Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Cuộc thi “tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của chủ tịch hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.09 KB, 33 trang )

Bài dự thi:

Cuộc thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp,
tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ”.
*******
Câu hỏi 01:
Bạn hãy nêu 5 điều Bác Hồ dạy thanh niên?
Trả lời
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta đã chứng minh điều đó. Những vĩ nhân như Hùng
Vương, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi... đều là những vị anh hùng có công dựng nước hoặc đánh đuổi
giặc ngoại xâm để giành độc lập cho đất nước, ghi những chiến công chói
lọi muôn đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những vĩ nhân ấy, là người anh
hùng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thời đại chúng ta. Công lao của Người
đối với nhân ta thật sự như trời như biển. Từ lúc Người ra đời thì đất nước
và nhân dân ta đang chìm trong vòng nô lệ, với hai tiếng Việt Nam thân yêu
không còn chỗ đứng trên bản đồ thế giới. Sự lầm than khổ cực bao trùm lấy
cả dân tộc ta. Trước thảm cảnh đó có biết bao người yêu nước đã đứng lên
tranh đấu để giải phóng đồng bào khỏi ách ngoại xâm: cụ Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu… mỗi người chọn cho
mình một hướng đi riêng, một cách làm riêng, nhưng rốt cuộc tất cả đều bị
bọn thực dân, đế quốc dìm trong bể máu.
Giữa lúc ấy có một người thanh niên yêu nước rời tổ quốc ra đi tìm câu
giải đáp cho đường lối cứu nước của dân tộc. Quãng thời gian gần 20 năm, từ
lúc rời xa Tổ quốc 5 - 6 - 1911 đến năm 1930 - đánh dấu bằng sự kiện ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định công lao to lớn mà Người đã để


lại cho dân tộc. Những năm tháng không quản ngại mọi khó khăn, thiếu thốn


đi khắp đó đây, tìm ra con đường đúng đắn - con đường giải phóng dân tộc
theo cách mạng vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Chính
Người - Bác Hồ vĩ đại đã cứu nhân dân ta thoát khỏi cuộc đời nô lệ kéo dài
gần 100 năm, Bác Hồ đã đem lại độc lập tự do cho đất nước ta, Người đã làm
cho hai tiếng Việt Nam rạng rỡ khắp năm châu bốn biển. Bác còn là một tấm
gương về đạo đức, một mẫu mực về một con người mới. Trên một tờ báo
"Đóm lửa nhỏ " năm 1923 một nhà thơ Liên Xô sau khi gặp Bác đã ca ngợi
Bác Hồ như sau: "Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa không phải
văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai".
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu ! còn để lại di sản quý
báu, vô giá… với 5 điều Bác Hồ dạy thanh niên, được nêu trong “thư gửi
thanh niên” in trên báo Nhân dân, số 4169, ngày 02 tháng 09 năm 1965.
Nhân dịp này, Bác Hồ dặn dò thêm các cháu mấy điều:
- Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “ trung với nước, hiếu
với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng”. Không sợ gì gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua
tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước.
- Phải tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân
dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Nâng cao ý thức tổ chức và
kỷ luật. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
- Luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị. Chống
kêu căng, tự mãn. Chống lãng phí, xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê
bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.
- Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ
thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.


- Luôn luôn chú ý và dìu dắt và giúp đỡ thiếu niên và nhi đồng, làm
tốt về mọi mặt cho đàn em noi theo1.

Câu hỏi 02:
Nêu khái quát những sự kiện chính cuộc đời hoạt động của Bác Hồ.
Qua các sự kiện chính, theo bạn sự kiện nào bạn cho là tâm đắc sâu sắc
nhất?
Trả lời
Cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
như một bản trường ca bất tận, nó không những đổi lại dấu son trong lịch sử
dân tộc Việt Nam mà còn cả đối với nhân loại. Với phạm vi và giới hạn
nghiên cứu như yêu cầu đặt ra, tôi chỉ xin được phép tóm tắt những sự kiện
chính của cuộc đời hoạt động của Bác Hồ kính yêu !
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19.5.1890 tại làng Hoàng Trù quê
mẹ, quê cha ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
Thời thơ ấu Hồ Chí Minh có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung. Lên 5
theo cha vào Huế. Năm 1901-1905, học chữ Hán ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Tháng 9 -1905, học lớp dự bị trường Tiểu học Pháp - Bản xứ ở thành
phố Vinh - Nghệ An. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Sinh Cung tiếp xúc với
khẩu hiệu “Tự do - bình đẳng - bác ái” của Đại Cách mạng tư sản Pháp.
Tháng 5-1908, Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) tham gia biểu
tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên và bị thực dân Pháp theo dõi.
Tháng 9-1910, Người dạy học ở trường Dục Thanh - Phan Thiết
(9/1910 - 1/1911).
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (lấy tên là Văn Ba) lên tàu
Amiran La Touche Tréville từ cảng Nhà Rồng rời Tổ quốc sang Pháp.

1

Hồ Chí Minh: Tuyển tập II, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tr. 382- 383


Cuối 1917, sau khi đã theo tàu buôn đi vòng quanh các nước châu

Phi, Mỹ, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp tham gia hoạt động chính trị tại
Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp và lấy tên
mới là Nguyễn Ái Quốc. 18-6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Người đã gửi tới Hội nghị Vecxay bản yêu sách 8 điểm của
nhân dân An Nam đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ
và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam bằng một văn bản pháp luật cao
nhất.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, từ
một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc trở thành người Cộng sản. Là một
trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp, đồng thời cũng là người
Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Tháng 6-1925: Nguyễn Ái Quốc, sáng lập Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội - đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá Chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức
để tiến tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 16 & 17-7-1920, báo L’Humanité đăng sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã thật
sự thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái Quốc. Sau này Hồ Chí Minh đã viết:
“Trong luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi
đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của
Lênin đã làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi
vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta!” Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”.
Ngày 10-10-1929, Nguyễn Ái Quốc bị Toà án Vinh (Nghệ An) xử
vắng mặt và kết tội tử hình.



Ngày 3 đến 7-2-1930, Nguyễn Ai Quốc chủ trì Hội nghị họp nhất các
tổ chức Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thông qua
những Văn kiện chính thức do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo: Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Người thay mặt Quốc tế cộng sản
và Đảng Cộng sản Việt Nam viết lời kêu gọi gửi đồng bào cả nước.
Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc mang thẻ căn cước với tên là Tống
Văn Sơ, bị sĩ quan Anh và cảnh sát Trung Quốc bắt ở Cửu Long (Hồng
Kông) . Tháng 8-1932, nhờ sự giúp đỡ của Luật sư Lôdơkai và ông Tômát
Xôntôn (phó Thống đốc Hồng Kông), Người được trả tự do và lại tiếp tục
hoạt động cách mạng.
Từ 1934 đến 1937, Hồ Chí Minh học tập tại các trường, Viện nghiên
cứu ở Liên Xô. 1937, Nguyễn Ái Quốc làm nghiên cứu sinh và chuẩn bị tư
liệu để viết luận án: “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”.
Cuối 1938-1940: Nguyễn Ái Quốc, hoạt động ở Trung Quốc. Liên lạc
với các đồng chí trong nước, xây dựng lực lượng, tổ chức để chuẩn bị cho
họ trở về nước hoạt động.
28-10-1941, sau hơn 30 năm nơi quê người xứ lạ, dò dẫm con đường
cứu nước Hồ Chí Minh đã về đến cột mốc 108 (Cao Bằng) trở về nước tiếp
tục dẫn dắt, chỉ đạo công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nước ta.
Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để liên lạc
với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng đồng minh.
Trong chuyến đi này Người đã bị quan quân Quốc dân Đảng (Trung Quốc)
bắt giam, giải đi nhiều nơi. Tháng 9-1943, Người mới được tha nhưng bọn
Quốc dân Đảng vẫn còn nhiều thủ đoạn để ngăn cản - “giam lỏng” Người.
Đầu tháng 9-1943, Hồ Chí Minh đã vượt Biên giới Việt - Trung trở
về Bắc Pó (Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Tháng 8-1945: Theo đề nghị của Hồ Chí Minh. Hội nghị toàn quốc
của Đảng được triệu tập tại Tân Trào, thành lập Uỷ ban khởi nghĩa (13-81945). Ngày 16-8 Đại hội Quốc dân được họp của ở Tân Trào bầu ra Uỷ



ban Giải phóng dân tộc Việt Nam - chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” do
chính Người soạn thảo tại Quảng Trường Ba Đình trước hàng chục vạn
đồng bào Thủ đô. Đây là bản khai sinh của nước Việt Nam độc lập sau gần
80 năm bị nô lệ và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 6-1-46: Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta đạt kết quả tốt đẹp
Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch chính phủ.
Ngày 31-5-1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp để tìm
mọi cách thương lượng với chính phủ Pháp mong ngăn chặn chiến tranh
Pháp - Việt sẽ nổ ra, Hội nghị đã không thành.
Trong các sự kiện mà tôi cho là quan trọng trong cuộc đời hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sự kiện ngày 2-9-1945 Người đọc “Tuyên
ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tôi cho là tâm
đắc nhất và sâu sắc nhất. Bởi lẽ, theo tôi đây không đơn thuần Hồ Chí Minh
chỉ là người thay mặt chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc
Tuyên ngôn độc lập mà đây còn là tác phẩm tâm huyết được đúc kết từ mấy
mươi năm hoạt động của Người. Nó là kết tinh của những tác phẩm lớn của
Hồ Chí Minh trước đó bằng tất cả tư duy thời đại của Hồ Chí Minh.
Bản Tuyên ngôn độc lập 1945 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn
thảo và ra đời trong không khí cách mạng dạt dào, sôi động của những ngày
tháng Tám lịch sử ấy. Đó là một trong số rất ít những bản Tuyên ngôn độc
lập được thế giới biết đến rộng rãi, đã đi vào lịch sử văn hoá nhân loại, trở
thành niềm tự hào vô hạn của dân tộc ta.
Đối với nhân dân Việt Nam, “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 là một
áng văn lập quốc vĩ đại, là bản anh hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử có giá trị về nhiều mặt:
chính trị, pháp lý, văn hoá, tư tưởng,… đồng thời là một tác phẩm chính



luận lớn, có giá trị cao về ngôn ngữ và văn học, xứng đáng được xếp vào
hàng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc. Trong bài này, chúng tôi chỉ xin đề
cập đến một phương diện của văn kiện đó, phương diện pháp lý và những
đóng góp của nó vào sự phát triển của nền pháp lý dân chủ và tiến bộ của
loài người trong thời đại ngày nay.
“Tuyên ngôn độc lập” là văn bản pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam
mới, công bố với quốc dân đồng bào và với thế giới và sự thành lập của
Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, mà sự ra đời đó là kết quả của quá
trình hơn 80 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất, đầy anh dũng hy sinh của
bao thế hệ người Việt Nam, “là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu
tính mệnh đã hy sinh,… là kết quả bao nhiêu hy vọng, gắn sức và tin tưởng
của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”.
Bản Tuyên ngôn đã tố cáo và lên án những tội ác man rợ của thực dân
Pháp đối với đồng bào ta về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá… trong đó
có tội trong năm năm chúng đã hai lần bán nước ta cho Nhật, từ đó nói rõ
cho thế giới và phe Đồng minh biết:
“Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không
phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã
đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt
Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập
nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”.
Trên cơ sở chân lý, chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng của
nhân dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn khẳng định với thế giới cơ sở pháp lý
về quyền của dân tộc Việt Nam được “hưởng tự do và độc lập” đồng thời
cũng vạch ra cơ sở thực tế là Việt Nam “sự thực đã thành một nước tự do và
độc lập”. Nếu “các nước Đồng minh đã công nhận các ntc dân tộc bình
đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không
nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.



Bằng những lý lẽ sắc bén, lập luận đanh thép và lời văn hùng hồn,
bản Tuyên ngôn đã khẳng định lại một lần nữa quyền của dân tộc Việt Nam
phải được sống trong độc lập, tự do như bất cứ dân tộc nào khác, “Một dân
tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Tóm lại, bản Tuyên ngôn đã lập luận trên một cơ sở pháp lý vững
chắc:
1. Thực dân Pháp xâm lược nước ta là chà đạp lên chân lý, chính
nghĩa. Chúng đã không bảo hộ được ta, trái lại trong năm năm đã bán nước
ta hai lần cho Nhật.
2. Nước ta bị Nhật chiếm đóng. Ta đã lấy lại đất nước từ tay Nhật.
Theo các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn: nếu đã công nhận quyền dân
tộc tự quyết của các nước đã bị phát xít chiếm đóng thì phải công nhận
quyền độc lập của Việt Nam, một nước đã gan góc đứng về phe Đồng minh
chống phát xít, giành độc lập.
Một lập luận như vậy đã có tác dụng cảnh cáo Pháp, một nước Đồng
minh đã cam kết ở Têhêrăng và Cựu Kim Sơn không thể núp bóng Đồng
minh lăm le trở lại thống trị dân ta một lần nữa!
Tuyên ngôn độc lập chẳng những là sự đúc kết những văn kiện pháp
lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trước đó như bản Yêu sách của nhân
dân An Nam (1919), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Đây, công lý của
thực dân Pháp ở Đông Dương, … mà còn là sự kế thừa và phát triển những
giá trị pháp lý đã được ghi nhận trong các bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong
lịch sử nhân loại.
Tuyên ngôn độc lập 1945, mở đầu bằng cách viện dẫn lại những “lời
bất hủ” được ghi trong các bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ và
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của nước Pháp về những quyền
cơ bản của con người, những quyền “không ai chối cãi được”, đó là quyền



được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng về
quyền lợi. Những quyền đó là thành quả chung của nhân loại trong cuộc
đấu tranh hàng ngàn năm chống lại ách áp bức, bất công của các chế độ nô
lệ, phong kiến và thực dân tàn bạo đối với con người. Các quyền đó đã dần
dần được thể chế hoá trong hiến pháp và pháp luật của nhiều nước tư bản
Âu- Mỹ. Nhắc lại những chân lý bất hủ đó để chứng tỏ rằng tư duy pháp lý
của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam là thống nhất và liền mạch với tư
duy pháp lý của nhân loại tiến bộ, không xa lạ với những chân lý phổ biến
đã được coi là thành quả văn minh của loài người.
Tuy nhiên, tác giả Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam đã không dừng
lại ở đó. Người thấy rõ công lao và hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản.
Các cuộc cách mạng này đã biết gương cao ngọn cờ nhân quyền và khẩu
hiệu tự do, bình đẳng, bác ái nên đã lôi cuốn được nhân dân đứng lên lật đổ
chế độ phong kiến tàn bạo, lập nên chế độ cộng hoà; đã nâng các quyền con
người lên thành các nguyên tắc pháp lý, coi đó là những quyền tự nhiên,
thiêng liêng, bất di bất dịch.
Nhưng giai cấp tư sản, xuất phát từ đặc điểm và lợi ích giai cấp của
họ, đã tuyệt đối hoá vai trò của tự do cá nhân, của quyền tư hữu “thiêng
liêng, bất khả xâm phạm”, đã nhấn mạnh cực đoan, một chiều yếu tố cá
nhân, đi tới đối lập cá nhân với cộng đồng, quyền của mỗi con người với
quyền của tập thể, xã hội và dân tộc. Vì vậy, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vạch rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Người viết:
“Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mạng tư sản,
cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì
nó bóc lột công nhân, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy dưới chế độ tư
sản, bất công xã hội và áp bức bóc lột vẫn không ngừng tăng lên, đặc biệt ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc, và chiêu bài về quyền con người chỉ còn
là một trò bịp lớn.



Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ cũng không phải là tiêu biểu
đích thực cho cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa mà chỉ là
cuộc nổi dậy của những người châu Âu di cư và định cư tại đó, những
người vốn có quan hệ máu mủ, ruột thịt với những người da trắng ở chính
quốc! Vì vậy Tuyên ngôn độc lập 1776 của Bắc Mỹ đã tố cáo nền độc tài
chuyên chế của anh hoàng ở xứ thuộc địa này, đã lên án chế độ thuế khoá
nặng nề, những thủ đoạn vơ vét, tàn sát, cướp bóc… của bọn lính đánh thuê
ngoại quốc, tóm lại là “những cảnh ngộ tàn bạo và giả dối hầu như chưa hề
có trong những kỷ nguyên dã man nhất và hoàn toàn không xứng đáng với
một nguyên thủ của một dân tộc văn minh”.
Cuối cùng, Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ cũng chỉ đưa ra lời
tuyên bố độc lập, thoát khỏi mọi ràng buộc với ngôi vua Anh quốc, rằng với
tư cách là một quốc gia tự do và độc lập, nó có thể làm tất cả điều gì mà
những quốc gia độc lập có quyền làm. Song tác giả của bản Tuyên ngôn đã
chưa từ chỗ khẳng định nền độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để tiến
lên đưa ra được lời tuyên bố ủng hộ nguyện vọng độc lập của các thuộc địa
khác. Vì vậy, những khẩu hiệu mà Tuyên ngôn đó nêu cao như quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc,… thực chất
cũng chỉ nhằm đáp ứng đòi hỏi của giai cấp tư sản trong những người vì
dân da trắng mà thôi.
Sự phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, sau khi
dẫn ra lời nói bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Người
đã viết: “suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Từ quyền cơ bản của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nâng lên thành quyền cơ bản của các dân tộc, khẳng định đó như một
nguyên tắc pháp lý, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ hai,

khi mà trật tự pháp lý quốc tế chỉ nhằm phục vụ quyền lợi ích kỷ của các


nước lớn tư bản, đế quốc. Tuyên ngôn độc lập 1945 của nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà chính là lời tuyên bố cáo chung của chế độ thuộc địa dưới mọi
hình thức, đồng thời cũng là lời báo hiệu mở đầu thời đại trỗi dậy của các
dân tộc thuộc địa đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
Chính vì vậy, nhiều nước Á - Phi đã thừa nhận đóng góp to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một nền công pháp quốc tế mới, một
nền công pháp đảm bảo cho các quyền tự do, bình đẳng của con người và
quyền tự quyết, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong việc tự do
lựa chọn con đường phát triển của mình về chính trị, kinh tế, văn hoá.
Đánh giá ý nghĩa quốc tế, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn độc lập
của nước ta, trong lễ trao bằng tiến sĩ luật khoá danh dự cho Chủ tịch Hồ
Chí Minh năm 1959, ông Giám đốc Trường Đại học Tổng hợp Băng- Đung
(Indonésia) đã nói: “Đó là một đạo luật mới của nhân dân thế giới khẳng
định quyền tự do, độc lập bất khả xâm phạm của các dân tộc bị áp bức”.
Kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9; từ
yêu sách tám điểm đến Tuyên ngôn độc lập, hai văn kiện, một chặng đường
lịch sử, một tư tưởng và ý chí duy nhất: “Không có gì quý hơn Độc lập - Tự
do”. Đó là cống hiến to lớn của dân tộc Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào tư tưởng chính trị và tư tưởng pháp lý của nhân dân các dân tộc bị
áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại pháp lý “ăn cướp” của các thế lực
xâm lược, cũ và mới, trong thời đại chúng ta.
Qua các sự kiện chính cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, theo tôi sự
kiện: “cuộc tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tâm đắc, sâu sắc
nhất !”.
Bởi vì:
Cuộc tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc ? Chúng ta biết rằng
giữa lúc dân tộc ta đang khủng hoảng về đường lối cứu nước, thì năm 1911,

người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước,


giải phóng dân tộc, trên cơ sở nhận thức sâu sắc những hạn chế trong chủ
trương cứu nước của những người yêu nước đi trước.
Nguyễn Ái Quốc đa đến rất nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ ; từ đó Người rút ra những nhận thức đúng đắn về bạn, thù nhưng
lại chưa tìm thấy con đường cứu nước.
Vào tháng 6 năm 1919, sau chiếu tranh thế giới lần thứ nhất, các
nước mở rộng hội nghị chia lại thuộc địa ở Vecxây, Nguyễn Ái Quốc đã gửi
tới Hội nghị bản yêu sách tám điểm đòi các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng
cho nhân dân Việt Nam và đã gây được tiếng vang lớn.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng
rất lớn đến xu hướng hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo luận cương
vế vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và đã lựa chọn dứt khoát: Kết
hợp cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản.
Tháng 12 - 1920, tại Đại hội Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã
bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành chiến sỹ Cộng sản đầu tiên của dân tộc
Việt Nam.
Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa cộng sản trong con người Nguyễn Ái Quốc, đã mở đường giải quyết
sự khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam.
Như vậy, vấn đề đặt ra ? vì sao trong số bao nhiêu người Việt Nam đi
tìm đường cứu nước, chỉ có Nguyễn Ái Quốc là người duy nhất tìm thấy con
đường đúng đắn ?
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lớp lớp người Việt Nam dấn
thân đi tìm đường, lần lượt thử nghiệm các con đường, phương sách cứu
nước, nhưng tất cả đều thất bại, do hạn chế của lịch sử và của bản thân các

nhà yêu nước.


Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam duy nhất tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn, bởi vì:
Về mặt khách quan: có ảnh hưởng to lớn vạch thời đại của cuộc Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, của Quốc tế cộng sản (thành lập năm
1919) và của tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin: Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại ! Thất bại của lớp người đi trước đã chứng minh
một khả năng bất thành, vế mặt khách quan đã giúp cho thế hệ sau không
phải làm lại cuộc tìm đường.
Về mặt chủ quan: Nguyễn Ái Quốc hội đủ những phẩm chất đặc biệt của
một lãnh tụ thiên tài, Nguyễn Ái Quốc có tấm lòng yêu nước, thương dân
sâu sắc, nồng nhiệt. Đây là điểm xuất phát và cũng là tiền đề cơ bản để
Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, để kiểm nghiệm sự đúng đắn của
các con đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc được trang bị nền tảng văn hoá
vững chắc của dân tộc và của phương Đông, phương Tây là cơ sở thuận lợi
để tiếp nhận một cách tự nhiên các tư tưởng tiên tiến của thời đại, vì bản
thân các tư tưởng này là đỉnh cao của văn hoá.
Nguyễn Ái Quốc có một trí tuệ thiên tài: từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc đã
quan sát với óc phê phán thiên tài các con đường cứu nước của các cụ Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, … Bác Hồ rất kinh phục
nhưng không đi theo con đường đó; Nguyễn Ái Quốc chọn hướng đi độc
đáo: sang phương Tây là nơi đang là trung tâm văn minh của nhân loại, nơi
tập trung những xung đột ý thức hệ lớn … từ đó mới có cơ hội tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin và tiếp xúc với các cuộc cách mạng vô sản; Nguyễn Ái
Quốc với cách đi độc đáo: vừa làm, vừa học, vừa hoạt động thực tiễn, vừa
tìm hiểu, nghiên cứu, kiểm nghiệm lý luận, nên những kết luận chính trị rút
ra rất chính xác.
Qua những luận cứ trình bày trên, chúng ta khẳng định: Con đường cứu

nước của Nguyễn Ái Quốc là duy nhất đúng đắn, vì:


Đây là kết luận của chính lịch sử Việt Nam. Tất cả các con đường cứu
nước do các lanh tụ của các phong trào yêu nước tìm kiếm, thử nghiệm đều
không thành. Con đường dân tộc phong kiến đã thất bại. Con đường dân tộc
tư sản con có thể đí đến thắng lợi ở một số nước thuộc địa, nhưng ở Việt
nam, giai cấcp tư sản dân tộc yếu ớt về kinh tế, què quặt về chính trị, lại
sinh sau giai cấp vô sản đã lớn mạnh, nên không thể đủ sức hướng đất nước
theo con đường của họ, như thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã chứng
minh. Cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tất
yếu, sau khi tất cả các con đường khác đã thất bại.
Về logic, trước đây dân tộc ta đã chiến thắng những kẻ địch mạnh hơn,
nhưng nay lại thất bại trước thực dân Pháp, vì kẻ thù mới hơn ta một trình
độ phát triển về vật chất, kỹ thuật. Chỉ riêng lực lượng dân tộc và kho vũ
khí truyền thống không đủ sức chiến thắng. Đặt cuộc giải phóng dân tộc vào
quỹ đạo cách mạng vô sản, sẽ có sức mạnh tổng hợp của dân tộc truyền
thống và giai cấp quốc tế và thời đại …để chiến thắng thực dân Pháp.
Con đường cứu nước mới là kết luận cuối cùng sau qúa trình khảo cứu
khoa học, công phu của nhà yêu nước chân chính và lãnh tụ thiên tài
Nguyễn Ái Quốc.
Thực tế lịch sử Việt Nam đã kiểm chứng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam với cương lĩnh cứu nước đúng đắn đã chấm dứt cuộc khủng
hoảng con đường cứu nước, mở ra bước ngoặt thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là sự chuẩn bị công phu, đồng thời đặc biệt có ý nghĩa đối với sự thắng
lợi của cuộc cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi 03:



Câu nói bất hữu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
ra đời trong hoàn cảnh nào ? Liên hệ với thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế,
bạn có suy nghĩ gì về câu nói đó ?
Trả lời
Câu nói bất hữu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
ra đời vào ngày 17 tháng 07 năm 1966, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn thể đồng
bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược.
Bác Hồ Khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc
lập, tự do ! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Với câu nói bất hữu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do” được in trên báo Nhân dân, số 4484, ngày 17 tháng 07 năm 19661.
* Liên hệ với thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, bạn có suy nghĩ gì về
câu nói đó ?
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã sản sinh ra biết
bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là những nhà tư tưởng lớn.
Nhưng không ai có sự nghiệp và tư tưởng mang tầm vóc thời đại như Hồ
Chủ tịch được cả loài người ca ngợi. Hồ chủ tịch là vị lãnh tụ kính yêu của
Đảng ta, của giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc ta.
Hồ Chủ tịch là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy Chủ nghĩa Mác Lênin ánh sáng soi đường của cách mạng Việt Nam, đó là đường lối cứu
nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đó là con
đường kết hợp chủ nghĩa nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
1


Hồ Chí Minh: Tuyển tập II, Nxb, Sự Thật, H.1980, tr. 430


Bằng cả cuộc đời và hoạt động của mình, Người đã cùng Đảng và
nhân dân ta trên con đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng khác đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
hai kẻ thù mạnh chưa từng có trong lịch sử, để đem lại nền độc lập cho đất
nước, cho dân tộc, Nam Bắc thống nhất sum họp một nhà.
Người đã dày công xây đắp nên khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc
và tư tưởng Người đúc kết trong khẩu hiệu chiến lược "Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Để trở thành nguồn
cổ vũ động viên, thành ngọn cờ tập hợp những người Việt Nam yêu nước
trong phong trào giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Người không những là người cha thân yêu của các lực
lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết
chiến quyết thắng làm nên những chiến công vang dội, được cả loài người
khâm phục và ca ngợi.
Người đã khai sinh nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, lập nên
Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân làm chủ đầu tiên ở Đông Nam Á.
Đồng thời người đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta, đưa nước ta theo con đường CNXH ở một nước nông
nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá, để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành. Để tạo nền tảng đi tới mục tiêu một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế trong giai đoạn hiện nay,
câu nói bất hữu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” càng
được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta:
Ý thức quốc gia, dân tộc làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt
có tự ngàn xưa.



Cuộc chiến đấu với thiên nhiên và giặc ngoại xâm trong hàng ngàn
năm lịch sử đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam trong truyền thống đoàn kết một trong những truyền thống cực kỳ quý báu. Kế thừa và phát triền truyền
thống đó, ngay từ ngày thành lập, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
trọng và phát triển đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh
truyền thống với sức mạnh thời đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc
tế, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Riêng đối với bản thân, càng ý thức đúng đắn, sâu sắc, với tinh thần
nhận thức trách nhiệm cao hơn về câu nói bất hữu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong công tác, lao động và
học tập … là luôn ý thức cao, cảnh giác cao độ đối với thời kỳ hội nhập
kinh tế, quốc. Chẳng hạn như các phần tử lợi dụng tự do, dân chủ mà chống
phá chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước ở nước
ta hiện nay như Hoàng Minh Chính, Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh,

Thực tế cho chúng ta thấy, trải qua 77 năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta, sự nghiệp đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế được củng cố và phát
triển, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của thế lực thù địch đối với cách
mạng Việt Nam, sự nghiệp công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh nghiệm cho thấy, khi nào chúng ta biết nêu cao ngọn cờ đại
đoàn kết toàn dân, phat huy được sức mạnh của dân tộc, tranh thủ được sức
mạnh quốc tế khó khăn đến mấy, gian khổ đến đâu cũng vượt qua; ngược
lại, khi yếu tố dân tộc bị xem nhẹ, mắc phải sai lầm trong việc đoàn kết, tập
hợp lực lượng trong dân tộc thì cách mạng gặp không ít khó khăn.
Như vậy, đây là bài học lớn rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết:



“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Mặt khác, chúng ta nhận thấy rằng, xuất phát từ nhận thức mới về
thời đại và những xu hướng chủ yếu trong thế giới ngày nay, từ yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và với câu nói bất hữu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đòi hỏi toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân tăng cường, phấu đấu hơn nữa vì mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội X, đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"1.
Những thành tựu to lớn, mà chúng ta đạt được trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế và những tổ chức kinh tế quốc tế nước ta đã tham gia:
- Ngày 28 - 7 - 1995, nước ta đã trở thành thành viên của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và bắt đầu tham gia khu vực mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA), thời hạn hoàn thành của AFTA đối với nước ta là 01
- 01 - 2006. Theo cam kết, đến giai đoạn 2015 - 2020, ASEAN sẽ là một
khối thị trường tự do hoàn thành với mức thuế suất bàng 0%.
- Tháng 3 - 1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu
(ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập.
- Tháng 9 - 1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC).

1

Đảng Cộng sản Việt Nam(2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,Hà Nội, tr
112.



- Tháng 9 - 1996, Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm về Hiệp định
thương mại song phương. Ngày 13 - 7 - 2001, Hiệp định được chính thức
ký kết và có hiệu lực từ ngày 10 - 12 - 2001.
- Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO từ tháng 01 - 1995, và bắt
đầu đàm phán để gia nhập tổ chức này từ 7 - 1998. Việt Nam đã mất 11 năm
để chuẩn bị gia nhập WTO, bao gồm 8 năm đàm phán. Ban Công tác về
việc gia nhập WTO của Việt Nam được thành lập vào ngày 31 - 01 - 1995,
và đã gặp nhau 14 lần kể từ tháng 7 - 1998 tới thánh 10 - 2006. Kết quả đến
ngày 7 - 11 - 2006, ông Chủ tịch Đại hội đồng WTO đã gõ búa chính thức
thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập của Việt Nam. Ngày 30 - 11 về việc phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Như vậy, còn 30 ngày
nữa (tính từ ngày 30 - 11 - 2006) nước ta sẽ trở thành thành viên chính thức
của WTO. Cùng với việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới, nước ta đã hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế
giới.

Câu hỏi 04:
Hãy nêu toàn văn tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân”. Qua tác phẩm này bạn rút ra những bài học gì trong
công tác, lao động và học tập cho bản thân.
Trả lời
Toàn văn tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó
là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta.
Trải qua 39 năm đấu tranh quyết liệt, làm cách mang Tháng Tám
thành công và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng



chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Đảng ta lãnh đạo
rất sáng suốt, đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng ta và trong mọi hoạt động
hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ,
đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau
và làm nên những thành tích rất vẻ vang.
Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như
trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác.
Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế.
Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng
viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân , việc gì cũng nghĩ đến lợi ích
riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn
“mọi người vì mình”.
Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ
hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự
cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên
quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh
lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vượt lên, không chịu học tập để tiến
bộ.
Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đàon kết, thiếu tính tổ chức, tính
kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính
sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của
nhân dân.
Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.
Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách
mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức



của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh
trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê
bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Công
tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nậng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải sâu sát thực tế, gần gũi quần
chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nậng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi
nhiệm vụ.
Đó là mộ cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta, Đảng vĩ
đại của giai cấp công nhân và nhân dân anh hùng của chúng ta. Đó cũng là
một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức
nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và xây dựng
chủ nghĩa xã hội thành công.1
Qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần quán triệt, sâu sắc, triệt
để, sâu rộng học tập tư tưởng tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội,… từ đó, phát huy mọi tiềm
năng, tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước, phấn đấu vì mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” - theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Người viết: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói
rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc. Cuộc cách mạng xã hội chủ

1


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t 12, tr 438 - 439


nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây
dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Với Người, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mơ ước, lý tưởng mà phải
được thể hiện cụ thể từng bước ngay ở nhiệm vụ trước mắt. Vấn đề sáng tạo
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã
đề ra mục tiêu trước mắt của chủ nghĩa xã hội một cách rất thiết thực, cụ
thể, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội,
Người đã giải thích về chủ nghĩa xã hội một cách rất cụ thể, dễ hiểu. Người
nói: Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống cuộc
đời hạnh phúc; chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh; chủ
nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành;
chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu
chúng ta ngày càng sung sướng; …
Tuy nhiên, qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh, tôi nhận thức rằng cần rút ra những bài
học cho bản thân như sau:
Thứ nhất, Cần là làm cần cù, việc siêng năng, chăm chỉ, trung thực,
giữ nghiêm kỷ luật, nội quy, quy định trong học tập, công tác, lao động để
hoàn thành tốt công việc.
Đối với mỗi cán bộ, công nhân viên chức nói chung và đối với bản
thân tôi nói riêng, Cần - trong quá trình đi dạy, khi đấn lớp phải đúng giờ,
không được đến trễ, về sớm; đồng thời cũng phải làm cho chóng, cho chu đáo
trong tất cả mọi công việc. Một điều cực kỳ quan trọng là công việc ngày nào
thì phải nên làm xong ngày ấy, không được để qua ngày mai. Bởi chúng ta nên

nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì
giờ đó. Ai lười biếng tức là gạt dân. Chính vì vậy: tất cả mọi người chúng ta
đều cần, cả nước đều phải cần.


Mặt khác, cần - trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, phải biết làm việc có kế hoạch, có lịch phân công, tính toán rõ ràng, áp
dụng khoa học công nghệ kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động, đât được hiệu quả một cách tối ưu; ngoài ra từ bỏ lối làm ăn lạc hậu,
coi trọng công tác nghiên cứu khoa học, phổ biến khoa học kỹ thuật cho mọi
người học tập. Điều này đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn cho
chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch trong mọi công việc”2.
Nhự vậy, Cần đi đôi với Chuyên, nghĩa là phải dẻo dai, bền bỉ, kiên
trì, không làm xổi. “Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ cả năm cả
đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng
của minh để làm việc cho lâu dài” 3. Qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh, tôi càng nhận thức
rằng, coi sự lười biếng là kẻ địch của chữ Cần, cũng là kẻ địch của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta. Từ đó chó thấy, giá trị to lớn của tác phẩm “Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh cho
đến ngày nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa sâu sắc, và tính thời sự. Trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá mạnh mẽ, phát triển tăng trưởng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bản thân tôi nhận thức
rằng, cần phải nêu cao chữ Cần, phải lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ,
có kỷ cương, có kỷ thuật và năng suất cao, giá thành hạ, tạo nên sản phẩm
mang tính cạnh tranh, trong khu vực, quốc tế.
Thứ hai, Kiệm là phải tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí không
bùa bãi, tuy nhiên tiết kiệm không phải là bủn xỉn, gặp việc đáng làm cũng
không làm, đáng tiêu dùng cũng không tiêu. Khi không tiêu xài thì một hạt
gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho

đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui
lòng, như thế mới đúng là tiết kiệm. Chẳng hạn, đối với tôi trong quá trình
2
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, tr 633.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, tr 634.


giảng dạy khi làm đồ chơi đòi hỏi phải biết tiết kiệm đồ dùng làm cho chơi cho
trẻ, tiết kiệm điện, nước, bảo quản của công,….
Từ đó chúng ta khẳng định rằng: Cần phải đi đôi với Kiệm: Cần mà
không Kiệm thì tay không lại hoàn tay không, sản xuất mà không tiết kiệm thì
khác nào gió vào nhà trống. Đồng thời, để tiết kiệm phải tuyệt đối kiên quyết
chống xa xỉ.
Bên cạnh đó, chúng ta phải “tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí, và bệnh
quan liêu” như thực trạng nhức nhối trong hệ thống giáo dục hiện nay, có một
bộ phận thầy, cô chiếm không nhỏ là nạn tham ô, gây bức xúc xã hội; đã làm
mất đi hình ảnh cao quý, thanh cao, tinh khiết… đối với học trò và mọi người
trong xã hội.
Mặt khác, một thực tế diễn ra hiện nay, cho thấy tình trạng lãng phí
(như các công trình, những quy hoach đề án… ) tiền bạc, của cải Nhà nước rất
nhiều; nhưng mỗi người chúng ta đều hiểu tiền bạc, của cải… mà Nhà nước có
được lại từ nhân dân là chính, bởi vì không ai, không biết rằng: Tiền bạc, của
cải Nhà nước có được lại từ nguồn chính là thuế của nhân dân nộp.
Qua đây, chúng ta càng nhận thức sâu sắc rằng, tác phẩm “Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh có giá
trị to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với cả dân tộc ta. Và việc Chính phủ ban ra Chỉ
thị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đáp ứng nhu cầu
cấp thiết hiện nay.

Thứ ba, Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, đại vị, danh lơi,
chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Như vậy,
đối với bản thân nhận thức qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh là luôn luôn nâng cao đức
Liêm, luôn giữ gìn sự trong sạch, không tham địa vị, quyền hành, danh, lợi, an
phận …. Trong quá trình hoạt động học tập, công tác và lao động. Bởi vì, tham
tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon,… đều là bất Liêm.


Ngoài ra, do bất liêm mà đi đến tội ác, trộm cắp, tham ô. Vì vậy, để
thực hiện tốt chữ Liêm , trước hết bản thân tôi phải thực hiện, hành động tốt,
đồng thời, cần tuyên truyền, giáo dục đến trong mỗi thành viên gia đình. Qua
đó chúng ta mới thấy, chính bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội, toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân, các Ban, ngành đoàn thể… tăng cường, ra sức
nhiều biện pháp tổ chức vận động cuộc “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”.
Như thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định khi thực hiện chữ Liêm,
vẫn còn giá trị, ý nghĩa sâu sắc và có sức sống mãnh liệt cho đến ngày nay.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “cần tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp
luật, từ trên xuống, từ dưới lên”; trong đó cán bộ phải thực hành chữ Liêm
trước để làm mẫu cho dân, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm
soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm. Pháp luật phải thẳng tay trừng
trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì1.
Thứ tư, Chính là phải thẳng thắn, đứng đắn; là việc phải thì dù nhỏ
cũng làm, việc trái thì nhỏ cũng tránh, đồng thời phải có công tâm, công đức.
Chớ đem của công dùng vào việc riêng, chớ đem người tư làm việc công.
Trong mọi công việc đều phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân tư
huệ, hoặc tư thù tư oán… thực hiện trong quá trình học tập, công tác và lao
động ở cơ quan cũng như trong xã hội.
Nhìn chung, qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch

chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, vào quá trình
học tập, rèn luyện, công tác và lao động thì đối với tôi cũng như tất cả mọi
người dân Việt Nam là: tích cực chủ động lao động, học tập, công tác với tinh
thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng
công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, không
lãng phí, không phô trương, hình thức, biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn
của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả. Đồng thời,
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, tr 641.


×