Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

GIÁ TRỊ lý LUẬN và THỰC TIỄN của tác PHẨM sửa đổi lề lối làm VIỆC về xây DỰNG ĐẢNG và CHÍNH QUYỀN NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.34 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
Chương 1. Bối cảnh lịch sử ra đời, chủ đề tư tưởng và kết cấu của Tác
phẩm...................................................................................................................4
1.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm............................................................4
1.2. Chủ đề tư tưởng và kết cấu của tác phẩm.....................................................4
Chương 2. Nội dung cơ bản của tác phẩm......................................................5
2.1. Sửa đổi lối làm việc của Đảng - yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng............................................................................................................5
2.2. Vai trò của lý luận và tổ chức thực tiễn........................................................6
2.3. Vấn đề bản chất và tư tưởng của Đảng cách mạng......................................7
2.4. Vấn đề đạo đức cách mạng...........................................................................9
2.5. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ của Đảng..............................................10
2.6. Phương thức lãnh đạo của Đảng.................................................................12
2.7. Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng.....................................15
Chương 3. Giá trị lý luận, thực tiễn của tác phẩm và vận dụng vào
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước ta hiện nay...........................................16
3.1. Giá trị lý luận và thực tiễn..........................................................................16
3.1.1. Giá trị lý luận...........................................................................................16
3.1.2. Giá trị thực tiễn........................................................................................17
3.2. Vận dụng những tư tưởng của tác phẩm vào công tác xây dựng Đảng,
Nhà nước ta hiện nay.........................................................................................17
3.2.1. Các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã
hội và cán bộ, đảng viên phải tập trung quán triệt và tổ chức thực hiện tốt
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay...........................................................................................17


3.2.2. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của Nhà nước............................................................................................21


3.2.3. Thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ.....................................................22
3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương
...........................................................................................................................24
KẾT LUẬN......................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................27


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, Người sáng lập và rèn
luyện Đảng ta; là người sáng lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
- một nhà nước pháp quyền hoàn toàn mới. Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Hình ảnh Bác Hồ, lý tưởng vĩ đại, sự nghiệp cao cả,
đạo đức sáng ngời của Người mãi mãi là tấm gương sáng chói và nguồn
cổ vũ lớn lao để lớp lớp thế hệ Việt Nam học tập và noi theo.
Nói về cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Bác từ
trần, điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết: "Hơn 60 năm
qua, từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ tịch đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế
giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô
cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ.
Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chủ tịch đã sớm đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin ánh sáng soi đường
cứu dân, cứu nước. Hồ Chủ tịch là người Việt Nam đầu tiên đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta, vạch đường chỉ lối
cho cách mạng Việt Nam từng bước tiến lên, từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Hồ Chủ tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là
người xây dựng nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam và Mặt trận dân tộc
thống nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên
những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta.
1


Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch,
người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta và non sông đất nước ta".
Đó là cuộc đời chiến đấu bền bỉ, thực hiện cho được sự ham muốn
tột bật của mình là đất nước được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Đó là cuộc đời sáng chói, chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần
độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân tha thiết, chí công vô
tư, lạc quan, khiêm tốn, giản dị.
Bảy mươi chín mùa xuân của Người để lại biết bao bài học quý báu
cho các thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của Người, trong đó có những
tác phẩm, những nguyên lý về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
đã được cuộc sống kiểm nghiệm và đã trở thành chân lý. Trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” (được in trong tập 5 bộ Hồ Chí Minh toàn tập, từ
trang 229 đến trang 306, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh ấn hành năm 1995), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán “chủ nghĩa
cá nhân” vì đó là một thứ “vi trùng rất độc” nó sinh ra các khuyết điểm
nghiêm trọng như bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu
kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”,
kéo bè, kéo cánh, bệnh cận thị không biết nhìn xa trông rộng…. Đồng
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra nguyên nhân và phương hướng khắc
phục những sai lầm, khuyết điểm.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay (số 12NQ/TW ngày 16/01/2012) đã chỉ rõ:
2



"1. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng
chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân,
Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp
cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khoá đã
ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trên cơ sở đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết
quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng
được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới;
vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng
được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng
thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn
luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ
nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành
quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn
của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo
dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn
đề cấp bách sau đây:
3



Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tuỳ tiện, vô nguyên tắc....".
Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn chủ Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” sẽ góp phần đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với
Đảng.
Với những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Giá trị lý luận và thực
tiễn của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
vận dụng vào công tác xây dựng Đảng, Nhà nước ta hiện nay" để
nghiên cứu, làm đề tài tiểu luận môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước.

4


Chương 1
Bối cảnh lịch sử ra đời, chủ đề tư tưởng và kết cấu của Tác phẩm
1.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và
hoàn thành vào tháng 10 năm 1947. Tình hình đất nước và công tác xây
dựng Đảng lúc này có nhiều điểm mới, đặt ra nhiều yêu cầu mới.

- Về tình hình đất nước, năm 1947 là năm đầu tiên toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Các cơ quan của Đảng, Chính phủ, đoàn thể
chuyển lên chiến khu, hoạt động trong điều kiện chiến tranh, phân tán.
Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 vang dội đã có tác động tạo
niềm tin chiến thắng, khích lệ, cỗ vũ tinh thần kháng chiến của quân và
dân cả nước, trên khắp các chiến trường và tạo điều kiện để củng cố tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta lúc đó
được tiến hành trong điều kiện tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải phát huy vai trò tiên phong,
gương mẫu, nêu cao đạo đức cách mạng, dám chấp nhận hy sinh gian khổ,
đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết; phải thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống quan liêu, xa rời quần chúng, kiên
quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức.
- Đảng ta, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở thành Đảng cầm
quyền. Trong điều kiện đó, xây dựng Đảng phải ngang tầm với nhiệm vụ
5


“kháng chiến, kiến quốc”, đặc biệt là công tác tư tưởng, tổ chức, có ý
nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, Đảng chủ trương xây dựng
các “chi bộ tự động công tác” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo
trong lãnh đạo của các cấp bộ Đảng. Để có tài liệu cho cán bộ, đảng viên
học tập, rèn luyện, tư dưỡng trên các mặt tư tưởng, đạo đức và phương
pháp làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh X.Y.Z đã viết tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc. Đầu năm 1948, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản,
phát hành.
1.2. Chủ đề tư tưởng và kết cấu của tác phẩm
- Tác phẩm đề cập đến các vấn đề quan trọng của công tác xây dựng,

chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phương thức, phương pháp lãnh đạo
và công tác quần chúng của Đảng trong điều kiện kháng chiến, kiến quốc.
- Về hình thức, tác phẩm được chia thành 6 mục lớn, đánh số thứ tự
từ I đến VI. Cụ thể: I. Phê bình và sửa chữa; II. Mấy điều kinh nghiệm;
III. Tư cách và đạo đức cách mạng; IV. Vấn đề cán bộ; V. Cách lãnh đạo;
VI. Chống thói ba hoa. Trong mỗi mục lớn có nhiều mục nhỏ được sắp
xếp theo một trật tự chặt chẽ, bảo đảm tính liên hoàn, chỉnh thể của một
tác phẩm lý luận.

Chương 2
Nội dung cơ bản của tác phẩm
"Sửa đổi lối làm việc" là tác phẩm lý luận quan trọng về xây dựng
Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực của cán bộ, đảng viên để
6


tu dưỡng tư tưởng, đạo đức, rèn luyện phương pháp và phong cách công
tác. Nội dung cơ bản của tác phẩm tập trung vào 07 vấn đề sau đây:
2.1. Sửa đổi lối làm việc của Đảng - yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng
- Trong tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề cần thiết phải
tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phong cách,
phương pháp công tác; xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên, vừa lâu
dài, vừa cấp bách như là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng cách
mạng, nhất là khi Đảng đứng ra nhận sứ mệnh lớn lao đối với sự phát
triển của dân tộc.
- Sửa đổi lối làm việc để Đảng hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của
mình. Người giải thích rõ: “Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo
nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ
vang. Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo

hơn thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa”.
“Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn
nhiều khuyết điểm, Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì
thành tích nhiều. Đó là lẽ tự nhiên.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, cán bộ, các đảng viên, mỗi
người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình.
Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình
sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng
thành công.

7


Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như
giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày
càng nặng thêm, nguy đến tính mạng”.
- Sửa đổi lối làm việc để đẩy mạnh công tác, hiệu quả công việc, làm
cho Đảng lớn mạnh không ngừng; đồng thời, giúp cho mỗi cán bộ, đảng
viên khắc phục những sai lầm, khuyết điểm.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sửa đổi lối làm việc để khắc phục ba
“hạng” khuyết điểm là:
+ Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan mà nguyên nhân
chính là kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông, không đem
lý luận thực hành trong cuộc sống.
+ Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là
bệnh hẹp hòi, ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết, phá hoại sự đoàn kết
toàn dân.
+ Khuyết điểm về cách nói và viết, tức là ba hoa.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh coi bệnh chủ quan, ích kỷ, hẹp hòi, cá nhân,
bản vị, cục bộ…, mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong

là bọn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ.
Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải
ra sức ngăn ngừa, đề phòng những kẻ địch đó, phải kiên quyết chữa trị
bằng hết những căn bệnh đó. Do vậy, sửa đổi lối làm việc là nhiệm vụ
chung của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên.
2.2. Vai trò của lý luận và tổ chức thực tiễn

8


Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vai trò của lý luận, của thực tiễn và quan hệ giữa lý luận với thực tiễn.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiểu lý luận là “đem thực tế trong
lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sách
thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành lý luận. Rồi lại đem nó ra chứng minh
với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định,
lý luận có vai trò rất to lớn, nó như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong công việc thực tế; không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi. Người yêu cầu, cán bộ, đảng viên, phải nêu cao hiểu biết
cả về lý luận; “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt
sáng, một mắt mờ”….
- Lý luận phải liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Người nói, “lý luận cốt
để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế
là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàng hàng vạn quyển lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Lý
luận và thực hành có quan hệ qua lại: Lý luận phải đem vào thực hành.
Thực hành phải nhìn theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên
đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc
bắn lung tung cũng như không có tên.
- Đánh giá cao vai trò của lý luận và thực hành, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đi đến kết luận: Mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý
luận áp dụng vào công việc thực tế; phải gắng học, học thì phải hành; phải
chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Bên cạnh học
lý luận, người cán bộ phải có ý thức tổng kết kinh nghiệm trong công tác.
Phê bình và tổng kết kinh nghiệm công tác là quy luật tiến bộ trong sự
nghiệp cách mạng.
9


2.3. Vấn đề bản chất và tư tưởng của Đảng cách mạng
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng thể hiện ở mục
tiêu, lý tưởng và lợi ích mà nó đại diện. Đối với Đảng ta, bản chất đó
được Người xác định rất rõ: Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì
Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân
dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt,
văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng thì tức là
Đảng được giải phóng.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra 12 điều thuộc về tư cách của một Đảng
chân chính cách mạng, đồng thời yêu cầu Đảng phải làm đủ cả 12 điều:
+ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng.
+ Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng
với thực hành phải luôn đi đôi với nhau.
+ Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết
thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
+ Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu
và chỉ thị đó có đúng hay không.
+ Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác
của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần

yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy cán bộ, đảng viên và nhân dân.

10


+ Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt
chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được
dân chúng mà cũng không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý
kiến của dân chúng.
+ Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại
phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.
Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và
các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích
lâu dài của dân chúng.
+ Đảng không che dấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê
bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ,
và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
+ Đảng phải chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn
kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
+ Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài.
+ Đảng phải giữ kỷ luật nghiêm từ trên xuống dưới.
Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối
với Đảng.
+ Đảng phải luôn luôn xét lại các nghị quyết và những chỉ thị của
mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị

11



đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối
với Đảng.
Trong kết luận, Người viết:
“Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào”.
Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, giữ kỷ luật nghiêm từ
trên xuống dưới, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, không
che giấu khuyết điểm của mình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một Đảng
mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan
thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”.
2.4. Vấn đề đạo đức cách mạng
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập
đến đạo đức cách mạng trên nhiều khía cạnh, tổng quát và toàn diện.
- Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ vị trí, vai trò của đạo đức
cách mạng đối với Đảng nói chung và với từng cán bộ, đảng viên nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang, cao cả,
to tát, khó khăn đòi hỏi người cách mạng phải có các phẩm chất tương ứng về
đạo đức và đạo đức đó phải trở thành “cái căn bản” của mỗi người.
12


- Về nội dung, đạo đức cách mạng bao gồm năm tính tốt: Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.

+ Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng
bào. Vì thế mà cương quyết chống lại những người, những việc có hại đến
Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người,
hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e
cực khổ, không sợ uy quyền.
+ Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không
có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng
phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn
thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê
bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn.
+ Trí vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong
sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người.
Biết xem việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng,
biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
+ Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết
điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan
chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có
gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè,
nhút nhát.
+ Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tân bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá.

13


Những tính tốt này của đạo đức cách mạng đậm đà bản sắc truyền
thống dân tộc, từ đạo đức Nho giáo, được Người thừa kế, phát triển, thay
đổi trật tự, vị trí. Nội dung của từng chuẩn mực đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh giải thích theo một tinh thần hoàn toàn mới, mang tính cách mạng.

Về đặc trưng của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định, với năm tính tốt đó, đạo đức cách mạng khác với đạo đức cũ, nó
“không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó
không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người”.
2.5. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
ra một cách có hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
- Người xác định rất rõ: cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và
nhân dân, “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cán bộ giữ một vai trò đặc biệt
quan trọng. Người viết: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng phải hội đủ
các tiêu chuẩn: Đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt, trong đó phẩm chất đạo
đức phải là yếu tố hàng đầu, là gốc, là nền tảng.
14


- Công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng; là một vấn đề rất trọng
yếu, rất cần kíp. Thực chất công tác cán bộ là “nuôi dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải coi trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của
chúng ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách rất chi tiết, cụ thể, dễ hình
dung, dễ thực hiện của công tác cán bộ, đó là:

+ Huấn luyện cán bộ: Rất cần thiết; huấn luyện cán bộ toàn diện, như
huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp theo phương châm làm
việc gì học việc ấy; huấn luyện chính trị, gồm cả thời sự và chính sách;
huấn luyện văn hoá, khoa học, kỹ thuật; huấn luyện lý luận.
+ Dạy cán bộ và dùng cán bộ: Phải biết rõ cán bộ; cất nhắc cán bộ
cho đúng; phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải
giúp cán bộ cho đúng; phải giữ cán bộ.
+ Lựa chọn cán bộ: Phải căn cứ vào các tiêu chuẩn cụ thể, như lòng
trung thành, hăng hái; sâu sát, gần gũi, gắn bó với nhân dân, phải hiểu
dân, thương yêu dân; có gan phụ trách, giải quyết vấn đề; có ý thức tổ
chức, kỷ luật. Về lựa chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc,
trong lúc đấu tranh.
Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng.
Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới
tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.

15


Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những
hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không
phải là người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: khi thất bại
không hoang mang, khi thắng lợi không kêu ngạo. Khi thi hành các nghị
quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn.
Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo cho
đúng”.
+ Bồi dưỡng cán bộ: Phải làm tốt các nội dung như có chỉ đạo, tập
trung; bồi dưỡng để nâng cao, thạo nghề, thạo việc; bồi dưỡng phải có

kiểm tra, đánh giá; bồi dưỡng kết hợp giữa xây dựng và cải tạo, nhất là tư
tưởng; sẵn sàng giúp đỡ cán bộ.
+ Thực hiện chính sách đối với cán bộ: Bao gồm các nội dung như
hiểu biết cán bộ; khéo dùng cán bộ; cất nhắc cán bộ; thương yêu cán bộ;
phê bình cán bộ.
2.6. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ “cách lãnh đạo”; từ đó
đồng nghĩa với thuật ngữ “phương thức, phương pháp” lãnh đạo mà
chúng ta dùng hiện nay. Người cho rằng, muốn giữ vững vai trò lãnh đạo,
tập hợp quần chúng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Đảng
cầm quyền phải có cách lãnh đạo đúng, thích hợp.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng nghĩa là:

16


+ Phải giải quyết mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là
những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
+ Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp thì không xong.
+ Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được.
Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự
thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có hạn.
Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người,
một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn.
Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả
hai bên lại.
Muốn như thế, người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa

mình với dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà
Đảng thắng lợi.
Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng,
cũng như đứng lơ lững giữa trời, nhất định thất bại.
- Về phương thức lãnh đạo, Người lưu ý kết hợp chặt chẽ giữa các
mặt: liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng; liên hợp lãnh đạo với
quần chúng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung không
thể động viên khắp quần chúng.
17


Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc, mà
không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh
nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nới khác, thì không thể biết chính sách
của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách
đó đầy đủ, thiết thực.
Thí dụ: việc chỉnh đốn Đảng. Ngoài những kế hoạch chung về việc
đó, mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ đội phải chọn vài ba bộ phận trong cơ quan
hay bộ đội mình, nghiên cứu rõ ràng và xem xét kỹ lưỡng sự phát triển
(công việc chỉnh đốn Đảng) trong bộ phận đó.
Đồng thời, trong vài ba bộ phận đó, người lãnh đạo lại chọn năn, ba
người cán bộ kiểu mẫu, nghiên cứu kỹ càng lịch sử của họ, kinh nghiệm,
tư tưởng, tính nết của họ, sự học tập và công tác của họ.
Người lãnh đạo phải tự mình chỉ đạo những người phụ trách trong
bộ phận đó, giúp họ giải quyết những vấn đề thực tế, để rút kinh nghiệm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ:
“Bất kỳ sự việc gì, người lãnh đạo phải có một số người hăng hái
trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp
với quần chúng, công việc mới thành.

Nếu chỉ có sự hăng hái của nhóm trung kiên, mà không liên hợp với
sự hăng hái của quần chúng, nhóm trung kiên sẽ phải chạy suốt ngày mà
không kết quả mấy.
Nếu chỉ có sự hăng hái của quần chúng mà không có sự hăng hái
của nhóm trung kiên để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái của quần
chúng sẽ không bền và không thể tiến tới.
18


Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người:
hạng hăng hái, hạng vừa vừa, và hạng kém. Mà trong ba hạng người
đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng
kém đều ít hơn.
Vì vậy, người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho
sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng hạng vừa vừa và kéo hạng kém tiến
lên.
Nhóm trung kiên đó phải do công tác và tranh đấu trong đám quần
chúng mà nảy nở ra, chứ không phải tự ngoài quần chúng, xa cách quần
chúng mà có được.
Mỗi cuộc đấu tranh thường có ba giai đoạn, ba bước: bước đầu,
bước giữa và bước cuối cùng. Nhóm trung kiên lãnh đạo trong mỗi cuộc
tranh đấu, không có thể mà cũng không y nguyên như cũ. Trong mỗi giai
đoạn, cần phải luôn luôn cất nhắc những người hăng hái trong giai đoạn
đó, để thay thế cho những người cũ bị đào thải hoặc vì tài không xứng
chức, hoặc hủ hoá.
Những nơi công việc không chạy đều vì không có nhóm lãnh đạo mật
thiết liên hợp với quần chúng. Thí dụ: trong một trường học, nếu không
có một nhóm thầy giáo, chức viên và học sinh hăng hái nhất trong trường,
từ vài người đến vài mươi người, đoàn kết thành nhóm trung kiên lãnh
đạo, thì công việc của trường đó nhất định uể oải.

Vì vậy, bất kỳ cơ quan nào, bộ đội nào, cũng cần phải lựa chọn một
nhóm người hăng hái, trung thành, có năng lực, giữ kỷ luật, đoàn kết họ
thành nhóm trung kiên lãnh đạo”.

19


- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ 5 nguyên tắc trong lãnh đạo
của Đảng:
+ Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với quần chúng, giải thích
cho dân chúng.
+ Tin vào quần chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và
tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước
mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không phù hợp thì để
họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ
và tổ chức của ta.
+ Chớ khư khư giữ theo “sáo cũ”. Luôn luôn phải theo tình hình thiết
thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng
mà tổ chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh
đấu.
+ Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải
khéo léo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để
lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải
quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.
+ “Phải đưa chính trị vào giữa nhân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ
“trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”.
Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng sẽ
phát triển mau chóng và vững vàng.
2.7. Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng


20


- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lực lượng quần chúng của dân
chúng nhiều vô cùng. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân
chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. “Trong công tác xây
dựng, chỉnh đổn Đảng, sửa đổi lối làm việc của Đảng cũng phải vì dân,
dựa vào dân thì mới thành công, mới có kết quả mong muốn”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết:
“Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm lợi ích cho quần chúng, lại chịu
học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất
định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người.
Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán
bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng.
Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi
cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay
chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều
thêm”
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, muốn tập hợp, phát huy sức
mạnh của quần chúng, vấn đề rất quan trọng là phải có cách tuyên truyền,
vận động hợp lý, khoa học, nhất là nói và viết sao cho hiệu quả, làm thế
nào mà “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng
và lòng ước ao của quần chúng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Bất cứ việc to nhỏ, chúng ta phải xem xét rõ và làm cho hợp với
trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm
tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó
mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được
quần chúng.
21



Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ
quan của mình, rồi đem cột vào quần chúng, thì khác nào “khoét chân
cho vừa giầy”. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của
ta. Ai cũng đóng giày theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”.
- Về phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu: Học cách nói của quần chúng; dùng lời lẽ thí dụ thiết
thực, dễ hiểu; đúng đối tượng người đọc, người nghe; điều tra, nghiên cứu
kỹ khi nói, khi viết; chưa biết rõ chớ nói, chớ viết; chuẩn bị kỹ, sắp đặt
cẩn thận, kiểm tra sau khi viết….

Chương 3
Giá trị lý luận, thực tiễn của tác phẩm và vận dụng
vào công tác xây dựng Đảng, Nhà nước ta hiện nay
3.1. Giá trị lý luận và thực tiễn
3.1.1. Giá trị lý luận
- Sửa đổi lối làm việc có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt sâu sắc.
Tác phẩm thể hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phương
pháp, phong cách Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống các mặt cơ bản hợp thành
nội dung công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng trở
thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng, kiến thiết đất nước. Đó là xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ
chức, công tác cán bộ, về đạo đức, tư cách của cán bộ, đảng viên, về

22


phương thức, phương pháp, phong cách lãnh đạo của Đảng, quan hệ máu
thịt giữa Đảng và nhân dân.

- Những nội dung lý luận trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc vừa là
sự kế thừa lý luận Mác - Lênin về xây dựng Đảng, vừa bổ sung, phát triển,
làm phong phú lý luận đó trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là nhấn
mạnh vai trò của nhân tố đạo đức trong việc nâng cao uy tín, sức mạnh,
sức chiến đấu của Đảng. Điều đó thể hiện quan điểm thực tiễn trong cách
tiếp cận và giải quyết vấn đề của Hồ Chí Minh.
- Sửa đổi lối làm việc đã giải đáp một cách khoa học mối quan hệ
giữa các khâu của công tác xây dựng Đảng: Cán bộ, đảng viên cần tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức và năng lực làm việc để trở thành cán bộ tốt;
xây dựng thể chế là biện pháp thực thi việc quản lý, điều hành công việc
trên nguyên tắc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; thể chế, cơ bản
nhất là thể chế dân chủ, có tác dụng kiểm soát và ngăn ngừa sự lộng
quyền trong sử dụng quyền lực.
Các quan điểm lý luận của tác phẩm đó có tác dụng chỉ đạo công tác
xây dựng Đảng trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước.
3.1.2. Giá trị thực tiễn
- Tác phẩm là tài liệu học tập thiết thực, bổ ích trong việc giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên trở thành những người cách mạng trung thành
với sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, góp phần tạo động lực đẩy mạnh
kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
- Tác động tích cực đến đông đảo quần chúng nhân dân, mang lại sự
hứng khởi, niềm tin tưởng của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng do
23


×