Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.52 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Chủ tịch Hồ Chí Minh một nhà mácxít chân chính, một nhà tư tưởng vĩ đại,
một nhà chiến lược thiên tài, một nhà tổ chức xuất sắc, một chiến sĩ cộng sản có
phẩm chất và đạo đức cao quý" Vâng! Đúng là như thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh
người đã làm rạng rỡ non sông ta, tổ quốc ta, người sáng lập lãnh đạo và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tên tuổi sự nghiệp của Người gắn liền với lịch sử vinh
quang của Đảng, với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn tám thập
kỷ qua.
Bác đã về với thế giới người hiền, nhưng Bác đã để lại cho chúng ta một di sản
vô giá về đạo đức, lối sống, phương thức lãnh đạo và tác phong công tác. Tư tưởng
của Người là hệ thống quan điển toàn diện và sâu sắc về những vấn đề của cách
mạng Việt Nam. Trong hệ thống di sản người để lại tư tưởng về Đảng, về xây dựng


Đảng cộng sản cầm quyền là một bộ phận cực kỳ quan trọng là một vấn đề được
Bác đặc biệt quan tâm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng vững mạnh, tuyệt đối trung thành
với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, chỉ ra cho
đảng và mọi đảng viên phương hướng tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện, tránh những
sai lầm khuyết điểm để xứng đáng với trọng trách, xứng đáng với niềm tin mà nhân
dân giao phó. Bởi theo Người "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân" Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua của nhân loại, nghiền
ngẫm lại cuộc động đất chính trị từ sự sụp đổ của Đảng cộng sản Liên Xô và các

nước Đông Âu ở thập niên 90 thế kỷ XX càng khẳng định sâu sắc hơn tư tưởng của
1


Bác về xây dựng đảng trong điều kiện đảng cộng sản cầm quyền. Những bước phát
triển của Đảng ta qua các chặng đường lịch sử chính là những bước vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống hiện
thực, đồng thời, nâng tư tưởng của Người lên một tầm cao mới.
Hiện nay, tình hình trong nước và thế giới đang có những diễn biến phức tạp,
khó lường đang đặt ra những thời cơ và thử thách lớn. Để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta viết tiếp thắng lợi trong thời đại mới, để giữ vững vai trò
lãnh đạo, để giữ vững sự cầm quyền của đảng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng

của đảng và dân tộc ta. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cộng sản cầm quyền đang là một vấn đề cấp thiết, một vấn đề nóng bỏng tính thời
sự trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng đảng theo tinh thần nghị quyết trung ương tư
khóa XI và cũng chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn vấn đề "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản cầm quyền" làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận nhằm góp một
phần nhỏ vào giải quyết yêu cầu cấp bách trên đây.
2. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản cầm quyền
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở, nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Đảng Cộng
sản cầm quyền.
Trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Đảng

Cộng sản cầm quyền qua tổng kết lý luận, thực tiễn Việt Nam. Sự nhận thức và vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền của Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
2


nghĩa Mác - Lênin kết hợp các phương pháp logic, tổng hợp, phân tích, nghiên cứu
thực tiễn…
4. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài Mở đầu và Kết luận, Nội dung tiểu luận được kết cấu gồm 02 chương:


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM
QUYỀN, NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.1. Một số quan niệm về Đảng và Đảng Cộng sản cầm quyền
1.1.1. Quan niệm về Đảng chính trị
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về Đảng chính trị. Theo từ điển về chính quyền
và chính trị Hoa Kỳ, Jay M.Shafrits cho rằng, đảng chính trị là "một tổ chức tìm
cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan
nhà nước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ có thể được phản ánh trong các chính
sách công cộng" [1; tr.701]
Bên cạnh đó quan điểm mácxít, từ điển Bách khoa triết học Liên Xô thì định

nghĩa: Đảng chính trị là tổ chức chính trị thể hiện lợi ích của một giai cấp hay của
một tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai
cấp đạt tới những mục đích và lý tưởng nhất định.
Từ những quan niệm trên ta có thể hiểu Đảng chính trị là một tổ chức được liên
kết dựa trên một hệ tư tưởng, thể hiện lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp xã hội,
bao gồm những người tiêu biểu nhất của giai cấp hay tầng lớp xã hội ấy, với mục
tiêu, lý tưởng nhất định. Đảng chính trị là sản phẩm của các cuộc đấu tranh giai cấp
đã đạt tới trình độ tự giác cao, có cương lĩnh, chương trình hành động, nghệ thuật tổ
chức, đấu tranh chính trị. Đảng chính trị còn được hiểu là một nhóm những người
được tổ chức nhằm giữa mục đích giành, giữa và thực thi quyền lực nhà nước. Hay
3



nói theo cách khác Đảng chính trị là một thiết chế tổ chức quy tụ những người có
chung lợi ích và khuynh hướng tư tưởng nhằm vươn tới quyền lực chính trị để hiện
thực hóa lợi ích cũng như khuynh hướng đó trên quy mô xã hội.
1.1.2. Quan niệm về Đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị, có nội dung xác định
cho biết Đảng chính trị nào là lực lượng nắm chính quyền, quản lý đất nước, điều
hành xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp mình.
Theo V.I.Lênin, đảng cầm quyền tức là “đảng nắm chính quyền” bằng những
người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà
nước. Những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước phải hoạt động làm sao bảo
đảm vừa với tư cách là người đại diện cho đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận

động nhân dân đi theo đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa với tư cách là người
đại diện cho đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý
nhà nước, tức là hoạt động “cầm quyền”. Điều đó cho thấy, đảng cầm quyền là một
khái niệm gắn với quyền lực. Tức đảng có quyền lực chính trị mà cụ thể là ở việc
“nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”. Không những thế, khi đảng
nắm được chính quyền thì đảng không chỉ có quyền lực chính trị, mà “với tư cách
nhà nước, còn có thêm được quyền lực kinh tế”[4; tr. 75].
Theo cách hiểu phổ biến trên thế giới hiện nay, đảng cầm quyền là đảng giành
chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Trên cơ sở đó đảng đứng
ra thành lập chính phủ và đưa ra các quyết định chính sách dưới danh nghĩa quyền
lực nhà nước, đại diện cho nhân dân.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm đảng cầm quyền ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, nói tới đảng cầm quyền tức là nói tới vị thế của đảng trong sự so sánh
với các đảng chính trị khác – những đảng không cầm quyền. Khi cuộc bầu cử kết
thúc, đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội, hoặc ứng cử viên trúng cử chức tổng
thống sẽ đứng ra thành lập chính phủ; còn các đảng thiểu số, hoặc đảng thất cử sẽ
trở thành những đảng đối lập.
4


Thứ hai, đảng cầm quyền là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy nhà
nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi chính sách quốc gia. Sau khi đã
giành được chính quyền, đảng cầm quyền sẽ “hóa thân” vào nhà nước. Thủ lĩnh của
đảng sẽ trở thành thủ tướng của chính phủ (hoặc tổng thống), các nhân vật cao cấp

trong đảng sẽ trở thành các bộ trưởng trong chính phủ.
Thứ ba, đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo người của mình trong bộ máy nhà nước
thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng thông qua các chính sách của nhà nước.
Nắm giữ quyền lực nhà nước nhưng các đảng cầm quyền không bao giờ làm thay
công việc của nhà nước, hay can thiệp một cách trực tiếp vào công việc của nhà
nước. Điều đó là bất hợp pháp, vì về hình thức, bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ
có quyền lực chính trị, chứ không có quyền lực nhà nước. Các đảng chỉ có quyền
lực nhà nước khi nó trở thành đảng cầm quyền, và khi đó, các quyết định của đảng
phải được đưa ra dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước (quyền lực do người dân ủy
nhiệm), thông qua các thủ tục, các quá trình đó được pháp luật quy định, chứ không
phải đưa ra các quyết định nhân danh đảng.
1.1.3. Quan niệm về Đảng Cộng sản cầm quyền

Trong các nước xã hội chủ nghĩa, thuật ngữ "đảng cầm quyền" là thuật ngữ để chỉ
duy nhất có Đảng Cộng sản cầm quyền, đang nắm chính quyền lãnh đạo cách mạng
của nước đó, như Đảng Cộng sản Trung Quốc (dù Trung Quốc có nhiều đảng
nhưng chỉ có Đảng Cộng sản cầm quyền). Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này và thời điểm đó bênh cạnh Đảng Cộng sản
còn có Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ, Người khẳng định "Đảng ta là đảng cầm
quyền" để chỉ vị thế của Đảng Cộng sản trong việc nắm giữ quyền lực nhà nước so
với các đảng khác trong xã hội.
Nhìn chung, Đảng Cộng sản cầm quyền là một khái niệm chỉ rõ đặc điểm, vai trò
của đảng trong giai đoạn cách mạng mà giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của
đội tiên phong chính trị của nó là Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền, trở
thành lực lượng lãnh đạo đất nước và toàn xã hội

5


Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập 1930, song phải đến khi cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công. Chính quyền về tay nhân dân, Đảng cộng sản
Việt Nam mới trở thành Đảng cầm quyền. Kể từ đó, Đảng lãnh đạo chính quyền, và
nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước xây dựng chủ nghĩa
xã hội, và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

1.2. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
1.2.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị là tác dụng, chức năng của Đảng trong

quá trình vận động của hệ thống chính trị. Cụ thể là, Đảng giữ vai trò lãnh đạo
trong hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là sự
dẫn đường, chỉ hướng của Đảng đối với hệ thống chính trị tiến tới đích xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
được biểu hiện trên thực tế bằng hoạt động đề ra chủ trương, đường lối và động
viên, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đó đối với các thành phần của hệ
thống chính trị. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền,
giữ vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị. Vì:
Về lý luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống
nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
6


minh. Do vậy, đường lối của Đảng là cơ sở lý luận cho tổ chức, hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Về thực tiễn: Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền thân, là nguồn gốc của các thiết

chế khác trong hệ thống chính trị. Có thể nói, Đảng là tổ chức ra đời sớm nhất trong
hệ thống chính trị. Để thực hiện đường lối cách mạng của Đảng mà các tổ chức
khác đã ra đời. Nói cách khác, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội
là phương tiện để thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Là một Đảng chính trị,
nên Đảng giữ vai trò lãnh lãnh đạo. Dù cầm quyền hay chưa cầm quyền thì Đảng
cũng vẫn phải thực hiện vai trò lãnh đạo của mình
1.3. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng
1.3.1. Nội dung cầm quyền
Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân
về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Nội dung cầm quyền của
Đảng, thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của Đảng trong việc quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước trong thời kỳ nhất định, và trong từng lĩnh vực cụ thể,

trong các mối quan hệ quyền lực cụ thể với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức đoàn thể nhân dân. Nội dung cầm quyền của Đảng thể hiện rõ nhất trong
cương lĩnh chính trị, trong chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo
tính định hướng chính trị cho sự phát triển của đất nước hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc xác định nội dung
cầm quyền của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước là rất quan trọng.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền, từ việc
xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, cho đến nội dung thực hiện mục
tiêu chính trị đó; nó bao quát toàn diện các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong lĩnh vực chính trị, việc hoạch định đường lối chính trị là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của Đảng. Để cầm quyền lãnh đạo, Đảng có trách nhiệm xác lập thể

chế chính trị - xã hội của đất nước trên các mặt: cơ cấu tổ chức chính trị - xã hội, cơ
7


chế vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo cho hai vấn đề trên.
Trong lĩnh vực kinh tế, nội dung cầm quyền và lãnh đạo trọng tâm của Đảng là
việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được
xem là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Một vấn đề có tính quyết định là phải đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng
sản xuất bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực xã hội, Đảng phải lãnh đạo phát huy sức mạnh của toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các quan hệ xã hội lành
mạnh, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội phát triển con người, xây dựng một xã
hội văn minh, con người hạnh phúc.
Trong lĩnh vực văn hóa, trên nền tảng của việc xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng phải định hướng xây dựng một nền văn hóa
chính trị nói chung và văn hóa cầm quyền của đảng nói riêng. Văn hóa chính trị của
Đảng, đến lượt mình, nó chỉ đạo việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng chính trị; nó quy
định đường lối, nội dung, chiến lược phát triển đất nước.
Một nội dung quan trọng của Đảng cầm quyền là quan hệ với Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách
đưa đảng viên của mình ứng cử vào các chức vụ quan trọng của các cơ quan Nhà
nước, lãnh đạo các cơ quan đó vận hành theo chủ trương, đường lối của mình.

1.3.2. Phương thức cầm quyền của Đảng:
Phương thức cầm quyền của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp
mà Đảng vận dụng để sử dụng Nhà nước, tác động vào Nhà nước và bằng Nhà
nước nhằm thực hiện các nội dung cầm quyền, đạt mục tiêu cuối cùng của Đảng.
Phương thức cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là Đảng xây dựng tổ chức, thiết
kế tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện vai trò cầm quyền của mình.
Phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo là những khái niệm khác nhau,
8


nhưng có những nội dung đồng nhất với nhau. Đảng vẫn có thể lãnh đạo nhân dân
khi chưa giành chính quyền, nhưng Đảng chỉ có thể cầm quyền khi đã giành được

quyền lực nhà nước về tay mình. Do vậy, phương thức cầm quyền của Đảng thực
chất chỉ là phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng đã ở vị thế cầm
quyền. Nếu không ở vị thế cầm quyền, Đảng không thể nào thực hiện được đầy đủ
các phương thức lãnh đạo này, đặc biệt là việc lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa
đường lối của Đảng thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các phương thức cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội bao gồm:
Thứ nhất, lãnh đạo thông qua các quan điểm, cương lĩnh, chiến lược, các đường
lối, chủ trương, điều lệ, chỉ thị và các quyết định khác của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương của
Đảng thành các quyết định của cơ quan công quyền. Nhà nước căn cứ vào nghị
quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các đạo

luật, các nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy khác, nhằm thực hiện nghị
quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo Đảng từ Trung
ương đến cơ sở.
Thứ tư, Đảng đưa người của Đảng vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy quyền
lực nhà nước. Đảng đào tạo những đảng viên của Đảng trở thành những người có
phẩm chất chính trị, đạo đức, có chuyên môn giỏi, có khả năng tuyên truyền, vận
động quần chúng để giới thiệu ứng cử bầu vào các cơ quan quyền lực dân cử (Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà
nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các tổ chức
đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên

chấp hành nghị quyết của Đảng.

9


Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua tính tiên phong gương mẫu của
đảng viên.
Thứ bảy, cầm quyền, lãnh đạo phải lấy dân làm gốc, dựa vào dân, đoàn kết toàn
dân, phát huy tối đa và hiệu quả sức mạnh của nhân dân. Điều đó nói lên mục tiêu
của Đảng là vì dân và phương thức cầm quyền hiệu quả là phải dựa vào sức mạnh
của nhân dân.
Thứ tám, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện ở đường

lối chính trị, cách thức điều hành Nhà nước và các tổ chức chính trị làm theo mình.
Đảng lãnh đạo một cách trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Đó là sự cầm quyền khéo
léo, linh hoạt, nhạy bén bảo đảm sự kết hợp thực tế, các sự kiện cụ thể.
Toàn bộ các phương thức cầm quyền của Đảng chủ yếu được thực hiện thông qua
sự lãnh đạo (với tư cách hiểu về thuật ngữ lãnh đạo như ở nước ta hiện nay), là
nhằm thể chế hóa ý chí của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà
nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện ý chí đó.
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta trong gần 4 thập kỷ, Hồ Chí
Minh đã cũng Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam đí từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, nên Người hiểu rất rõ vai trò to lớn của Đảng đới với tiến trình lịch sử dân
tộc. Sau khi lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công khai sinh nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa, Bác thường dùng cụm từ "đảng lãnh đạo", "đảng lãnh đạo chính
quyền", "đảng nắm quyền lãnh đạo,...". Trong di chúc để lại cho Đảng và dân tộc,
Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.[5; tr.510].
Quan điểm Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền bao hàm nhiều nội dung quan trọng,
không chỉ là khẳng định vị thế lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền mà còn là
nhiều nhiệm vụ trọng đại khác Đảng phải hoàn thành cũng như những đòi hỏi về
10



phẩm chất mà cán bộ, đảng viên phải rèn luyện phấn đấu.
1.4.1. Đảng lãnh đạo nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Một trong những quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với chính quyền nhà nước. Với tư
cách là đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ Chí Minh coi
là một nguyên tắc để bảo đảm nhà nước là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân. Thể hiện ở những quan điểm chủ yếu sau đây:
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân. Bác coi tính chất giai cấp của nhà nước là vấn đề cơ
bản của Hiến pháp. Theo Người, nhân dân lao động là lực lượng làm chủ Nhà nước
do giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước, Đảng cần phải chú ý bảo đảm cho bộ máy

chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư". Trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng
(10-1945), Bác viết “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của
Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[6; tr.5657]. Các cấp chính quyền phải khắc phục bệnh quan liêu, lãng phí, tham ô và
những tiêu cực khác mà Người gọi đó là giặc “nội xâm”. Phê bình một số cán bộ,
đảng viên cậy thế mình là người của tổ chức đảng để phớt lờ kỷ luật trong các cơ
quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên không những phải chấp hành Điều lệ,
nghị quyết của Đảng mà còn phải phục tùng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp

Theo Bác, yêu cầu đầu tiên trong sự lãnh đạo đối với đảng cầm quyền là phải đề
ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hóa bằng
Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Khi đề cập đến vấn đề nhà nước thì
11


điều mà Người quan tâm là quyền lực đó thuộc về ai. Đảng lãnh đạo thông qua các
tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức đó. Về
mặt chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có khác nhau. Do đó, cần phải
phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với tư
cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối,

chủ trương và vận dụng, thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham
gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành hiện thực.
1.4.2. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân
Đảng cầm quyền là người lãnh đạo duy nhất đối với toàn xã hội và khi có chính
quyền, quyền đó không thể chia rẽ cho bất kỳ ai. Đối tượng lãnh đạo của đảng là
toàn thể quần chúng nhân dân, nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Nhưng muốn lãnh đạo được nhân dân thì Đảng trước hết phải đủ năng lực, tư
cách, phẩm chất cần thiết.
Là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh phải bằng giáo dục, thuyết phục để th phục
và chinh phục quần chúng nhân dân, tức là phải làm cho dân tin, dân phục để dân
theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng

"phải đi đường lối của quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân
dân"[7; tr.606], mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ cho dân để thức tỉnh họ.
Đồng thời phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày sách lược
cho dân và hướng dẫn cho họ hành động. Vì vậy, nói đến Đảng là nói đến chức
năng lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả các mặt, lĩnh vực của
đời sống xã hội, cùng với Chính phủ Đảng phải thường xuyên quan tâm chăm lo
đến đời sống của nhân dân "Đảng vừa chăm lo tốt công việc lớn, đổi nền kinh tế và
văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế, văn hóa tiên tiến. Đồng thời, lại luôn
quan tâm đến những việc nhỏ như: tương cà, mắm, muối cần thiết cho đời sống
hàng ngày của nhân dân"[7; tr.4]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
12



giai cấp công nhân, là bộ phận của giai cấp và của dân tộc, chứ không phải là tổ
chức đứng trên giai cấp, trên nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải nhận thức
rằng nhân dân là cuội nguồn sức mạnh của Đảng, cách mạng. Sức mạnh đó bắt
nguồn từ mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Đảng phải luôn một lòng một dạ phục
sự nhân dân "ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc. Đảng ta không
có lợi ích nào khác" và vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải xuất phát
từ tâm tư nguyện vọng và những quyền lợi chính đáng của nhân dân, đồng thời
Đảng phải chịu trách nhiệm với nhân dân trước những quyết định của mình. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh "nếu nhân dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi,... Nếu dân đói, rét, đốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay

mấy cũng không thực hiện được"[8; tr.572]
Đảng là người lãnh đạo thì phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến
của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Đảng phải thực hành triệt để dân chủ mà trước hết là dân chủ trong nội bộ Đảng, để
phát huy dân chủ được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng. Lãnh đạo
nhưng phải chống bao biện làm thay, phải thông qua chính quyền nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
Để thực hiện đầy đủ chức năng của người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn đề cập một
cách sâu sắc đến việc thực hiện chế độ kiểm tra và việc phát huy vai trò tiên phong
của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Bởi theo Người, Đảng ta không chỉ tiên
phong về mặt lý luận, mà còn phải tiên phong cả trong hành động, mõi cán bộ,
đảng viên phải "lời nói đi đôi với việc làm", "làm thì phải có kiểm tra". Vì có kiểm

tra thì mới phát hiện được việc tốt, việc chưa tốt. Tìm ra cái đúng, cái sai để từ đó
kịp thời xử lý, uốn nắn và bổ sung làm cho đường lối được đúng đắn hơn. Do đó,
lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh đạo.
Mặc khác, theo Hồ Chí Minh, "là người lãnh đạo" cũng có nghĩa bao hàm cả
trách nhiệm là người "đày tớ" của dân, tức là nhằm đem lại các quyền và lợi cíh
13


cho quần chúng nhân dân, là thể hiện sự tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân. Người
chỉ rõ "đã phụng sự nhân dân phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho
dân thị phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh"[12;
tr.88]. Hồ Chí Minh dùng cụm từ "đầy tớ thật trung thành" là để nhắc nhở và chỉ rõ

vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều
phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân "khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, tận
tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên kiểm tự phê bình
và phê bình, tự sữa chữa như mỗi ngày rữa mặt"[11; tr. 239].
Không những vậy, "đầy tớ thật trung thành của nhân dân" còn đòi hỏi mối đảng
viên, cán bộ của Đảng không chỉ có sự nhiệt tình, lòng hăng hái mà còn phải có tri
thức khoa học, trình độ chuyêm môn nghiệp vụ, thấm nhuần đạo đức các mạng
"cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư", không chỉ nắm vững và thực hiện tốt
quan điểm đường lối của Đảng mà còn phải gương mẫu, sống nêu gương trước dân,
"sao cho được lòng dân", biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn quần chúng tin và
theo Đảng đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Có thế nói, "vừa lãnh đạo, vừa là đầy tớ" tuy là hai khái niệm khác nhau, tưởng

chừng như mâu thuẫn nhưng lại được Hồ Chí Minh sử dụng để chỉ rõ sự gắn bó,
thống nhất biện chứng với nhau để làm rõ một đảng chân chính, đó là đảng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Dù là người lãnh đạo hay là
đầy tớ, theo Hồ Chí Minh đều có chung một mục đích và phấn đấu vì lợi ích, tự do
và hạnh phúc của nhân dân. Làm tròn hai nhiệm vụ trên là cơ sở vững chắc, bảo
đảm cho uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những được ăn sâu, bám chắc
trong lòng giai cấp, mà còn cả trong các tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và
cả trong toàn thể dân tộc Việt Nam.
1.4.3. Đảng cầm quyền, dân là chủ
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước, nhưng
quan trọng là chính quyền thuộc về ai, phục vụ ai. Hồ Chí Minh thấy rõ tính hai
mặt của quyền lực. Một là, nó sẽ là công cụ sắc bén để cải tạo xã hội cũ, xây dựng

14


xã hội mới, thúc đẩy bước tiến của lịch sử. Hai là, quyền lực là công cụ đàn áp, kìm
hãm ghê gớm sự phát triển của xã hội.
Quyền lực sẽ phát huy mặt tích cực khi Đảng cầm quyền còn là đầy tớ trung
thành của nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Hồ Chí Minh coi đây là sự khác biệt
giữa Đảng Cộng sản với Đảng tư sản, Người nhấn mạnh, Đảng lãnh đạo cách mạng
là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân
dân là bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc này Đảng
sẽ trở thành đối lập với nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, là đầy tớ thì Đảng
phải lấy dân làm gốc. Trái với nguyên tắc đó, Đảng sẽ thoái hóa, biến chất, trở

thành Đảng đối lập với dân, đứng trên dân, trên pháp luật, còn đảng viên, cán bộ
của Đảng sẽ trở thành những ông "quan cách mạng", những kẻ "vinh thân phù da"
vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mình.
Hồ Chí Minh đã xây dựng cơ chế "Đảng cầm quyền" cốt lõi của cơ chế đó là
quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với nhà nước. Đảng phải trong sạch, xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ của dân. Nhà nước là nhà nước của dân, do dân,vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ chính quyền các cấp đều là công bộc của dân,
đầy tớ của dân. Trong mối quan hệ giữa Đảng - Dân, thì Dân "là chủ", cán bộ, đảng
viên là "đầy tớ" của Dân. Quan điểm Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền luôn thể
hiện mối quan hệ đồng hành: Đảng cầm quyền, dân làm chủ. Có thể khái quát quan
điểm ấy như sau:
Đảng - chính quyền

Đảng - Dân
Chính quyền - Dân
Trong đó, dân là đối tượng mà cả Đảng, chính quyền vừa thực hiện vị thế lãnh
đạo, tổ chức, vừa có nhiệm vụ mang lại quyền lợi cho họ. Còn người dân vừa là đối
tượng được phục vụ, vừa là thành phần đông đảo thực hiện nghĩa vụ công dân và
chịu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra mối quan
hệ này "Đảng ta là một đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
15


phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tới thật trung thành của nhân
dân"[9; tr. 510] và "Chính phủ, từ Hồ Chủ tịch đến các vị ủy ban đây, rồi các bộ

trưởng, đến các cán bộ thôn, xã, gọi là chính quyền, gọi là chính phủ đều là đây tớ
của nhân dân... Dân làm chủ thị Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này
khác,... Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách
mạng"[10; tr.375].
Đảng cầm quyền, không phải mọi đảng viên của Đảng đều nắm giữ các chức vụ
lãnh đạo. Tuy nhiên, ở bất kỳ cương vị nào, người đảng viên cũng ý thức được vai
trò lãnh đạo Đảng của mình và trên thực tế, phải luôn là tấm gương thực hành
nhiệm vụ được giao với kết quả cao nhất, đi đầu trong phong trào cách mạng. Vì
vậy, trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn "mõi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thầm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
đầy tớ thật trung thành của nhân dân"[9; tr. 510]. Hồ Chí Minh nhắc nhiều lần cụm

từ "thật sự", "thật",... Bởi lẽ đây là nhiệm vụ vốn không dễ thực hiện trong thời kỳ
Đảng cầm quyền và vì nếu "không thật sự", mà "giả dối" thì sự nghiệp vẻ vang của
Đảng khó có thể đứng vững.
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM
QUYỀN VÀO XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời gian qua
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản cầm quyền đã được Đảng và Nhà
nước ta vận dụng và phát triển sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng của dân tộc
và do đó, cách mạng Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to lớn, rút ra nhiều bài
học quý báu. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục tăng cường sự

lãnh đạo trong quá trình xây dựng hệ thống tổ chức, đổi mới hoạt động bộ máy Nhà
nước với mục tiêu tăng cường hiệu lực và khả năng quản lý của nó.
16


Văn kiện Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã chỉ rõ "dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích,
nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật" [13;
tr.451-452]. Vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đã được trang trọng ghi trong điều
4 Hiến pháp 1992 của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Đến

Hội nghị Trung ương 2 (khóa VII), Đảng ta một lần nữa khẳng định cần phải tiếp
tục "đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều quan trọng nhất để tiến
hành đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của
Đảng có chất lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành
của Nhà nước có hiệu lực hơn, pháp luật được tôn trọng hơn, quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy hơn"[14; tr.469]. Đồng thời trong nhiều văn kiện của Đảng
còn khẳng định, Đảng lãnh đạo Nhà nước - tức Đảng cầm quyền, chứ không phải
làm thay Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng và mọi đảng viên đều
phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức đảng và đảng
viên phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục nêu quan điểm "tăng cường vai trò lãnh đạo

của Đảng đối với Nhà nước... Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo"[15; tr.129]. Vận dụng và phát
triển sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền, nhiều lần Đảng ta
đã phân định rõ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong tiến
trình cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trong tiến trình đổi mới, dưới tác động của nhiều nhân tố khách quan
17


và chủ quan, Đảng ta không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để làm
rõ mục tiêu và mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Nếu Đại hội VIII, Đảng xác định mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn mịnh, thì Đại Hội IX, Đảng đã bổ sung cum từ "dân chủ" để khẳng định vai trò
to lớn của dân và dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng kết thực tiễn hơn 20 năm đổi mới và tiếp tục mục tiêu xây dựng đất nước
Việt Nam dan giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó là xã hội " do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới"[16; tr.68].
Lịch sử hoạt động của Đảng hơn 80 năm qua, lúc chưa cầm quyền cũng như đã
cầm quyền, Đảng ta đã khẳng định được vai trò cực kỳ to lớn của Đảng đối với quá
trình giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước. Chính sự lãnh đạo của đảng đúng
đắn của đảng đối với chính quyền và cả hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.1.1. Về ưu điểm
Đảng đã giữ vững được vai trò lãnh đạo, bản chất cách mạng của giai cấp công
nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, kiên trì đường lối đổi mới, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu của Đảng. Có bước phát triển mạnh về mặt tư duy, đã đề ra và
lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn, tiếp tục xác đinh phát triển kinh tế
18


là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và
trong toàn xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện chính sách đại
đoàn kết toàn dân có bước phát triển đáng ghi nhận.
Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiền phong gương mẫu, sáng tạo
trong công tác; phẩm chất, năng lực được nâng lên đáng kể, góp phần xứng đáng
vào thành tựu chung của toàn đảng. Thực hiện tốt các nguyên tác tổ chức và sinh
hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ nhất là tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh đấu tranh

chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,... Được nhân dân đồng tình ủng hộ
như Nghi quyết Trung ương 4 (khóa XI) vừa qua.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, học tập, tuyên truyền giáo dục
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được trú trọng. Vì vậy, bênh cạnh
những thắng lợi của đường lối phát triển kinh tế, thì công tác chính trị, tư tưởng đã
góp phần nâng cao năng lực nhận thức, đoàn kết thống nhất trong Đảng; phát huy
đương tính tích cực chủ động về tư tưởng của cán bộ, đảng viên trước những diễn
biến phức tạp của tình hình cách mạng trong và ngoài nước; trong đấu tranh chống
những quan điểm chính trị sai trái, phản động, góp phần giữ vững ổn định chính trị
- xã hội.
Công tác cán bộ được quan tâm đúng mức, thực hiện đồng bộ, đúng quy trình và
thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Nhất là đã xây dựng được bộ tiêu chuẩn để

làm căn cứ cho việc đánh giá cán bộ, từ đó làm cơ sở cho công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ. Công tác luân chuyển họp lý cán bộ được xem là khâu đột
phá trong công tác cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ có triển vọng kinh qua cơ sở để
rèn luyện và trưởng thành hơn.
Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng
được Đảng ta quan tâm, đặc biệt là đối với Nhà nước, khắc phục được tình trạng
bao biện, làm thay, buông lỏng hoặc xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng. Dân chủ
trong Đảng, trong quan hệ với Nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
có nhiều tiến bộ.
19



2.1.2. Hạn chế
Bên cạnh nhưng thành tựu đạt được, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng trong
thời gian qua còn tồn tại những hạn chế nhất định, thậm chí có những khuyết điểm
lâu dài chậm được khắc phục, nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới; nhiều vấn đề lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng,... Chưa được làm sáng tỏ.
Dân chủ trong Đảng và trong xã hội chưa được thực hiện nghiêm túc. Sự đoàn kết,
nhất trí trong nhiều cấp ủy đảng còn yếu; tình trạng xa dân, sách nhiễu nhân dân
vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Thậm chí, còn không ít tổ chức đảng yếu kém, mất sức
chiến đấu, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối nới Đảng.

Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) nhấn mạnh "Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và
lúng túng". Vẫn còn tình trạng cấp uỷ bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo
đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành
những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Còn thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Chưa thực sự coi trọng đổi
mới phong cách, lề lối làm việc; tình trạng họp hành nhiều, nói chưa đi đôi với làm,
nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở
nhiều nơi.
Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn buông

lỏng trong thực hiện, vừa chưa có quy định cụ thể để làm cơ sở cho việc kiểm tra,
giám sát. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót hoặc
triển khai không kịp thời, thiếu đồng bộ; tính chiến đấu không cao lại chậm được
đổi mới; cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn
20


mang nặng hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến lớn trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ

nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí,....vẫn còn tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội,
chạy bằng cấp,...làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với đảng, đó thật sự là
một nguy cơ lớn đến sự sống còn của Đảng.
2.1.3. Nguyên nhân hạn chế
Có nhiều nguyên nhân khác nhau cả khách quan lẫn chủ quan, tuy nhiên tựu trung
lai có những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất
cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế
quốc tế… là vấn đề mới mẻ, chưa có thực tiễn trong nước và trên thế giới, đòi hỏi
phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.

Lý luận về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
một Đảng cầm quyền còn nhiều vấn đề chưa làm rõ, nhận thức còn khác nhau.
Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa
bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt đọng chống phá,
chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân, làm
suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cán bộ, Đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi
trách nhiệm trước Đảng và nhân dân. Việc tổ chức thực các chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước, các Nghị quyết, chỉ thị về xây dựng chỉnh đốn đảng ở một số
nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với
làm,...
21



Thực hiện chưa nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình ở
nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm
cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát,...
2.2. Những giải pháp chủ yếu để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền trong sạch vững mạnh trong giai đoạn hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra phương hướng, mục tiêu
của công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới là "tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc" [17; tr.188].

Trên cơ sở những thành tựu đạt được và các hạn chế, khuyết điểm nêu trên, công
tác xây dựng Đảng trong thời gian tới cần quán triệt sâu sắc và sáng tạo những
quan điểm, tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
cập.
2.2.1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tức là bảo đảm cho chủ trương, đường lối
của Đảng đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất cách mạng
và khoa học của giai cấp công nhân; phù hợp với quy luật khách quan và phản ánh
được ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một cách
sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.

Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của
mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp; không
hoang mang, dao động, hoài nghi và giảm sút lòng tin vào con đường mà Đảng,
Bác Hồ đã lựa chọn trong bất cứ tình huống nào, kể cả những lúc khó khăn, phức
tạp nhất của tình hình thế giới.
22


Kiên định đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh chống các khuynh hướng giáo
điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Phải đổi mới
toàn diện nhưng trên cơ sở đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới chính trị, có lộ
trình và bước đi thích hợp.

Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng phải quán triệt và thực
hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời kỳ đổi mới là: Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát
triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Đặc biệt, phải chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn là: Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính
trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2.2.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất

đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là "gốc" của người cách mạng, đạo đức
cách mạng của người cán bộ, đảng viên là bất kỳ khó khăn nào cũng kiên quyết làm
cho đúng chính sách và Nghị quyết của Đảng, gương mẫu cho quần chúng "triệt để
trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân"[11; tr.329] đây
chính là sức mạnh của đảng.
Nghị quyết trung ương 4 (khóa) chỉ rõ "một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi,...tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc,..."[18; tr.2]. Do
đó, hơn bao giờ hết, Đảng cần quan tâm chăm lo bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện đạo

23


đức, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin và cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh có hiệu quả thiết thực.
Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và gắn thực tiễn, biết lắng nghe ý
kiến, tâm tư nguyện vọng của quyền chúng nhân dân, những vướng mắc trong tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mõi cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu đi đầu
trong công việc, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ; thường xuyên lấy

ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách đạo đức của cán, đảng viên; thực hiện tốt,
có hiệu quả đảng Quy định 76 về đảng viên giữ mối liên hệ với chi ủy và hoàn
thành tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỳ
luật nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm Quy định 47 về những điều
đảng viên không được làm. Hồ Chí Minh chỉ rõ "cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp
ăn của đút". Chính vì vậy, mõi cán bộ, đảng viên tuyệt đối gương mẫu tự rèn luyện,
tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư"
quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện,
bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong" quan điểm này của Bác đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Hơn lúc nào hết, vấn đề nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm "đảng viên đi trước,
làng nước theo sau" càng trở nên cần thiết và quan trọng. Đây chính là thước đo
phân biệt đạo đức mới, cách mạng với đạo đức giả. Cần phải chống lại những hành
vi và tư tưởng phi đạo đức.
2.2.3. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên
Chí Minh khẳng định "Đảng không phải là tổ chức làm quan phát tài". Sức mạnh
24


của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, do đó phải xây dựng tổ chức của Đảng từ trung
ương đến cơ cở vững mạnh, đặc biệt là tổ chức đảng ở cấp cơ sở. Tổ chức cơ sở

đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, có vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đây là nơi đầu tiên và cuối cùng chịu sự tác động
trực tiếp, sâu sắc của những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội và tổ chức; là nơi
rèn luyện, giáo dục, quản lý, phát triển và sàng lọc đội ngũ đảng viên; nơi thể hiện
đầy đủ, toàn diện, trực tiếp, thường xuyên nhất về quyền làm chủ của nhân dân và
mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Sự vững mạnh của các tổ
chức cơ sở đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự vững mạnh của toàn Đảng. Vì
vậy, toàn Đảng phải dồn sức lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, với những công việc cụ thể như
sau:
Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về chất lượng hoạt động của

các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ sở,
trước hết là bí thư cấp uỷ có phẩm chất, năng lực và đạo đức cách mạng, có ý thức
tổ chức kỷ luật, thật sự tiền phong gương mẫu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức của Đảng ở một số loại hình tổ
chức cơ sở đảng, vừa tạo ra mô hình tổ chức thống nhất trong toàn Đảng, vừa có
những mô hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính đặc thù.
Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ và
phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, tiến tới thể chế hoá về
mặt nhà nước vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở. Đặc
biệt coi trọng thắt chặt mối quan hệ của tổ chức cơ sở đảng với quần chúng nhân
dân.

Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở
đảng, phải nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và chất lượng công tác kết nạp
25


×