều kiện khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử của gccn?
GCCN là một tập đoàn người trong xã hội, đại diện cho phương thức sản
xuất tiến bộ nhất trong xã hội ptsx công nghiệp, trong chế độ tbcn họ là người
không có tư liệu sản xuất vì vậy họ bán sức lao động của mình để sống và bị
giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Trong chế độ XHCN họ là chủ thể của
phương thức sản xuất mới, là người lãnh đạo xã hội mang lại lợi ích không chỉ
cho giai cấp mình mà còn cho toàn xã hội.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là lãnh đạo nhân dân đấu tranh xóa bỏ CNTB,
xây dựng CNXH và CNCS. GCCN có sứ mệnh thông qua đảng tiên phong của
mình, lãnh đạo nhân dân đấu tranh từng bước xoá bỏ áp bức bất công để giải phóng
mình và giải phóng toàn xã hội


Nội dung cơ bản của smls gccn là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
chế độ xhcn và cộng sản chủ nghĩa.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN được thể hiện qua những 04 nội dung
cụ thể như sau:
+ Về kinh tế: Từng bước xác lập QHSX mới phù hợp với LLSX phát
triển.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế xhcn thiết lập quan hệ kinh tế vô sản

tạo tiền đề vật chất cho một chế độ xã hội mới ra đời.
Hiện nay, đối với các nước tbcn thực hiện nền kinh tế này thông qua
KHCN hiện đại thúc đẩy LLSX mới còn đối với các nước xhcn trong đó cò Việt
Nam là thông qua quá trình CNHHĐH đất nước, gccn thực hiện “một kiểu tổ chức
xã hội mới về lao động” để tăng cường sức lao động và thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội.
+ Về chính trị: Đấu tranh cách mạng lật đổ chính quyền tư sản, xác lập
và củng cố chính quyền mới, bảo vệ và phát triển chế độ XHCN;
Trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội, sứ mệnh lịch sử của gccn
là phải xóa bỏ chế độ người bốc lột người, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng tư sản
thay thế bằng Đảng vô sản, Nhà nước tư sản bằng nhà nước pháp quyền xhcn. Đây
được xem là quá trình thực hiện smls về chính trị là quá trình khó khăn, lâu dài và
phức tạp.
+ Về văn hóa: Đấu tranh xóa bỏ hệ tư tưởng cũ, văn hóa cũ, từng bước
xác lập vị trí thống trị của chủ nghĩa Mác- Lênin và xây dựng nền văn hóa mới.
Khi ptsx tbcn đã trở nên lỗi thời và lạc hậu, gccn thủ tiêu chế độ tbcn
từng bước xây dựng xã hội mới – xhxhcn và cscn, xóa bỏ áp bức bóc lột giải phóng
bản thân và đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Kết quả cuối cùng là xây dựng
nền vhxhcn.
Ví dụ: nước ta bị ảnh hưởng văn hóa phong kiến, tư sản, hệ tư tưởng
thực dân, phong kiến còn nặng nề, do đó phải tiếp thu chọn lọc văn hóa hiện đại,
giữ gìn những văn hóa tốt đẹp và dần xóa bỏ các văn hóa, tư tưởng cũ lạc hậu
không phù hợp.


+ Về xã hội: Từng bước xóa bỏ quan hệ bóc lột bất công, tạo điều kiện
cho con người phát triển.
Con người xây dựng nền vhxhcn kéo theo sự phát triển toàn diện về xã
hội.
Ví dụ: Nước ta đang trong thời kỳ quá độ cần phải đề ra chính sách

đúng đắn, thực hiện có hiệu quả những vấn đề liên quan đến con người như về y
tế, giáo dục, văn hóa,… tạo môi trường thuận lợi cho con người phát triển.
Như vậy, trong bốn nội dung trên thì nội dung về kinh tế được xem là
yếu tố sâu xa nhất suy cho cùng mọi sự phát triển của đất nước đều do kinh tế
quyết định.
C.Mác và Angghen chỉ rõ rằng “smls của gccn là do địa vị khách quan
quy định”, sở dĩ giai cấp này có smls là do địa vị kinh tế - xã hội; những tiền đề về
vật chất và mâu thuẫn về lợi ích quyết định. Để hiểu rõ hơn ba điều kiện khách
quan này chúng ta đi tìm hiểu.
- Địa vị kinh tế- xã hội của GCCN:
Địa vị kinh tế- xã hội quy định GCCN là LLSX cơ bản của xã hội, đại
biểu cho PTSX tiên tiến của xã hội. GCCN gắn liền với PTSX công nghiệp ngày
càng hiện đại , mang tính xã hội hoá cao. Do đó GCCN có những đặc điểm của 1
giai cấp cách mạng : tính tổ chức , kỷ luật , tác phong công nghiệp , đoàn kết , tinh
thần triệt để cách mạng …
Tại sao nói gccn đại biểu cho PTSX tiên tiến của xã hội? – gccn vốn là
những người không có tlsx, vì cuộc sống cơm áo, không có cách nào khác hơn là
phải bán sức lao động của mình cho các nhà tư bàn. Để tồn tại và duy trì cuộc sống
họ phải nhanh chóng thích ứng với công việc mới, với nền sx mới, chính vì vậy
học dần tiếp thu các kiến thức khoa học công nghệ và họ trở thành bộ phận quan
trọng trong llsx của nền sxtb, là lực lượng quyết định “đào mồ chôn chủ nghĩa tư
bản”. Do đó, sau khi giành chính quyền gccn được xem là lực lương tiên tiến trong
ptsx của xã hội.
Địa vị kinh tế - xã hội quy định GCCN có những đặc điểm của giai cấp
có sứ mệnh lịch sử.


Như chúng ta biết gccn có những đặc điểm khác so với các giai cấp khác
nên gccn thể hiện tính ưu việt của mình mà các giai tầng khác không có như nông
dân, trí thức. Đó la gccn gắn với ptsx công ngiệp ngày càng hiện đại, mang tính xh

cao, ptsx quy định tư tưởng. Vì vậy, gccn có những đặc điểm của gccn: tính tổ
chức kỷ luật, tác phong…
- Mâu thuẫn cơ bản trong lòng CNTB quy định GCCN lãnh đạo nhân dân
đấu tranh xóa bỏ CNTB để xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
Những tiền đề vật chất của CNTB và sự vận động của mâu thuẫn cơ
bản của PTSX TBCN. Mâu thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất XH hoá
của LLSX với tính chất tư bản tư nhân về TLSX .
Công hữu TLSX chủ yếu của Xh là yêu cầu khách quan và đã được quá trình SX
hiện đại vạch ra .
- Sự phát triển nhanh, bền vững của thế giới hiện đại quy định sứ mệnh lịch
sử của GCCN.
Mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa GCCN và GCTS tất yếu dẫn đến sứ
mệnh LS của GCCN . GCTS bóc lột giá trị thặng dư , GCCN là gc bị bóc lột mâu
thuẫn đó không thể điều hoà là động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp hiện
đại . giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa hai g/cấp này theo hướng xoá bỏ
bóc lột GTTD là tất yếu khách quan , xoá bỏ QHSX TBCN , xoá bỏ chế độ chính
trị đang bảo vệ QHSX TBCN .
Trong ba điều kiện khách quan hình thành smls của gccn thì địa vị kinh
tế- xã hội giữ vai trò quan trọng nhất, hai điều kiện còn lại có mối quan hệ khắn
khít, chặt chẽ, tác động bổ sung qua lại tạo điều kiện cho đcsvn và gccn hoàn
thành smls.
Liên hệ sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam
ĐCSVN là lãnh tụ chính trị , là bộ phận tham mưu của gccn và là đội
tiên phong của gccn.
ĐCS đcs chính là hạt nhân của gccn lôi cuốn quần chúng tham gia phong trào cách
mạng bằng sự tiên phong, gương mẫu của đảng viên và của tổ chức Đảng. Chẳng
hạn về tính tổ chức, tính kỷ luật, tính hăng hái đi đầu. Ngay cả bản thân chúng ta
muốn đứng vào hàng ngũ của đảng phải gương mẫu để đảng thấy được ý thức của
mình như thế nào mới kết nạp đảng. Đảng cộng sản là đảng của gccn nhưng gccn



không phải là đcs vì thế không được lẫn lộn giữa đảng với gccn. Đảng đại diện cho
quyền lợi của cả dân tộc, vì vậy đảng phải lôi cuốn quần chúng nhân dân lao động
và các dân tộc đứng lên hành động theo đường lối đảng. Nếu không có ĐCSVN
thì gccn không hoàn thành smlc của mình.
Hiện nay Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đcsvn về cơ bản đã độc lập dân tộc
tạo mọi điều kiện cho các giai tầng trong xã hội phát huy bản chât của gccn. Song
hành với quá trình đó thì nước ta là nước cnxh nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xhcn dưới sự quản lý của nhà nước vì vai trò của đảng ngày càng được
nâng cao bởi vì, nước ta giành được độc lập nhưng các thế lực vẫn từng giờ kìm
cách ngăn cản sự phát triển của đất nước bằng chính trị hòng gây dư luận trong nội
bộ của dân tộc điều này thể gần nhất là Trung Quốc dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
như đưa tin trên cổng thông tin điện tử, công khai với dư luận là hoàng sa trường
sa là của TQ. Một thời gian khá dài Việt Nam bao tốn biết bao giấy mực về vấn đề
này và bằng những chứng sắc bén của mình sự việc đó đã lắng xuống. Chính đảng
là nhân tố hàng đầu trong việc thực hiện các chính sách này đảng đã dưa ra chính
sách, dường lối… làm xoa dịu dư luận đối với cả dân tộc khẳng định lại quyền
thuộc về mình và từng bước kết hợp với nhà nước với bạn bè thế giới ủng hộ dân
tộc ta. Nếu không có vai trò của đảng thì lực lượng cách mạng Việt Nam không
thực hiện hòa bình bằng biện pháp chính trị, nếu không có đảng kêu gọi sự ủng hộ
của bạn bè thế giới thì cuộc chiến của ta và TQ chắc gì đã thành công.
Câu 7: Nội dung cơ bản của liên minh công - nông – trí trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Để làm rõ Tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh công-nông- trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ta tìm hiểu khai niệm liên minh công – nông
– trí thức:
Liên minh công- nông- trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự
đoàn kết, hợp lực, hợp tác,… của công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm
thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời
góp phần thực hiện lợi ích của cả dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội.
- Liên minh công- nông-trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một
tất yếu, xuất phát từ những đòi hỏi khách quan:
+ Do xã hội còn có sự phân công lao động rõ rệt giữa công nhân, nông
dân và trí thức. Sự phát triển bình thường của xã hội không thể thiếu được sự tổng


hợp các hoạt động của CN, NN và KH-CN, sự trao đổi, hợp tác giữa sản xuất vật
chất và tinh thần của công nhân, nông dân và trí thức. Công nhân là lực lượng cơ
bản sản xuất vật chất gắn với công nghiệp hiện đại; nông dân là người chủ yếu tạo
ra lương thực thực phẩm cho XH; trí thức vẫn là bộ phận nồng cốt trong hoạt động
khoa học, sản xuất tinh thần,… Do vây, xã hội không thể thiếu được sự tổng hợp
các hoạt động nêu trên, sự trao đổi và hợp tác về SXVC và tinh thần của công
nhân, nông dân và trí thức.
+ Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH rất phong phú và phức tạp, vì
thế rất cần phát huy nguồn lực con người, trong đó đông đảo là công- nông- trí
thức. Ngoài ra nó còn diễn ra trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện đấu tranh giai
cấp vẫn tiếp tục để hình thành những đặc trưng của CNXH do đó cần phải phát huy
mọi nguồn lực con người, trong đó lực lượng đông đảo nhất là công nhân, nông
dân, trí thức.
+ Công nhân, nông dân, trí thức thống nhất nhau về lợi ích cơ bản, cho
nên dễ đồng cảm, đoàn kết, hợp tác vì sự phát triển nói chung và vì lợi ích của
mình nói riêng. Họ là những giai tầng của những người lao động có nhiều nhu cầu,
khát vọng cơ bản thống nhất như được lao động và không bị bóc lột, có hòa bình
và độc lập dân tộc, được ấm no, tự do và được hạnh phúc. Cho nên, công nhân,
nông dân, trí thức dễ đồng cảm và đi đến đoàn kết.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó công, nông, trí thức
là phần đông. Quá độ đi lên CNXH ở nước ta là một quá trình tự thân vận động,
cách mạng phải là ngày hội của quần chúng, trong đó lực lượng công nhân, nông
dân, trí thức là lực lượng đông đảo nhất trong nhân dân.

+ Yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi cần có liên minh
vững chắc công- nông- trí thức nhằm tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để phát
triển. Trong thời đại ngày nay, với xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi các dân tộc các nước
phát triển theo hướng XHCN phải có một nền kinh tế phát triển với công, nông
nghiệp hiện đại, khoa học, công nghệ tiên tiến, do đó rất cần có liên minh vững
chắc công – nông – trí thức, nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng những thời
cơ để phát triển kinh tế, đưa đất nước tiến lên.
+ Liên minh công – nông – trí là cơ sở chính trị XH để được đảm bảo
trong thực tế sự lãnh đạo của Đảng đối với XH và xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Liên minh công – nông – trí là lực lượng đông đảo, là nồng cốt cho
khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng
hợp để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.


Tầm quan trọng của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá
độ lên CNXH
- Liên minh công – nông – trí là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản nói
chung và của thời kỳ quá độ lên CNXH nói riêng. Vì vậy việc liên minh công –
nông – trí vừa trước mắt vừa lâu dài và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
hay thất bại của cách mạng Việt Nam.
- Liên minh công – nông – trí là cơ sở chính trị xã hội pải được đảm bảo trong
thực tế lãnh đạo của ĐCS để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân.
- Liên minh công – nông – trí là lực lượng đông đảo làm nền tảng cho khối đại
đoàn kết dt để xd thành công CNXH & phát huy sức mạnh tổng hợp động viên mọi
nguồn lực in x dân để xd & bve tquoc VN XHCN.
- Xây dựng liên minh công – nông – trí thức, cũng như đại đoàn kết toàn dân
tộc là hình thành động lực động quan trong nhất của phát triển xã hội tạo nên sức
mạnh tổng hợp, động viên tối đa các nguồn lực trong nhân dân dưới sự lảnh đạo của

Đảng Cộng sản.
Liên hệ thực tế về xây dựng liên minh công – nông – trí thức ở Việt Nam
Liên minh giữa công-nông-trí trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là sự đoàn
kết, hợp lực, hợp tác.. giữa GCCN với GC nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực
hiện 2 nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng và bảo vệ tổ quốc VNXHCN. Đồng thời
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tực đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Do đó, liên minh công-nông- trí mang tính khách quan bởi vì giai cấp CNT
đều là lực lượng lao động làm ra của cải vật chất, tinh thần cho XH.
* Chúng ta hiện nay luôn phải xây dựng và củng cố tăng cường khối liên
minh ở nước ta hiện nay
1. Quán triệt và thực hiện tốt các Văn kiện của Đảng ta về xây dựng giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
ĐCSVN đã ban hành các văn kiện “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, “Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”, và “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đầy mạnh CNH, HĐH
đất nước”. Quán triệt và thực hiện tốt các văn kiện này là xây dựng được GCCN,
nông dân, đội ngũ trí thức vững mạnh và qua đó công – nông – trí thức đến với
nhau, đẩy mạnh liên minh, liên kết trên tất cả các lĩnh vực.


- Xây dựng GCCN: tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
về GCCN trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, CNH, HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tri thức hóa công
nhân; bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc; xây
dựng hoàn thiện và thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật đảm bảo quyền, lợi ích
chính đáng của công nhân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tốt vai trò
của công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng công nhân.
- Xây dựng giai cấp nông dân: xây dựng nần nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; xây dựng cơ sở hạ

tầng nông thôn gắn với phát triển đô thị; nâng cao đời sống vất chất tinh thân cho
người dân nông thôn; đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; đổi mới
chính sách để huy động có hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế nông thôn;
tằng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước, sức mạnh của các tổ chức
đoàn thể chính trị xã hội ở nông thôn, nhấ là hội nông dân.
- Xây dựng đội ngũ trí thức: tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt
động trí thức; thcự hiện chính sách đãi ngộ, trọng dụng nhân tài; nậng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng trí thức; đề cao trách nhiệm của trí thức, chất lượng hoạt
động trí thức; tăng cường nâng cao chất lượng sự lãnh đạo của Đảng đối với đội
ngũ trí thức.
2. Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH nông nhiệp, nông thôn và hoạt động
khuyến nông để thực hiện liên minh công – nông – trí thức ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta, nông nghiệp và nông thôn chiếm phần lớn và còn lạc hậu. Do đó,
phải CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ đó mở đường để công nhân và trí
thức chủ động đến hợp tác, liên kết với nông dân.
Hoạt động khuyến nông là một quá trình chuyển giao kiến thức, đào tạo kỹ
năng và trợ giúp những điều kiện vật chất càn thiết cho nông dân để tăng năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân
nông thôn. Do đó khuyến nông là một hoạt động thiết thực để liên minh công –
nông – trí thức...?
3. Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt dân chủ
cơ sở là góp phần quan trọng tăng cường liên minh công – nông – trí thức
hiện nay.
Xã, phường, thị trấn là nơi tập trung đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống.
Do đó, hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân, trong đó có liên minh công – nông – trí thức thực hiện đường lối,


chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,
phát huy duyền làm chủ của nhân dân,…

4. Phát hiện, hoàn thiện và nhân rộng mô hình liên minh công – nông –
trí thức trong thực tiễn.
Mô hình được xã hội quan tâm và nhân rộng ở nhiều nơi là hình thức “ liên
kết bốn nhà” – nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước.
5. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội và tổ chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân và trí thức, khắc phục
tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, làm tốt công tác dân vận
theo phong cách trọng dân, gân dân và có trách nhiệm với dân.
Kết Luận:
Trong giai đoạn hiện nay “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức’’ là nhiệm vụ lớn thứ tư trong 12 nhiệm vụ lớn mà
Nghị quyết Đại Hội X của Đảng đã đề ra. Trong nhiệm vụ này, Liên minh công,
nông, trí đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Thực tế lịch sử vừa qua đã cho thấy rõ: Từ thiếu đói những năm 80 của thế
kỷ trước, đến nay mới qua hơn 20 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ hai, xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều đứng thứ nhất trên thế giới... Đó là điều
chứng minh hùng hồn cho vai trò liên minh giữa nhà nông và công nhân nông
nghiệp, chế biến sản phẩm nông nghiệp với các nhà khoa học nông nghiệp, thương
nghiệp, tài chính, ngân hàng... Các ngành kinh tế khác cũng có những thành quả
đáng khích lệ do Liên minh công-nông góp phần tạo nên. Lịch sử đang mở ra một
chân trời mới cho sự phát triển của Liên minh công, nông, trí. Vấn đề còn lại là sự
nỗ lực của chúng ta./.
CÂU 8: Đặc trưng CNXH VN và Phương hướng lên CNXH VN theo
quan điểm Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Theo quan điểm của CN Mác- Lenin thì CNXH là giai đoạn thấp của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc
xây dựng so với CNTB. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin và
thực tiễn xây dựng CNXH, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của
CNXH như sau:
* Về chính trị:



×