Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch nông lâm nghiệp xã minh hợp, huyện quỳ hợp, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.4 KB, 32 trang )

0

Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch nông lâm
nghiệp xã Minh Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, tài nguyên rừng của thế giới cũng như ở Việt Nam đã và đang bị
thu hẹp về diện tích, giảm sút về chất lượng, môi trường ngày càng bị suy thoái, ô
nhiễm nghiêm trọng dẫn đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh xảy ra ngày càng
tăng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do áp lực về dân số, kéo theo hoạt
động kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, sự đô thị
hoá cũng diễn ra với tốc độ nhanh. Chính vì vậy, việc quy hoạch sử dụng hợp lý và
bền vững tài nguyên rừng, đất đai cũng như xây dựng nền nông lâm nghiệp bền
vững không còn là trách nhiệm riêng của một quốc gia nào mà là công việc chung
của toàn nhân loại.
Quy hoạch nông lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng
thể nhằm phát triển kinh tế xã hội. Do đó công tác QHNLN cần có sự phối hợp chặt
chẽ với quy hoạch phát triển nông thôn và một số ngành liên quan khác nhằm tránh
sự chồng chéo hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại,
phát triển thì nhất thiết phải lập kế hoạch, mà trong đó công tác điều tra cơ bản phục
vụ quy hoạch phải đi trước một bước. Do đặc điểm Việt Nam có địa hình đa dạng,
phức tạp, phân hóa mạnh, cùng với nền kinh tế xã hội và nhu cầu người dân trong
nền kinh tế thị trường cũng hết sức phong phú nên việc QHNLN cho các cấp quản
lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh ngày càng trở thành một đòi hỏi thực tế khách
quan. QHNLN là tiền đề vững chắc cho bất kì giải pháp nào nhằm phát huy đồng
thời những tiềm năng to lớn, cực kỳ đa dạng tài nguyên rừng và các điều kiện tự
nhiên kinh tế, xã hội khác góp phần vào việc phát triển bền vững ở địa phương và
quốc gia. Điều đó chứng tỏ rằng, để việc sản xuất NLN có hiệu quả hay việc sử


dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững nhất thiết phải có công tác
QHNLN, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, định hướng trước khi các hoạt động sản
xuất kinh doanh NLN khác diễn ra.
Nông lâm nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
với nhiều lĩnh vực hoạt động, muốn kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp và sử


2

dụng bền vững tài nguyên rừng và đất đai phải có công tác QH và lập kế hoạch sản
xuất NLN.
Việt Nam là một nước có điểm xuất phát từ nông nghiệp và cho đến hiện nay
thì vai trò của nông lâm nghiệp vẫn là rất to lớn. Nông thôn là địa bàn sinh sống của
hơn 70% dân số và cũng hơn 70% người dân sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất
đang sử dụng cho trồng trọt và đất rừng chiếm 60% diện tích lãnh thổ.
Trong giai đoạn hiện nay sản xuất NLN đang đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Tuy nhiên đời sống kinh
tế xã hội của người dân vùng nông thôn miền núi đang gặp nhiều khó khăn.
Để tạo điều kiện cho phát triển nông lâm nghiệp trong những năm qua nhà
nước ta đã đưa ra nhiều văn bản, chính sách như: Chương trình 327, chương trình
trồng mới 5 triệu héc ta rừng (661), nghị định 163/1999/NĐ - CP ngày 16/11/1999,
luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, quyết định số 186/2006/QĐ - TTg ngày
14/8/2006, quyết định số 18/2007/QĐ - TTg ngày 05/2/2007...
Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong hệ thống các đơn vị hành chính ở
nước ta, trực tiếp với người dân, có vị trí quan trọng trong việc ổn định xã hội và
phát triển kinh tế trên địa bàn nông thôn Việt Nam nói chung và miền núi nói riêng.
Có thể nói xã là điểm nối dài (cánh tay) của chính quyền cấp huyện. Do đó cần phải
hiểu rõ thêm vị trí của xã trong quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp tại địa
phương, trên cơ sở đó giúp cho xã ổn định về mặt xã hội, phát triển và ổn định về
đời sống KTXH nói chung.

Minh Hợp là một xã nằm ở phía Đông Nam của huyện Quỳ Hợp thuộc vùng
Tây Bắc của tỉnh Nghệ An, có điều kiện giao thông tương đối thuận lợi. Tổng diện tích
tự nhiên của xã là 5.834,4 ha với số dân 10.228 người được phân bố trên 21 xóm.
Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội việc quy hoạch nông lâm
nghiệp vẫn còn nhiều bất cập: Những diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao sử
dụng chưa hiệu quả, năng suất và chất lượng rừng chưa cao, tình hình sử dụng đất
còn thiếu bền vững, cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển đổi còn chậm.


3

Những tồn tại trên đã ảnh hưởng đến công tác quy hoạch nông lâm nghiệp
nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Do đó hướng giải quyết hiện nay là
giúp xã phân bổ lại đất đai, lập phương án quy hoạch nông lâm nghiệp dựa trên
phương pháp PRA, kết hợp kỹ thuật canh tác, đồng thời giúp người dân đề xuất
được cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với gia đình, với kinh tế thị trường nhằm
góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân địa phương.
Xuất phát từ những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn như vậy chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài "Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch nông lâm
nghiệp xã Minh Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An ".


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Trên thế giới
Chúng ta biết rằng việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng
bền vững nói chung và tài nguyên rừng, tài nguyên đất đai nói riêng đã và đang
được các nhà khoa học trong nước và trên thế giới quan tâm.

Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch nông lâm nghiệp sao cho hợp lý đã
được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một
khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái
niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển
bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng, tài nguyên đất đai
phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo hướng
lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo
vệ môi trường, các đặc điểm xã hội và nhân văn. Quy hoạch nông lâm nghiệp luôn
phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan trong quá trình xây dựng
phương án quy hoạch
1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát triển
lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Dựa trên học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các
hướng cụ thể về kế hoạch hóa phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ nghĩa.
Tại Châu Âu, vào thập niên 30 và 40 của thế kỷ 20, quy hoạch ngành giữ vai trò lấp
chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ.
- Công tác quy hoạch vùng ở Liên Xô
Công tác quy hoạch vùng hay còn gọi là quy hoạch vùng sản xuất nông
nghiệp lấy việc nghiên cứu tổng hợp tất cả các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của


5

mỗi vùng làm nguyên tắc chủ đạo để phân bố lực lượng sản xuất. Từ đánh giá sức
lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi tới nhận định phân bố lực lượng sản
xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất lao động tích
lũy nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển sản xuất và văn hóa

của đất nước.
- Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari
Mục đích của việc quy hoạch đó là sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất
nước. Nội dung của quy hoạch đó là:
- Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
- Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp theo ngành dọc.
- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ công cộng và sản xuất.
- Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
- Bảo vệ môi trường thiên nhiên, tạo điều kiện tốt cho nhân dân lao động,
sinh hoạt.
- Quy hoạch vùng ở Pháp
Thực hiện theo quan điểm hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh thổ
của M. Pierre Thénevin. Trong nghiên cứu quy hoạch vùng này người ta đã nghiên
cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội bộ
vùng, có quan hệ với các vùng khác và nước ngoài.
- Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống
quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: (Quốc gia, vùng, địa phương).
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước, phải
phối hợp với chính quyền, địa phương [15].
Như vậy công tác quy hoạch vùng lãnh thổ đã được tiến hành ở nhiều nước
từ lâu và đã đạt được những kết quả nhất định.


6

1.1.2. Quy hoạch vùng nông nghiệp
Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp tổng hợp của Nhà nước về
phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính, nông

nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế trong vùng.
Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hóa tương
lai của Nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo
lãnh thổ của các vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chuyên môn hóa một
cách hợp lý. Là biện pháp sử dụng đất đai, lợi dụng các yếu tố tự nhiên, áp dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật…
Vùng hành chính là đối tượng quy hoạch vùng nông nghiệp, đồng thời cũng
là vùng lãnh thổ mà ở đó có các điều kiện kinh tế, vùng tổ chức lãnh thổ thuận lợi
cho việc phát triển tất cả các ngành kinh tế - quốc dân [16].
1.1.3. Quy hoạch lâm nghiệp
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư
bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu về gỗ
ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong
kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm
nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay
những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ
rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình
thành trong hoàn cảnh như vậy.
Đầu thế kỷ 18, những nguyên tắc đơn giản nhất của kinh doanh tổ chức rừng
bắt đàu được áp dụng để thu được sản phẩm gỗ đều đặn. Phạm vi quy hoạch lâm
nghiệp mới chỉ giải quyết việc “ Khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ
lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và
tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức
này phục vụ cho kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.
Sau Cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh rừng
chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Và


7


phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia
đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng
và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816, xuất hiện phương
thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta, Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi
dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời, quan điểm của phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm
bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19, xuất hiện phương
pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp này khác với phương pháp “Bình
quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch
được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu
hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh
doanh và tổ chức rừng khác nhau.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp tuổi”
chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu
tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao
vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ
biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh
tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa
vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và
biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương
pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” [16]
Trong suốt hai thế kỷ 18 và 19, ngành khoa học về quy hoạch lâm nghiệp và
điều chế rừng dần từng bước bổ sung các cơ sở lý luận, hoàn thiện các giải pháp tối
ưu trong kinh doanh rừng. Phát triển mạnh nhất của ngành khoa học này là ở Châu
Âu như ở Đức và Áo, tên gọi của ngành khoa học này cũng luôn thay đổi do quan
niệm và nhận thức trong từng giai đoạn khác nhau.[4]
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và thập kỷ 40 của thế kỷ 20, quy hoạch ngành
giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm



8

1946, Jack.G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên"
Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây cũng là tài liệu đầu tiên, đề cập
đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước
đây (nay là Cộng hoà Zimbabwe) Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng
dẫn quy hoạch sử dụng đất hộ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho công tác trồng
rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Tạp chí "East African Journal for
Agriculture and Forestry" đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở
Nam châu Phi. Năm 1966, Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời
chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng
trong quy hoạch sử dụng đất...[ 3]
Trước những năm 70 của thế kỷ 20, quan niệm về quy hoạch và điều chế rừng
cũng chỉ quan tâm chủ yếu đến lợi nhuận và mục tiêu sản xuất gỗ là chính. Nhiều công
trình nghiên cứu khoa học tập trung vào các lĩnh vực sản lượng gỗ, và việc tổ chức
rừng trong quy hoạch và điều chế cũng nhằm mục tiêu sản xuất gỗ liên tục.
Tuy nhiên, ngày nay trước những thay đổi về môi trường toàn cầu cũng như
trong từng khu vực, quốc gia đã đòi hỏi ngành lâm nghiệp xem xét việc quy hoạch
rừng và tổ chức sản xuất kinh doanh và thực tế cho thấy khoa học về tổ chức rừng
này không chỉ đơn thuần là khoa học thuần túy về cấu trúc, sản lượng, sinh vật học
rừng mà còn liên quan đến yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, môi trường. Do đó quy
hoạch và điều chế rừng ngày nay cần có những thay đổi trong nhận thức cũng như
giải pháp toàn diện để kinh doanh bền vững tài nguyên rừng.[4]
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh
lúa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau thực phẩm
cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng năm): Vùng
bông Bình Thuận, vùng đay Hưng Yên, vùng thuốc lá Quảng An - Cao Bằng, Ba Vì

- Hà Tây, Hữu Lũng - Lạng Sơn, Nho Quan - Ninh Bình, vùng mía Vạn Điểm, Việt
Trì, Sông Lam, Quảng Ngãi... Các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng


9

cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ - Đắc Lắc, Chư Pả - Gia Lai, Kon Tum, vùng
cà phê Krông Búc, Krông Bách - Đắc Lắc, Chư Pả, Ninh Đức - Gia Lai, Kon Tum
(hợp tác với Liên Xô trước đây, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari), vùng
chè ở Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang,
Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc - Lâm Đồng...
Quy hoạch vùng chuyên canh đã có những tác dụng trong việc:
- Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hoá và
những vùng có khả năng hợp tác kinh tế.
- Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp Nhà nước tập trung đầu tư
vốn đúng đắn.
- Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và hàng hoá của
vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhu cầu lao động.
- Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển nghiên cứu tổ chức quản lý kinh
doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ cấu
cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập trung để
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng sản
phẩm cây trồng đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản
xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của các cơ sở sản xuất.
- Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau:
+ Xác định quy mô, ranh giới vùng.
+ Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất.
+ Bố trí sử dụng đất đai.
+ Xác định quy mô, ranh giới, nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp

trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp.
+ Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống.
+ Tổ chức và sử dụng lao động.
+ Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế.
+ Dự kiến tiến độ thực hiện quy hoạch.


10

1.2.2. Quy hoạch nông nghiệp huyện
Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện, là một
quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thủ công nghiệp
và công nghiệp chế biến. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện là:
(1) Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện căn cứ vào dự án
phát triển, phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông nghiệp tỉnh hoặc thành
phố đã được phê duyệt, xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển nông
nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm thực hiện được các mục tiêu đó theo hướng
chuyên môn hoá tập trung hoá kết hợp phát triển tổng hợp nhằm thực hiện 3 mục
tiêu nông nghiệp là giải quyết lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp
và nông sản xuất khẩu ổn định.
(2) Hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng đất nhằm sử
dụng đất đai được hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng cao được độ phì nhiêu của đất.
(3) Tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
(4) Tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện là:
+ Xác định phương hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp.
+ Bố trí sử dụng đất đai.
+ Xác định cơ cấu và quy mô sản xuất nông nghiệp (phân chia và tính toán
quy mô các vùng sản xuất chuyên môn hoá, xác định vùng sản xuất thâm canh cao
sản, các tổ chức liên kết nông - công nghiệp, các cở sở dịch vụ nông nghiệp, bố trí

trồng trọt, bố trí chăn nuôi).
+Tổ chức các cơ sở sản xuất nông nghiệp.
+ Tổ chức công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp.
+ Giải quyết mối quan hệ giữa các ngành sản xuất có liên quan trong và
ngoài nông nghiệp.
+ Bố trí cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp (thuỷ lợi, giao thông,
cơ khí điện, cơ sở dịch vụ thương nghiệp).
+ Tổ chức sử dụng lao động nông nghiệp, phân bố các điểm dân cư nông thôn.


11

+ Những cân đối chính trong sản xuất nông nghiệp (lương thực, thực phẩm),
thức ăn gia súc, phân bón, vật tư kỹ thuật nông nghiệp, nguyên liệu cho các xí
nghiệp chế biến.
+ Tổ chức các cụm kinh tế xã hội.
+ Bảo vệ môi trường.
+ Vốn đầu tư cơ bản.
+ Hiệu quả sản xuất và tiến độ thực hiện quy hoạch.
Đối tượng của quy hoạch nông nghiệp huyện là toàn bộ đất đai, ranh giới
hành chính của huyện [16].
1.2.3. Quy hoạch Lâm nghiệp
Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt không
gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo các
cấp quản lý lãnh thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau làm, cơ sở cho việc lập
kế hoạch cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền
kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa phương, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi
khác của rừng.
Quy hoạch lâm nghiệp liên quan rất nhiều đến các hoạt động sản xuất của
các ngành khác và nó được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội của vùng,

khu vực cũng như nhu cầu của từng địa phương, do đó phương án quy hoạch cần
xem xét mối quan hệ này, đặc biệt xuất phát từ thực tế. Hiện nay chúng ta đã có
nhiều thay đổi trong cách tiếp cận trong xây dựng phương án quy hoạch, thay vì các
quy hoạch thường do một nhóm chuyên gia xây dựng trên cơ sở các luận cứ khoa
học về rừng, đất...thường bỏ quên mối quan hệ với dân cư tại chỗ, chúng ta đã từng
bước tổ chức quy hoạch ở cấp xã với sự tham gia của nhiều bên liên quan.[4]
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, áp
dụng thông qua các mô hình rừng trồng, như việc xây dựng phương án điều chế
rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều .
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài nguyên
rừng, năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc, mãi đến năm


12

1960 - 1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng miền Bắc.[16] Sau năm
1975 hình thành các liên hiệp lâm nghiệp, các lâm trường trong cả nước, chúng ta
tiến hành các cuộc tổng kiểm kê tài nguyên rừng và xây dựng phương án quy hoạch
lâm nghiệp cho từng cấp lãnh thổ, trong đó chú trọng các đơn vị trực tiếp kinh
doanh lâm nghiệp như Liên hiệp lâm nghiệp, lâm trường. Giai đoạn này phương án
quy hoạch lâm nghiệp được xem như là yếu tố pháp lý để tổ chức sản xuất kinh
doanh cho một đơn vị lâm nghiệp. Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy rằng các phương
án này thường chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế và khó thực thi, do trong quá
trình xây dựng phương án chúng ta chưa phản ánh được thực trạng nhu cầu xã hội
hoặc do cơ sở dữ liệu có độ tin cậy thấp, đồng thời với nó là sự tách biệt cộng đồng
dân cư trong các cấp kinh doanh, quản lý bảo vệ rừng; điều này đã dẫn đến rừng
kinh doanh kém hiệu quả, rừng vẫn bị mất. Từ những năm 80 của thế kỷ 20 chúng
ta bắt đầu chú trọng vào khoa học điều chế rừng, tức là cố gắng tổ chức rừng khoa
học hơn về không gian và thời gian, tránh kinh doanh rừng làm mất rừng. Dựa vào
phương án quy hoạch, hầu hết các lâm trường đều phải xây dựng phương án điều

chế rừng và hàng năm đều có các thiết kế sản xuất. Hoạt động này đã đóng góp tích
cực vào việc quản lý kinh doanh gỗ ổn định hơn, tuy nhiên về kỹ thuật các phương
án này cũng ở mức đơn giản. Nhưng qua hơn 20 năm thực hiện chúng ta cũng thấy
rằng các phương án này vẫn nặng về kỹ thuật, lý thuyết về việc áp dụng trong thực
tế rất hạn chế, hơn nữa nó cũng tập trung vào khai thác gỗ; những yếu tố về quan hệ
xã hội trong kinh doanh rừng chưa được xem xét, việc thâm canh rừng với sản
phẩm đa dạng chưa được đề cập nhiều. Điều này đòi hỏi quy hoạch cũng như điều
chế rừng xem xét cách tiếp cận cũng như vận dụng lý thuyết sản lượng trong thực
tiễn. Thực tế cho thấy điều chế rừng và quy hoạch có tính xã hội sâu sắc, chúng ta
cần quan tâm hơn đến kiến thức bản địa, năng lực, nguồn lực tại chỗ để xây dựng
một kế hoạch kinh doanh rừng khả thi và có hiệu quả hơn, trong đó chú ý đến vai
trò của cộng đồng, người dân, những kinh nghiệm cũng như sự tham gia của họ, và
kinh doanh rừng phải đóng góp vào việc nâng cao đời sống của dân sống trong vùng
gần rừng.[4] Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng


13

được tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực
lượng điều tra quy hoạch của các Sở Lâm nghiệp (nay là Sở Nông nghiệp & PTNT)
không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của nước ngoài
cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với
lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và
phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ
thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn
vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [12].
Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 một
trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp & PTNT đánh giá là: “Công tác quy hoạch
nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ với quy
hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa

quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực
địa.. ”[14]. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với ngành lâm nghiệp
của nước ta hiện nay.
Năm 1997, ngành Lâm nghiệp thực hiện tổng kiểm kê toàn quốc theo chỉ thị
286/TTg ngày 02/05/1997 của Thủ tướng chính phủ nhằm chuẩn bị thực hiện dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp, nhiều địa phương đã tiến hành
lập dự án QHLN, kể từ đó công tác QHLN được các địa phương hết sức quan tâm.[12]
Song song với việc tiến hành áp dụng công tác QHLN vào thực tiễn sản xuất
môn học QHLN đã được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngành.
Ngày nay khoa học quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đang tiếp tục được
phát
triển với những yêu cầu mới, trong đó xem xét một cách toàn diện hơn việc
tổ chức nghề rừng trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm ba yêu cầu cơ
bản là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
1.2.3.1. Tính đặc thù của quy hoạch lâm nghiệp


14

- Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven
biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức
tạp, giao thông đi lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động.
- Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí còn hạn
chế, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều khó
khăn. Đối tượng của công tác quy hoạch lâm nghiệp là rừng và đất lâm nghiệp, từ
bao đời nay là “của chung” của đồng bào các dân tộc, nhưng thực chất là vô chủ.
- Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8 - 10 năm, dài 40 - 100 năm).
Người dân chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ có lợi.
- Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch rừng phòng
hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường); Quy hoạch rừng

đặc dụng (các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di tích văn hoá lịch sử - danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại rừng sản xuất.
- Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và vi
mô: Quy hoạch toàn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, xí nghiệp, lâm
trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
- Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch lâm nghiệp thường luôn phải
lưu động, điều kiện sinh hoạt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về mọi mặt. Đội
ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao gồm cả lực lượng
của Trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng tham gia làm quy
hoạch lâm nghiệp (nông nghiệp, công an, quân đội...); Trong đó, có một bộ phận
được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm
hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp [16].
* Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển đổi cơ
cấu nông nghiệp nông thôn.
Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ trương,
chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và chính quyền
các cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm nghiệp phải đạt
được một số yêu cầu sau:


15

- Hoạch định rõ ranh giới đất nông - đất lâm nghiệp và đất do các ngành khác
sử dụng; Trong đó, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm hàng đầu vì là
hai ngành chính sử dụng đất đai.
- Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành hoạch định 3 loại rừng
(phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh thích hợp với
từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, làm giàu rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, trồng
rừng mới, nuôi dưỡng rừng, nông lâm kết hợp....khai thác lợi dụng rừng).
- Tính toán nhu cầu đầu tư (chủ yếu nhu cầu lao động, vật tư thiết bị và nhu
cầu vốn). Vì là phương án quy hoạch nên việc tính toán nhu cầu đầu tư chỉ mang

tính khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp theo.
- Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy hoạch (giải
pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp về vốn, lao động ...)
- Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp toàn quốc, vùng,
tỉnh) còn đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước tiếp theo là
lập Dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi.
1.2.3.2. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp
a) Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp sản xuất kinh doanh
Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý SXKD bao gồm: Quy hoạch tổng
công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp, quy hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng
khác (quy hoạch cho các khu rừng phòng hộ. Quy hoạch các khu rừng đặc dụng và
quy hoạch phát triển sản xuất lâm nông nghiệp cho các cộng đồng làng bản và trang
trại lâm nghiệp hộ gia đình). Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản
lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và
thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy
hoạch cho phù hợp [16].
b) Quy hoạch Lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính:
Từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành phố trực thuộc
tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển, mỗi đơn vị đều phải xây dựng


16

phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các
ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã hội.
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch lâm
nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất nghề rừng
nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung trên địa bàn.
* Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc

Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp
trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản, bao gồm:
+ Xác định phương hướng, nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp toàn
quốc; quy hoạch đất đai tài nguyên rừng theo các chức năng (sản xuất, phòng hộ và
đặc dụng).
+ Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có.
+ Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng), thực
hiện nông lâm kết hợp.
+ Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ.
+ Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
+ Xác định tiến độ thực hiện.
Do đặc thù khác với những ngành kinh tế khác, cho nên thời hạn quy hoạch
lâm nghiệp thường được thực hiện trong thời gian 10 năm và các nội dung quy
hoạch được thực hiện tuỳ theo các vùng kinh tế lâm nghiệp.
Cấp quy hoạch này sẽ đưa các ưu tiên bao gồm việc phân bổ nguồn tài
nguyên và các ưu tiên phát triển giữa các vùng cũng như là các vấn đề cần thiết liên
quan đến cơ sở luật pháp và chính sách lâm nghiệp (FAO, 1987)[4]
* Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh
Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vấn đề chính sau:
+ Xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi
tỉnh căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ
quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế,


17

xã hội của tỉnh. Tiến hành quy hoạch đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo ba chức
năng: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, căn cứ vào phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ vào điều kiện đất đai tài nguyên

rừng, đồng thời căn cứ vào nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác.
+ Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển tài nguyên rừng hiện có.
+ Quy hoạch tái sinh rừng (bao gồm tái sinh tự nhiên và trồng rừng), thực
hiện nông lâm kết hợp.
+ Quy hoạch lợi dụng rừng, chế biến lâm sản gắn với thị trường tiêu thụ.
+ Quy hoạch tổ chức sản xuất, phát triển nghề rừng, phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
+ Xác định tiến độ thực hiện.
* Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp tỉnh, tuy nhiên nó được thực hiện
cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Cấp huyện là nơi
tiến hành lập kế hoạch phát triển lâm nghiệp, quy hoạch lâm nghiệp huyện đề cập
giải quyết các vấn đề sau:
+ Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội
của huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện tự
nhiên kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để xác định
phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
+ Căn cứ phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất đai tài
nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác, tiến hành quy hoạch
đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng.
+ Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng tài nguyên rừng hiện có.
+ Quy hoạch các biện pháp tái sinh rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi
rừng tự nhiên.
+ Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ trên đất lâm nghiệp.


18

+ Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền với

thị trường tiêu thụ.
+ Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho các
thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
+ Xác định tiến độ thực hiện.
Thời gian quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện thường là 10 năm. Các nội dung
quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện.
* Quy hoạch lâm nghiệp cấp xã
Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức sản
xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy hoạch lâm
nghiệp trên địa bàn xã cần chi tiết cụ thể hơn và được tiến hành trong thời gian 10
năm. Quy hoạch lâm nghiệp xã thường tiến hành các nội dung sau:
+ Điều tra các điều kiện cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất lâm
nghiệp như: Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện tài nguyên rừng.
Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, căn cứ vào quy hoạch cấp
huyện và các điều kiện cơ bản của xã, xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển
lâm nghiệp trên địa bàn xã.
+ Quy hoạch đất đai trong xã theo ngành và theo đơn vị sử dụng, xác định rõ mối
quan hệ giữa các ngành sử dụng đất đai trên địa bàn xã. Căn cứ vào phương hướng phát
triển, các điều kiện về nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác (nếu có) phân chia
đất lâm nghiệp theo ba chức năng sử dụng: Sản xuất, phòng hộ, đặc dụng.
+ Quy hoạch các nội dung sản xuất kinh doanh lợi dụng rừng, bố trí không
gian, tổ chức các biện pháp kinh doanh lợi dụng rừng: bảo vệ và nuôi dưỡng rừng
hiện có, trồng rừng và tái sinh phục hồi rừng, nông lâm kết hợp, khai thác, chế biến
các loại lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu của địa phương và thị trường, quy hoạch
các nội dung sản xuất hỗ trợ.


19


+ Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp cho các thành phần kinh tế trong
xã gắn với phát triển lâm nghiệp xã hội.
+ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, các công trình phục
vụ sản xuất và đời sống.
+ Ước tính đầu tư và hiệu quả: ước tính đầu tư lao động tiền vốn, vật tư thiết bị.
Hiệu quả đầu tư cần được đánh giá đầy đủ trên các mặt kinh tế - xã hội, môi trường.
+ Xác định tiến độ thực hiện.
Về cơ bản nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ từ
toàn quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự như nhau. Tuy nhiên mức độ giải quyết
khác nhau về chiều sâu và chiều rộng tuỳ theo các cấp.
Theo tác giả Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của Dự án lâm nghiệp
Việt Nam - ADB (1999 - 2000) đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy
hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã [9]. Mục tiêu đưa ra phương pháp QHNLN
cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án NLN cho 50 xã của 4
tỉnh: Thanh Hóa, Gia Lai, Phú Yên, Quảng Trị. Một số kinh nghiệm rút ra đó là:
+ Việc tiến hành nghiên quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá, điều tra
nguồn lực một cách chi tiết và đầy đủ.
+ Tiến hành QHSDĐ là cơ sở quan trọng cho QHNLN.
+ QHNLN cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp thôn bản bằng
phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân như PRA.
Theo văn kiện đại hội đảng bộ huyện Quỳ Hợp lần thứ XIX [8] nhiệm kỳ
2010 - 2015 với mục tiêu trong nông lâm nghiệp đó là ổn định diện tích và sản
lượng các loại cây trồng: lúa nước, ngô, lạc, mía, cam, cao su; phát triển mạnh chăn
nuôi đàn gia súc, gia cầm cả về mặt chất lượng và chất lượng trên cơ sở thực hiện
tốt quy hoạch đồng cỏ để trồng cỏ công nghiệp nuôi bò sữa, phấn đấu hàng năm
tăng tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt từ 42 - 47%. Về lâm nghiệp tiến hành
rà soát lại quy hoạch diện tích rừng và đất rừng, trồng rừng tập trung hàng năm đạt
từ 1.000 - 1.500 ha, phấn đấu đến năm 2015 đưa độ che phủ của rừng lên 55%, đưa
kinh tế rừng phát triển ngày càng bền vững.[8]



20

Minh Hợp là xã được UBND huyện giao nhiệm vụ thực hiện một phần nội
dung phát triển nông lâm nghiệp của huyện, nằm ở vùng thấp của huyện có tổng
diện tích đất tự nhiên là 5.834.4 ha, trong đó đất nông lâm nghiệp là ha 4.024,31 ha
chiếm 68,98 % diện tích đất tự nhiên. Đời sống của người dân trong xã hiện nay vẫn
gặp khó khăn do chưa tận dụng hết tiềm năng tài nguyên rừng và đất đai một cách
hiệu quả và hợp lý. Do vậy, để góp phần ổn định đời sống, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, quy hoạch sắp xếp lại diện tích đất nông lâm nghiệp của xã một cách
hợp lý là nhiệm vụ cấp thiết trong thời gian tới.
1.3. Thảo luận
Đánh giá, phân tích các nghiên cứu về quy hoạch NLN ở Việt Nam trong
thời gian qua có thể rút ra một số kết luận sau:
- Hiện tại nước ta chưa có nghiên cứu đầy đủ về QHNLN cấp địa phương, đặc
biệt là cấp xã. Phương pháp quy hoạch hiện tại còn chưa thống nhất và được vận dụng
rất khác nhau. Mặt khác công tác quy hoạch nhiều khi còn dựa trên ý kiến từ trên
xuống của các nhà quy hoạch mà thiếu sự tham gia và đóng góp của người dân.
- Các công trình nghiên cứu đã thu được những kết quả nhất định trong việc
tiến hành QHNLN ở cấp địa phương. Tuy nhiên các nghiên cứu này chưa được tổng
kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc QHNLN cấp xã mặc dù đã được nhiều
tác giả nghiên cứu và phát triển, tuy nhiên chưa tiến hành ở trên diện rộng mà mới
chỉ tiến hành ở một số xã nhất định. Vấn đề nghiên cứu đề xuất phương án QHNLN
vẫn cần được tiếp tục tiến hành nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm thúc
đẩy phát triển bền vững kinh tế xã hội nông thôn miền núi.
Theo văn kiện đại hội đảng bộ xã Minh Hợp khóa VII (nhiệm kỳ 2010 2015) [5], mục tiêu với nông lâm nghiệp đó là chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
phù hợp với tình hình của xã, xây dựng vùng chuyên canh cây công nghiệp, tăng tỷ
trọng chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông lâm ngư nghiệp, đẩy mạnh công tác chăm
sóc, bảo vệ và trồng rừng, phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, nhân rộng các

mô hình sản xuất nông lâm kết hợp.


21

Do vậy, để góp phần ổn định đời sống, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,
quy hoạch sắp xếp lại diện tích đất nông lâm nghiệp của xã một cách hợp lý là
nhiệm vụ cấp thiết trong thời gian tới.
Xây dựng phương án quy hoạch nông lâm nghiệp xã Minh Hợp đến năm
2020 đáp ứng mục tiêu phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, an toàn, chất
lượng sản phẩm ngày càng cao theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, phục vụ các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của xã và cả huyện, đồng thời duy trì và phát
triển cảnh quan môi trường cho phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân.


22

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất các giải
pháp quy hoạch nông lâm nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông lâm
nghiệp.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của quy hoạch nông lâm nghiệp.
- Phân tích, đánh giá được điều kiện cơ bản của xã Minh Hợp ảnh hưởng đến
phát triển nông lâm nghiệp.
- Đánh giá tình hình sản xuất nông lâm nghiệp và dự báo nhu cầu nông lâm sản.

- Đề xuất các nội dung cơ bản cho quy hoạch nông lâm nghiệp xã.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Các văn bản pháp quy của Nhà nước về đất đai, chính sách bảo vệ và phát
triển rừng, phát triển nông lâm nghiệp;
- Điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã hội và nhân văn của xã;
- Các cơ chế chính sách đã và đang áp dụng ảnh hưởng đến quy hoạch nông
lâm nghiệp;
- Một số mô hình sử dụng đất tại xã Minh Hợp;
- Thị trường nông lâm sản tại xã Minh Hợp.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian, nhân lực và các phương tiện hỗ trợ có hạn nên đề tài chỉ tập
trung giải quyết vấn đề nghiên cứu trong phạm vi sau:
- Về không gian:


23

Toàn bộ diện tích rừng sản xuất và đất nông lâm nghiệp thuộc xã Minh Hợp,
huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
Địa điểm tiến hành nghiên cứu, thu thập số liệu: Trên cơ sở phân tích các tài
liệu thứ cấp có liên quan đến các đặc điểm tự nhiên, dân sinh, KTXH và kết quả
điều tra khảo sát theo phương pháp PRA trên địa bàn xã Minh Hợp, 5 xóm điển
hình được chọn để tiến hành nghiên cứu, từ các số liệu thu thập tiến hành tổng hợp
và xử lý làm căn cứ đề xuất phương án QHNLN chung cho cả xã.
- Về thời gian:
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu, đề xuất phương án QHNLN cho xã Minh
Hợp giai đoạn 2011 - 2020.
2.3. Nội dung nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau:
2.3.1. Cơ sở thực tiễn của quy hoạch nông lâm nghiệp xã Minh Hợp
- Đánh giá chung về hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng của xã, đánh
giá hiệu quả hoạt động nông lâm nghiệp của xã.
- Cơ sở pháp lý: Tìm hiểu các luật, văn bản dưới luật và các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến quy hoạch nông lâm nghiệp.
2.3.2. Điều kiện cơ bản khu vực nghiên cứu
2.3.3. Hiệu quả kinh tế của một số mô hình sử dụng đất
2.3.4. Một số dự báo cơ bản
2.3.5. Định hướng và nhiệm vụ phát triển nông lâm nghiệp xã Minh Hợp đến
năm 2020
2.3.6. Đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch nông lâm nghiệp xã Minh Hợp giai
đoạn 2011 - 2020
- Quy hoạch phân bổ sử dụng đất.
- Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp xã Minh Hợp.
- Phân kỳ quy hoạch và lập kế hoạch quy hoạch NLN xã Minh Hợp.
- Dự tính nhu cầu vốn đầu tư và hiệu quả của phương án quy hoạch.
- Đề xuất các giải pháp thực hiện.


24

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
2.4.1.1. Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu thứ cấp
Sử dụng phương pháp kế thừa có chọn lọc các nguồn tài liệu thứ cấp tại địa
phương và các cơ quan hữu quan, bao gồm:
- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế của huyện, xã.
- Các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp trên

địa bàn xã.
- Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp của xã trong 3 năm từ 2008 - 2010
- Phương án quy hoạch sử dụng đất
- Các số liệu thống kê về đất đai, cơ sở hạ tầng, kết quả sản xuất, thị trường giá cả...
- Các tài liệu, văn bản về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như
các chính sách của địa phương, các ngành có liên quan đến ngành nông lâm nghiệp.
- Các số liệu về thời tiết, khí hậu
Những số liệu trên được thu thập, kế thừa từ các cơ quan: Uỷ ban nhân dân xã
Minh Hợp, Ban Nông lâm nghiệp xã, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
huyện, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện, Hạt kiểm lâm huyện và một số cơ quan
khác như ở các Công ty Nông lâm nghiệp trên địa bàn xã Minh Hợp, huyện Quỳ
Hợp, tỉnh Nghệ An về các hoạt động sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp.
- Ngoài các số liệu trên, đề tài còn tiến hành thu thập một số qui trình qui
phạm của ngành, các hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến quy hoạch nông lâm nghiệp
do các tổ chức, các chương trình và dự án đề xuất.
2.4.1.2. Khai thác, sử dụng các loại bản đồ
+ Bản đồ thổ nhưỡng xã Minh Hợp của Đoàn Điều tra Quy hoạch Nông
nghiệp Nghệ An (Xây dựng năm 2008).
+ Bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng xã Minh Hợp năm 2010 theo kết quả rà
soát của Hạt Kiểm lâm Quỳ Hợp.


×