Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Luận văn thạc sỹ bộ môn Pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.46 KB, 133 trang )

BẢNG VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29


30
31
32

CHỮ RÕ

CHỮ VIẾT TẮT
Viện kiểm sát
VKS
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
VKSNDCC
Cơ quan điều tra
CQĐT
Tòa án nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã
TAND huyện
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương TAND tỉnh
Tòa án nhân dân cấp cao
TANDCC
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐTPTANDTC
Bộ luật hình sự
BLHS
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 BLHS 1999
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 BLHS 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
BLTTHS 1988
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 2003
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS 2015
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
BLTTDS 2015
Luật tố tụng hành chính năm 2015
LTTHC 2015
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
LTCTAND 2002
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
LTCTAND 2014
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
LTCVKSND 2002
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
LTCVKSND 2014
Điều tra viên
ĐTV
Kiểm sát viên
KSV
Thẩm phán
TP
Người bào chữa
NBC
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự
NBVQLHPCĐS
Người tiến hành tố tụng
NTHTT

Người tham gia tố tụng
NTGTT
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
NCQL&NVLQ
Tòa án cấp phúc thẩm
TACPT
Hội đồng xét xử
HĐXX
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT
TÊN TÀI LIỆU
TÁC GIẢ/NXB
1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, năm Nxb. chính trị quốc
2

1946
gia
Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, năm Nxb. chính trị quốc
1


3

1959
gia
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nxb. chính trị quốc

4


Nam, năm 1980
gia
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nxb. chính trị quốc

5

Nam, năm 1992
gia
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nxb. chính trị quốc

6

Nam, năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2002
gia
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nxb. chính trị quốc

7

Nam, năm 2013
gia
Giáo trình Luật Hiến pháp của Trường Đại học Luật Nhiều tác giả. Nxb

8

Hà Nội
Bộ luật hình sự năm 1999

9

gia

Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm Nxb. chính trị quốc

10

2009
gia
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm Nxb. chính trị quốc

11
12

2017
gia
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999
Nhiều tác giả
Định tội danh theo Bộ luật hình sự Nước Cộng Hòa Nguyễn Đăng Dung,

13

Xã Hội Chủ NghĩaViệt Nam
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

14

gia
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm Nhiều tác giả, 2004.

15
16
17

18
19

pháp lý, năm 2014
Nxb. chính trị quốc

2001. Nxb. Pháp lý
Nxb. chính trị quốc

2003

Nxb. chính trị quốc

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

gia
Nxb. chính trị quốc

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

gia
Nxb. chính trị quốc

Luật tố tụng hành chính năm 2015

gia
Nxb. chính trị quốc

Luật thi hành án hình sự, các năm: 2008; 2012


gia
Nxb. chính trị quốc

Luật thi hành án dân sự, các năm: 2008; 2014

gia
Nxb. chính trị quốc

2


Pháp lệnh tổ chức các Cơ quan điều tra năm 2004

gia
Nxb. chính trị quốc

21

Luật tổ chức các Cơ quan điều tra năm 2015

gia
Nxb. chính trị quốc

22

gia
Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các năm: 1960; 1981; Nxb. chính trị quốc

20


1992; 2002; 2014. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân gia
23

dân, các năm: 1960; 1981; 1992; 2002; 2014
Luật Luật sư, các năm: 2008; 2012

24

gia
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân Tòa án nhân dân tối

Nxb. chính trị quốc

dân tối cao về hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự, cao
25

Bộ luật dân sự
Hồ sơ án phúc thẩm của Tòa án; VKS từ năm 2007

26

đến năm 2015
Báo cáo tổng kết công tác: Từ năm 2007 đến năm Viện kiểm sát tỉnh

27

2017
Quảng Ngãi
Kết luận kiểm tra thường kỳ toàn diện các lĩnh vực Viện kiểm sát nhân
công tác nghiệp vụ đối với các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

dân cấp huyện trực thuộc: Từ năm 2007 đến năm
2017
Tạp chí Tòa án

Tòa án nhân dân tối

29
30

Tạp chí Kiểm sát
Luận án Tiến sĩ luật học: “Xét xử sơ thẩm trong Tố

cao
Viện kiểm sát tối cao
Võ Thị Kim Oanh

31

tụng Hình sự Việt Nam”
Tập bài giảng: “Chứng cứ, những vấn đề lý luận và

TS. Đặng Quang

32

thực tiễn (2014)”.
Bài viết “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố

Phương
Ts. Hoàng Thị Minh


28

33

tụng Hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng

Sơn (Tạp chí Luật

yêu cầu cải cách tư pháp”
Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung một số thủ tục tố

học số 10/2009);
Ths. Nguyễn Văn

tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”

Trượng (Tạp chí

3


34

Luận án tiến sĩ luật học: “Quá trình chứng minh

TAND số 6/2010)
Nguyễn Văn Du

35


trong vụ án hình sự ở nước ta”
Luận văn Thạc sỹ luật học - Học viện Khoa học xã

Dương Ngọc An

hội Việt Nam năm 2015: “Chứng minh trong tố tụng
36

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
Luận văn Thạc sỹ Luật học – Học viện Khoa học xã

Nguyễn Thị Thủy

hội Việt Nam năm 2009: “Thủ tục xét xử sơ thẩm
theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam và hoàn
37

thiện theo tinh thần cải cách tư pháp của nước ta”
Luận văn Thạc sỹ Luật học – Học viện Khoa học xã

Nguyễn Thị Mai

hội Việt Nam năm 2013: “Phiên tòa xét xử hình sự

Thùy

sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
38


thành phố Hồ Chí Minh”
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền”.

PGS.TS Lê Văn
Cảm
(Tạp chí Kiểm sát số
15 tháng 8/2010 và

39

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật “Thực tiễn kiểm
sát hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự”

40

Bài viết “Kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quyền lợi
cho công dân”

17 tháng 9/2010)
Dương Ngọc An
(Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh)
Kiểm sát viên
Dương Ngọc An
(Báo Bảo vệ pháp
luật số Chuyên đề

41


Bài viết “ Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày

tháng 9/2007)
Dương Ngọc An

4/8/2000 của HĐTPTANDTC: Những vướng mắc từ

(Báo Bảo vệ pháp

thực tiễn”

luật số Chuyên đề
tháng 1 + 2/2009
4


42

Bài viết “Dấu ấn sâu sắc từ một vụ án”

Dương Ngọc An
(Báo Bảo vệ pháp
luật số Chuyên đề

43

tháng 10/2012)
Dương Ngọc An


Bài viết “Qua một vụ đáo tụng đình”

(Báo Bảo vệ pháp
luật số Chuyên đề
44

tháng 7/2010)
Dương Ngọc An

Bài viết “Nhận định một đằng xét xử một nẻo"

(Báo Bảo vệ pháp
luật số Chuyên đề
45

46

Bài viết “Hành vi của Phan H có phạm tội “Tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có ” hay chỉ là

Tạp chí Kiểm sát số

“vi phạm hành chính”
Bài viết “Lê Văn D đã thực hiện quyền phòng về

09 tháng 5/2010
Dương Ngọc An

chính đáng”
47


Tạp chí Kiểm sát số

Bài viết “Kết quả thẩm vấn và tranh tụng tại phiên
tòa phúc thẩm hình sự”

48

tháng 9/2010)
Dương Ngọc An

18 tháng 9/2010
Dương Ngọc An
Tạp chí Nghề Luật,

Bài viết “Một số ý kiến về vấn đề công bằng trong
phán quyết của Tòa án đối với vụ án hình sự”

số 01/2011
Thạc sỹ Trần Trí
Dũng
Tạp chí Kiểm sát số

49
50

Quy chế kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân
Kế hoạch kiểm tra của VKSND tỉnh Quảng Ngãi,

18 tháng 9/2010

TANDTC (2017)
VKSND tỉnh Quảng

51

các năm 2007 – 2017.
Phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm

Ngãi
VKSND tỉnh Quảng

52

Chỉ

thị

số

03/2008/CT-VKSTC-VPT1

Ngãi
ngày Viện trưởng VKSND

19/6/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
5

TC



tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc
53

54

thẩm hình sự.
Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23.11.2012 của

Quốc hội Nước

Quốc Hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp

CHXHCNVN

luật và tội phạm.
Báo cáo số 26/VKS-BC ngày 10/10/2011 của
VKSND tỉnh Quảng Ngãi về việc tổng kết 3 năm

Viện KSND tỉnh
Quảng Ngãi

thực hiện Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1
ngày 19/6/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc
55
56

thẩm hình sự.
02 báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm


Viện KSND tỉnh

457 bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật xét

Quảng Ngãi
Lưu tại Phòng Kiểm

xử từ năm 2015 đến năm 2017 của 14 Tòa án huyện,

tra nghiệp vụ và Thi

thành phố trực thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

hành án Tòa án tỉnh

Ngãi,

Quảng Ngãi
MỤC LỤC
Từ trang……đến trang…..

Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình
sự
1. 1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm
1. 2. Cơ sở của việc quy định kháng nghị phúc thẩm
1. 3. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các quy định về kháng nghị phúc
thẩm trong tố tụng hình sự việt nam
Kết luận chương 1
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm

và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ngãi
6


2.1. Quy định của bộ luật tố tụng hình 2015 về kháng nghị phúc thẩm
2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm
2.3. Thực tiễn kháng nghị phúc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi
2.4. Vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân
Kết luận chương 2
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm tại
tỉnh Quảng Ngãi
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả kháng nghị
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kháng nghị
3.2.1. Giải pháp về pháp luật
3.2.2. Giải pháp khác
Kết luận chương 3
Kết luận
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thì thủ tục xét xử sơ thẩm là
trung tâm; điều đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành
tố tụng phải luôn cố gắng thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh mới lựa chọn, áp dụng
đúng, đầy đủ, kịp thời các quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật nội dung, pháp
luật chuyên ngành…v..v…và các văn bản hướng dẫn để giải quyết đúng đắn vụ án.
Khi giải quyết, xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm, vai trò của Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa rất quan trọng vì phải chứng minh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
bằng việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ vụ án để ra quyết định tố tụng đúng đắn, kịp
thời; vừa có trách nhiệm thu thập hoặc yêu cầu Viện kiểm sát thu thập chứng cứ;
nếu không ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc
quyết định tạm đình chỉ vụ án, mà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì phải tiến

hành rất nhiều công việc để phục vụ hoạt động xét xử sơ thẩm; tại phiên tòa sơ
thẩm, chủ tọa phải chấp hành đúng và đầy đủ tất cả các trình tự, thủ tục tố tụng
7


trong quá trình xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản của
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, cùng Hội đồng xét xử nghị án và nhân danh
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân danh công lý ra bản án, quyết
định giải quyết vụ án.
VKSND với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Đối tượng của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp là việc tuân thủ pháp
luật của chủ thể có thẩm quyền trong họat động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm vụ
quyền hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết vụ án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật
(bao gồm của Tòa án cùng cấp và của Tòa án cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực
pháp luật ) khi cho rằng bản án hoặc quyết định đó có vi phạm pháp luật mà đủ các
căn cứ pháp lý kháng nghị; để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án, quyết định bị
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm với hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự. Thực tiễn nhiều năm qua trên toàn quốc cũng như tỉnh Quảng Ngãi
cho thấy Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm không ít những bản án, quyết định
sơ thẩm của Hội đồng xét xử, quyết định sơ thẩm của Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa với nội dung và phạm vi kháng nghị rất đa dạng. Sau khi cấp
phúc thẩm giải quyết kháng nghị, tùy theo từng vụ án cụ thể mà không ít trường
hợp khi điều tra lại dẫn đến thay đổi tội danh khởi tố, khởi tố bổ sung tội, khởi tố
thêm người phạm tội, truy cứu chuyển khung tăng nặng, bổ sung các chứng cứ
quan trọng của vụ án; sửa án cơ thẩm không cho bị cáo hưởng án treo; hủy quyết
định sơ thẩm …điều đó góp phần nâng cao chất lượng tố tụng, trong đó có hoạt
động xét xử theo các thủ tục nói riêng. Tuy nhiên, có những trường hợp kháng nghị
thiếu căn cứ hoặc không cần thiết nên không được cấp phúc thẩm chấp nhận; ngược
lại, có trường hợp đủ căn cứ nhưng không được kháng nghị hoặc có kháng nghị

nhưng không được chấp nhận.
Góp phần thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lược Cải
cách tư pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự mới trong đó có yêu cầu nâng
cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự nên tác giả làm Luận văn với đề tài
8


“Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu ở nhiều góc
độ, khía cạnh với phạm vi khác nhau và có nhiều bài viết trên nhiều tạp chí, báo về
công tác kháng nghị theo các thủ tục, trong đó có thủ tục phúc thẩm, nhưng hiện
nay chúng tôi chưa được biết có tác giả nào nghiên cứu đề tài này ở tầm luận văn
hoặc luận án.
Để góp phần phục vụ chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được hiện
thực hóa vào Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, các bộ luật, đạo luật hiện hành nhất là
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, và xuất phát từ thực tiễn tại địa phương nói riêng, trong toàn quốc nói
chung về yêu cầu tăng cường và nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm và chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, nên chúng tôi chọn đề
tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá, tổng kết hiệu quả kháng
nghị phúc thẩm thông qua kết quả xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, mà sau đó
không phát sinh thủ tục giám đốc thẩm; đồng thời có sự kết hợp với nghiên cứu các
yếu tố có liên quan đến hoạt động kháng nghị phúc thẩm theo quan điểm Triết học
Mác – xít, để có căn cứ nêu ra những ưu điểm, vướng mắc, hạn chế và nguyên
nhân. Từ đó, căn cứ quy định pháp luật thực định về kháng nghị phúc thẩm và xét

xử phúc thẩm, gắn với chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp lấy Tòa
án làm trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm, tác giả đề xuất một số giải pháp
thực tế để nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm và xét xử phúc thẩm nhằm tác
động tích cực đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cả trong xã hội cũng
như đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi nói riêng , góp phần bổ sung lý luận.
9


Từ mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra là trước hết phải tập trung nghiên cứu có
tính hệ thống các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và pháp luật liên quan về
hoạt động kháng nghị phúc thẩm, gắn với nghiên cứu những hồ sơ vụ án mà có bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị và hồ sơ kiểm sát của Viện kiểm sát về những
vụ án này; nghiên cứu việc chấp hành các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự, quy định của Ngành Kiểm sát nhân dân trong hoạt động kháng nghị phúc
thẩm, nghiên cứu hồ sơ vụ án phúc thẩm và kết quả xét xử phúc thẩm để nêu ra
nhiều vụ án phúc thẩm cụ thể, và còn đề cập đến một số bản án sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật nhưng thiếu thuyết phục, bên cạnh đó có kết hợp nghiên cứu cả hoạt động
kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm, những bản án phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều
tra lại hoặc để xét xử lại hoặc sửa án sơ thẩm do xét kháng cáo, để làm cơ sở có độ
tin cậy cao khi xem xét, đánh giá hiệu quả kháng nghị phúc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu là các quy định của
pháp luật về hoạt động kháng nghị phúc thẩm gắn với thực tiễn áp dụng tại tỉnh
Quảng Ngãi.
Hoạt động kháng nghị phúc thẩm là vấn đề rộng, đa dạng, phức tạp, đòi hỏi
phải nghiên cứu nhiều lĩnh vực, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình và
chất lượng giải quyết các loại án hình sự theo các thủ tục của các cơ quan tiến hành
tố tụng, nhất là Tòa án trong nhiều địa bàn, nghiên cứu các nhân tố xã hội tác động
đến hoạt động kháng nghị, xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, kể cả xét xử phúc

thẩm xét kháng cáo và xét xử giám đốc thẩm, nhất là các trường hợp Tòa án kháng
nghị, gắn với nghiên cứu hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật hình sự và các
ngành luật khác có liên quan theo các nguyên lý, các quy luật, các phạm trù trong
đó có nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, kết hợp với vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và việc thực hiện quan
điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp, để từ đó có cơ sở tin cậy trong
việc xem xét, phân tích, đánh giá hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm và đưa
ra các giải pháp đồng bộ .
10


Với phạm vi luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình
sự, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng đối với hoạt động kháng nghị phúc thẩm thông qua hoạt động xét xử theo thủ
tục phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong mười năm qua (2007 – 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về Chủ nghĩa
duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, về Cách mạng vô sản, vấn đề dân
tộc, giai cấp, về nhà nước, pháp luật, quyền con người, nguyên lý quá trình nhận
thức, quan điểm lịch sử - cụ thể…v…v… và quan điểm của Đảng ta cùng tư tưởng
Hồ Chí Minh về vận dụng lý luận Mác xít vào quá trình thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong các lĩnh vực của đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử để thực
hiện mục tiêu Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội như về nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bản chất nhà nước, pháp luật và bản chất
pháp luật, đấu tranh giai cấp, các nguyên tắc và thủ tục tố tụng, quan hệ phối hợp
chế ước trong tố tụng, cải cách tư pháp của Đảng…v…v…
Chúng tôi ứng dụng phương pháp luận vào phương pháp nghiên cứu bằng
việc nhận thức và áp dụng có tính hệ thống các quy định của pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự, luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn, quy định của ngành
Tòa án và Viện kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản án, quyết định sơ thẩm

giải quyết vụ án, hồ sơ kiểm sát án sơ thẩm; quy trình kháng nghị phúc thẩm và
hình thức, nội dung của kháng nghị phúc thẩm; hồ sơ vụ án và bản án phúc thẩm,
hồ sơ kiểm sát án phúc thẩm, các hoạt động của Viện kiểm sát từ khi ban hành
kháng nghị đến sau khi xét xử phúc thẩm và quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên
tòa phúc thẩm xét kháng nghị; việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị, kết quả xét
xử phúc thẩm hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị hoặc không chấp nhận kháng
nghị; báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm xét
kháng nghị; trực tiếp tham dự nhiều phiên tòa sơ thẩm của 2 cấp, phiên tòa xét xử
phúc thẩm của tòa án tỉnh; nghiên cứu các kết luận kiểm tra thường kỳ, kiểm tra đột
xuất hoạt động giải quyết các loại án trong đó có án hình sự và các báo cáo tổng kết
11


công tác năm, các báo cáo chuyên đề của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về tổng
kết kinh nghiệm xét xử, các báo cáo tổng kết năm, các kết luận kiểm tra, báo cáo
tổng kết hoạt động kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; tham
khảo ý kiến chuyên gia, người tiến hành tố tụng…v…v…, từ đó trừu tượng hóa
khoa học theo nguyên lý của quá trình nhận thức để giải quyết yêu cầu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và các yêu cầu, giải pháp trong luận văn góp phần cung
cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, hoạt
động xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, hoạt động kháng nghị và xét xử phúc thẩm nhằm
góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình tố tụng hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi
để bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và kịp
thời, đảm bảo các bản án, quyết định có đủ căn cứ kháng nghị phải được kháng
nghị; không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, không làm sai, góp
phần bảo đảm pháp chế thống nhất để phục vụ tích cực các mục tiêu phát triển của
địa phương.
Luận văn còn có thể cung cấp thông tin cho người quan tâm để ứng dụng
trong thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,

trong điều tra, truy tố, xét xử theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm và hoạt động kháng nghị theo các thủ tục, góp phần nâng cao hiệu quả
trong đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trên
phạm vi toàn quốc nói chung.
Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh của các cơ
quan tiến hành tố tụng, trong đó có hoạt động kháng nghị phúc thẩm và xét xử phúc
thẩm, góp phần tích lũy tri thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng, phục vụ hoạt
động quản lý hành chính – tư pháp, ngăn chặn vi phạm trong hoạt động tư pháp và
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Cơ cấu luận văn

12


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm ba chương; mỗi chương đều được kết luận và có kết luận chung; kết cấu như
sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng
hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc
thẩm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Nhu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc
thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1. 1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm
Thuật ngữ “Kháng nghị”. Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Phan Canh

(Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1997, tr. 675), thì “Kháng nghị” là “ bày tỏ ý kiến
phản kháng một việc gì”.

Theo nghị, thì

“Kháng nghị” được hiểu như sau: “Bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị”
(Tác giả Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển Tiếng Việt). Chúng tôi đồng tình cao đối với
quan điểm của tác giả Hồ Ngọc Đức khi vận dụng vào đề tài nghiên cứu cũng như
quy định về các thủ tục xét xử trong tố tụng hình sự, trong đó có thủ tục phúc thẩm
theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam từ trước đến nay.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của pháp luật chuyên ngành, pháp
luật tố tụng của Nhà nước ta trong lịch sử lập pháp, chúng tôi có thể đưa ra quan
điểm sau đây về cụm từ này: “Kháng nghị” - là sự phản ứng, phản kháng của chủ
thể nhân danh cơ quan có thẩm quyền, được thể hiện bằng văn bản với đầy đủ các
yêu cầu về trình tự, thủ tục, căn cứ, phạm vi kháng nghị, hướng kháng nghị, thời
hạn kháng nghị theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể đối với
sản phẩm áp dụng pháp luật (bao hàm cả sự tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
13


thi hành pháp luật - gọi chung là áp dụng pháp luật) hoặc đối với hành vi pháp lý
(thuộc dạng hành động hoặc không hành động) của cơ quan, tập thể, người có thẩm
quyền đã ban hành sản phẩm hoặc có hành vi pháp lý đó, khi chủ thể ra kháng nghị
nêu ra các căn cứ pháp lý cụ thể để cho rằng có vi phạm pháp luật, và yêu cầu chủ
thể có sản phẩm hoặc hành vi pháp lý khắc phục hoặc yêu cầu chủ thể có thẩm
quyền xét kháng nghị khắc phục hoặc có biện pháp pháp lý yêu cầu cơ quan, cá
nhân khắc phục hậu quả sai lầm, vi phạm đó theo quy định của pháp luật.
Chúng tôi cũng chưa thấy có tài liệu chính thống hoặc sự giải thích chính
thức của cơ quan có thẩm quyền về thuật ngữ pháp lý“Phúc thẩm” trong đạo luật
gốc cũng như luật chuyên ngành và các luật tố tụng nói chung, luật tố tụng hình sự

nói riêng. Qua tìm hiểu các nguồn thông tin thấy, có một số ý kiến về vấn đề này
như sau:“Phúc thẩm, là một thủ tục tố tụng được áp dụng đối với bản án, quyết
định giải quyết vụ án của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị phát hiện có
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, thủ tục
này là hình thức đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng”; “Phúc thẩm, là
một thủ tục tố tụng nhằm xét lại bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án”; “Phúc thẩm, được hiểu là Tòa án đã áp dụng sai luật
nội dung vào giải quyết vụ án. Tòa án đã sử dụng những căn cứ dựa vào đó để kết
luận vụ việc không đúng với bản chất sự việc đó”; “Phúc thẩm, là một thủ tục xét
xử”. Các quan điểm trên chúng tôi thấy đều có lý.
Tuy nhiên, vì cho rằng các mệnh đề trên chưa thể hiện được nội hàm nên tác
giả luận văn đưa ra quan điểm: Phúc thẩm, là một thủ tục tố tụng, không phải là
một cấp xét xử, được pháp luật tố tụng quy định và áp dụng để khắc phục một phần
hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm hoặc quyết định khác theo quy định của
pháp luật của Tòa án khi giải quyết vụ án, vụ việc hình sự, dân sự (theo nghĩa
rộng), hành chính nhưng có vi phạm, sai lầm trong áp dụng pháp luật (pháp luật
nội dung, pháp luật chuyên ngành, pháp luật tố tụng, pháp luật về án phí, lệ phí Tòa
án…v…v…) trên cơ sở có kháng nghị (nói riêng) và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
14


Thủ tục này là hình thức đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Xã hội chủ
nghĩa, trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền kháng nghị, chế độ xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm được bảo đảm và tôn trọng chân lý trong tố tụng.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các luật tố tụng hiện hành tiếp tục
có quy định về Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối
với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án giải quyết các loại vụ án, vụ việc
chưa có hiệu lực pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng,

Kháng nghị phúc thẩm nói chung - là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật hiện hành, được thể hiện bằng một văn
bản pháp lý trong đó có nêu rõ ràng và cụ thể quan điểm của Viện kiểm sát khi cho
rằng toàn bộ hoặc những phần của bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án
của Tòa án cùng cấp hoặc Tòa án cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực pháp luật có
vi phạm trong hoạt động áp dụng pháp luật; đồng thời nêu ra căn cứ pháp lý để yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết kháng nghị nhằm khắc phục vi phạm đó của
Tòa án cấp sơ thẩm đối với bản án, quyết định bị kháng nghị. Kháng nghị phúc
thẩm phải đảm bảo các yêu cầu của pháp luật tố tụng về cả hình thức và nội dung
thì mới có giá trị pháp lý đầy đủ.
Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự cũng chỉ là một dạng cụ thể
của kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng nói chung, đó là việc người có thẩm quyền
của VKS áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự ra qyết định kháng
nghị đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ
án của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật, để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét lại
toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định sơ thẩm đó bị kháng nghị.
Chúng tôi đưa ra khái niệm sau đây: Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam, là một văn bản tố tụng do người có thẩm quyền của Viện kiểm
sát ban hành can thiệp trực tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết
định sơ thẩm giải quyết vụ án hoặc các quyết định khác của Tòa án chưa có hiệu
lực pháp luật khi cho rằng có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng đã gây ra hoặc sẽ
15


gây ra hậu quả pháp lý, làm cho những phần của bản án, quyết định bị can thiệp
đó không được đưa ra thi hành. Kháng nghị phúc thẩm làm phát sinh một quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp
luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định bị kháng nghị thông qua thủ tục
xét xử phúc thẩm, ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm và thực hiện phán quyết
của Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

1.1.2. Nội dung kháng nghị phúc thẩm
Nội dung kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm giải
quyết vụ án hình sự (gọi chung là bản án, quyết định sơ thẩm) chưa có hiệu lực
pháp luật, có thể nói, đó là phạm vi kháng nghị đối với toàn bộ hoặc một phần
hoặc một số phần của bản án, quyết định sơ thẩm và hướng kháng nghị là yêu cầu
của Viện kiểm sát đối với Tòa án cấp phúc thẩm về giải quyết phạm vi kháng nghị,
để cấp phúc thẩm áp dụng các quy định của pháp luật trực tiếp khắc phục vi phạm
của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm yêu cầu cấp có thẩm quyền khắc phục
vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị được chấp nhận.
Phạm vi kháng nghị và hướng kháng nghị của Viện kiểm sát đối với từng
trường hợp cụ thể sẽ được thể hiện theo phương pháp quy nạp thông qua phần
“Nhận thấy”, “Xét thấy” và được thể hiện cụ thể trong phần “Quyết định” của
kháng nghị.
Ngoài ra, xét về phạm trù “nội dung và hình thức” thì nội dung kháng nghị
còn được thể hiện cả về chủ thể kháng nghị, thời hạn kháng nghị, căn cứ kháng
nghị, việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị, hậu quả pháp lý của kháng nghị theo
các quy định của pháp luật chuyên ngành, luật tố tụng và các văn bản hướng dẫn thi
hành của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể nhất là pháp luật tố tụng hình sự .
Phạm vi kháng nghị phúc thẩm hình sự có thể là việc áp dụng pháp luật
hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan, áp dụng
pháp luật dân sự hay luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn có liên quan, áp
dụng pháp luật về án phí hình sự, án phí dân sự hoặc kể cả không tuyên quyền
kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể theo pháp luật tố tụng đối với từng vụ án cụ
16


thể mà bản án, quyết định sơ thẩm đã thể hiện…Nội dung kháng nghị đòi hỏi phải
chỉ ra các căn cứ pháp lý của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
có vi phạm đến mức nghiêm trọng và nêu ra hướng để cấp phúc thẩm cần phải sửa
chữa, khắc phục vi phạm và hậu quả của nó trên cơ sở quy định của pháp luật về

bản án, quyết định phúc thẩm và thẩm quyển của hội đồng xét xử phúc thẩm, và
thông qua đây phòng ngừa vi phạm sai lầm nảy sinh. Có như vậy thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm khi giải quyết kháng nghị mới có cơ sở pháp lý vững chắc để chấp
nhận kháng nghị, nếu không kháng nghị thường sẽ không được chấp nhận vì không
có căn cứ pháp lý chứng minh vi phạm và căn cứ pháp lý khắc phục vi phạm.
1.1.3. Đặc điểm kháng nghị phúc thẩm
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một trong những quyền năng pháp lý quan
trọng, thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng là quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Vì là một sản phẩm trong hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có nhiệm
vụ, quyền hạn ban hành kháng nghị và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kháng
nghị đó, kháng nghị sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật nếu không rút kháng nghị
(do hết thời hạn kháng nghị hoặc pháp luật thay đổi hoặc sự kiện pháp lý làm chấm
dứt hiệu lực pháp luật của đối tượng bị kháng nghị hoặc hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc kháng nghị không có hoặc không đảm bảo căn cứ pháp lý…
v…v…), nên hoạt động kháng nghị phúc thẩm có các đặc điểm cơ bản đó là:
- Mang tính nghĩa vụ, tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ
giao cho người có nhiệm vụ quyền hạn trong ngành Kiểm sát. Kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm là công cụ đặc biệt và là một trong những biểu hiện rõ nhất về quyền
năng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Bởi thế, khi phát hiện bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm nghiêm trọng gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của một hay nhiều chủ thể trong quan hệ tố
tụng hình sự mà có đủ các căn cứ kháng nghị, thì đòi hỏi người có thẩm quyền
17


kháng nghị phúc thẩm phải có nghĩa vụ ra kháng nghị để yêu cầu cấp phúc thẩm
khắc phục, khôi phục lại trật tự pháp luật.

Vì thế, việc kháng nghị không chỉ là nhiệm vụ, quyền hạn mà cần phải được
nhận thức đúng rằng chính đây chính là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể phải ra kháng
nghị theo yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước. Do vậy, việc ra kháng nghị thể hiện tính ý
chí, tính quyền lực của nhà nước; không phụ thuộc vào mong muốn hay không
mong muốn của chủ thể có nhiệm vụ quyền hạn ra kháng nghị.
- Được tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ theo pháp luật
Kháng nghị phúc thẩm là sản phẩm của hoạt động áp dụng pháp luật của
chủ thể có nghĩa vụ, có tính định hướng, can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử ra
bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự của Tòa án nhân danh Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện trình độ văn minh pháp lý, cho nên
pháp luật có quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết kháng
nghị; do đó, việc ra kháng nghị phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo
đúng các quy định của pháp luật thì mới có giá trị pháp lý; vì chủ thể có thẩm
quyền giải quyết kháng nghị sẽ phải xem xét tính hợp pháp của kháng nghị cả về
thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
- Mang tính khách quan
Hoạt động ban hành kháng nghị phúc thẩm hình sự phải mang tính khách
quan khi xem xét đánh giá đối với đối tượng bị kháng nghị và phạm vi, hướng
kháng nghị theo yêu cầu của pháp luật; không bị phụ thuộc vào chủ quan mong
muốn hay không của người có thẩm quyền ra kháng nghị và của những người tham
mưu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kháng nghị;
tránh việc ra kháng nghị không có căn cứ, không hợp pháp hoặc không cần thiết khi
xét ở góc độ pháp lý vì bất cứ lý do gì.
- Mang tính cá biệt trong áp dụng pháp luật
Nghĩa vụ pháp lý của kháng nghị phúc thẩm là chứng minh một phần hoặc
toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật mà có đủ
các căn cứ kháng nghị để khắc phục vi phạm theo quy định của pháp luật. Điều này
18



nói lên rằng một kháng nghị phúc thẩm hình sự không được kháng nghị nhiều bản
án, quyết định sơ thẩm và tránh nhầm lẫn với các kháng nghị khác của VKSND
không phải theo pháp luật tố tụng đối với một hoặc nhiều hành vi hay sản phẩm có
vi phạm bị kháng nghị riêng lẻ hoặc đồng thời để yêu cầu khắc phục hoặc phòng
ngừa vi phạm.
Sở dĩ kháng nghị phúc thẩm hình sự phải chứng minh vi phạm của bản án,
quyết định sơ thẩm là vì: Cũng theo từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh, tr.
340 thì “Chứng minh: được diễn tả là soi tỏ mà chứng cho”. Chứng minh, là hoạt
động của tư duy nhằm vạch ra căn cứ logic, lý lẽ logic cho tính chân thực của luận
điểm cần được bảo vệ. Chứng minh là một hình thức suy luận để khẳng định tính
chân lý của một luận điểm nào đó, bằng cách dựa vào những luận điểm mà tính
chân lý đã được thực tiễn xác nhận. Cấu trúc chứng minh gồm ba phần liên quan
chặt chẽ với nhau: luận đề, luận cứ và luận chứng. Luận đề, là phán đoán mà tính
chân thực của nó phải chứng minh. Luận đề là thành phần chủ yếu của chứng minh
và trả lời cho câu hỏi: Chứng minh hay bác bỏ cái gì? Luận đề có thể là một luận
điểm khoa học, có thể là một phán đoán về thuộc tính, về quan hệ, về nguyên nhân
của sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan…Luận cứ, là những phán đoán được
dùng làm căn cứ để chứng minh cho luận đề. Luận cứ chính là tiền đề logic của
chứng minh và trả lời cho câu hỏi: Dùng cái gì để chứng minh? Luận cứ có thể là
những định lý, tư liệu đã được thực tiễn xác nhận, những tiền đề, những luận điểm
khoa học đã được chứng minh, sự thật hiển nhiên. Luận chứng, là cách thức tổ chức
sắp xếp các luận cứ theo những quy tắc và quy luật logic nhằm xác lập mối liên hệ
tất yếu giữa luận cứ và luận đề. Luận chứng là cách thức chứng minh nhằm vạch ra
tính đúng đắn của luận đề dựa vào những luận cứ đúng đắn, chân thực. Luận chứng
trả lời cho câu hỏi: Chứng minh như thế nào?
Phép chứng minh phải tuân theo các quy tắc của nó, đó là: Các quy tắc đối
với luận đề: Thứ nhất, luận đề phải chân thực. Bởi chứng minh là nhằm vạch ra tính
đúng đắn, chân thực của luận đề chứ không phải là làm cho luận đề trở nên đúng
đắn, chân thực. Vì thế, nếu luận đề không chân thực thì không thể chứng minh
19



được. Luận đề đó mà người ta chống đối thì là ngộ nhận (ngộ biện) – đúng mà
tưởng sai và ngược lại do nhận thức kém, hoặc là ngụy biện– đúng mà cố ý lập luận
sai hay ngược lại. Thứ hai, luận đề phải rõ ràng, chính xác. Sẽ không chứng minh
được nếu luận đề không được xác định rõ ràng. Thứ ba, luận đề phải được giữ vững
trong suốt quá trình chứng minh, không được đánh tráo luận đề. Giữ nguyên luận
đề nhằm thực hiện nhiệm vụ của chứng minh. Nếu luận đề đã bị thay đổi thì nhiệm
vụ chứng minh không hoàn thành, tức là luận đề được xác định ban đầu thì không
chứng minh một luận đề khác. Các quy tắc đối với luận cứ: Thứ nhất, luận cứ phải
là những phán đoán chân thực; nếu mắc lỗi này gọi là lỗi logic căn bản. Tính chân
thực của luận cứ là yếu tố bảo đảm cho tính chân thực của luận đề. Vì vậy, không
thể khẳng định tính chân thực của luận đề dựa trên cơ sở những luận cứ giả dối. Lý
luận dựa trên sức mạnh (“lý luận” bằng gậy) lấy sức mạnh, bạo lực thay cho luận
cứ đúng và đủ. Lý luận dựa trên uy quyền là lấy uy quyền chính trị, tôn giáo, pháp
luật…thay cho luận cứ đúng và đủ. Lý luận dựa trên tư cách cá nhân là lấy tư cách
cá nhân thay cho luận cứ đúng và đủ. Lý luận dựa trên số đông, dư luận xã hội là
lấy số đông, dư luận xã hội thay cho luận cứ đúng và đủ. Lý luận dựa trên tình cảm
là lấy logic của trái tim thay cho logic của lý trí, để lấy tình cảm thay cho luận cứ
đúng và đủ để làm mềm lẽ phải làm nhũn chân lý. Thứ hai, luận cứ phải là những
phán đoán có tính chân thực được chứng minh độc lập với luận đề. Luận đề chỉ
được chứng minh khi lấy tính chân thực của luận cứ để làm cơ sở. Nếu tính chân
thực của luận cứ lại được rút ra từ luận đề thì như thế là chẳng chứng minh được gì
cả. Lỗi logic này gọi là lỗi “chứng minh vòng quanh”. Thứ ba, luận cứ phải đủ để
dẫn đến luận đề - luận cứ phải là lý do đầy đủ của luận đề. Giữa các luận cứ phải có
mối liên hệ trực tiếp, tất yếu đối với luận đề. Các luận cứ không chỉ chân thực mà
còn phải không thiếu không thừa, bảo đảm cho luận đề được rút ra một cách tất yếu
khách quan nhờ vào các cặp luận logic. Luận cứ không đúng hay không đủ không
phải là luận cứ vì nó không làm chỗ dựa cho điều gì cả. Các quy tắc đối với luận
chứng: Thứ nhất, là một chuỗi các suy luận liên tiếp nhau nên luận chứng phải tuân

theo các quy tắc, quy luật logic và không được lẩn quẩn. Vi phạm các quy tắc, quy
20


luật logic thì kết luận không được rút ra một cách tất yếu từ tiền đề, tức là không
chứng minh được luận đề. Thứ hai, luận chứng phải bảo đảm tính hệ thống. Các
luận cứ phải được sắp xếp, tổ chức chặt chẽ, bảo đảm cho phép chứng minh có sức
thuyết phục cao. Thứ ba, luận chứng phải bảo đảm tính nhất quán – phi mâu thuẫn.
Nếu trong phép chứng minh có chứa những luận cứ mâu thuẫn với nhau trực tiếp
hoặc gián tiếp, thì phép chứng minh ấy chứa mâu thuẫn logic, không thuyết phục.
Chứng minh, bác bỏ giả thuyết khoa học là nội dung bản chất của kiểm
chứng giả thuyết. Chứng minh, là một hình thức suy luận, trong đó người nghiên
cứu dựa vào những phán đoán mà tính chân xác đã được công nhận (luận cứ) để
khẳng định tính chân xác của một phán đoán đang cần phải chứng minh (luận
điểm). Bác bỏ, là một hình thức chứng minh nhằm khẳng định tính phi chân xác
của một phán đoán. Có hai phương pháp chứng minh giả thuyết: Chứng minh trực
tiếp: Tính chân xác của giả thuyết được rút ra trực tiếp từ tính chân xác của tất cả
các luận cứ (luận điểm, luận cứ và phương pháp đúng (phép hội logic)). Đây là loại
thường gặp nhất trong nghiên cứu khoa học. Chứng minh gián tiếp: Là phép chứng
minh trong đó tính chân xác của luận điểm được chứng minh bằng tính phi chân
xác của các phản luận điểm; gồm: Chứng minh phản chứng, là phép chứng minh
trong đó tính chân xác của giả thuyết được chứng minh bằng tính phi chân xác của
các phản luận điểm, tức là một giả thuyết đặt ngược lại với giả thuyết ban đầu.
Chứng minh phân liệt, là phép chứng minh gián tiếp dựa trên cơ sở loại bỏ một số
khả năng này để khẳng định những khả năng khác. Đây là cách chứng minh có
nhiều sức thuyết phục. Theo từ điển tiếng Việt nêu trên, tr. 519 thì giả thuyết là
thuyết mượn để định cho một việc gì đúng hoặc không và do đó người ta tìm đến
kết quả. Giả thuyết là một ý niệm người ta suy đoán về sự vật. Dựa vào những kết
luận khoa học đã được xác nhận để chứng minh sự sai lầm của một giả thuyết. Là
một thao tác logic hoàn toàn ngược với chứng minh, nó cũng gồm bác bỏ trực tiếp

và bác bỏ gián tiếp. Trong bác bỏ trực tiếp chỉ cần bác bỏ một trong ba yếu tố cấu
thành: Luận điểm sai, luận cứ sai hoặc phương pháp sai. Như vậy, chủ thể ra kháng
nghị phải có nghĩa vụ pháp lý chứng minh về các căn cứ pháp luật có hiệu lực cụ
21


thể của vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm dẫn đến bị kháng nghị, và người ra
kháng nghị còn phải có nghĩa vụ chứng minh căn cứ pháp lý còn hiệu lực để khắc
phục hậu quả.
- Chỉ ra vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị
Người ra kháng nghị phúc thẩm phải có nghĩa vụ chỉ ra cụ thể và chính xác
trong kháng nghị về các căn cứ pháp lý đối với các vi phạm, sai lầm của đối tượng
bị kháng nghị là phần nào hoặc toàn bộ bản án, quyết định xử lý vụ án cụ thể đó,
dẫn đến bị kháng nghị, và chỉ ra cụ thể căn cứ pháp lý để cấp phúc thẩm khắc phục.
Đây là vấn đề quan trọng nhất của kháng nghị
Hoạt động áp dụng pháp luật khi ra bản án, quyết định sơ thẩm có các giai
đoạn và các đặc điểm của nó. Tuy nhiên trong thực tế, người ra kháng nghị khi cho
rằng bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, có thể nói đây mới chỉ là giả thiết từ
phía họ mà thôi. Theo quan điểm toán học thì chỉ có sự thật, chỉ có bản chất mới
sinh ra giả thiết, chứ không phải ngược lại. Việc xét kháng nghị phúc thẩm do hội
đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Cho nên, không phải mọi
kháng nghị đều đúng nên đều được chấp nhận. Việc chấp nhận kháng nghị hay
không chấp nhận kháng nghị, chấp nhận một phần hay toàn bộ kháng nghị đều phải
tuân theo quy định có hiệu lực của pháp luật và đều phải được giải quyết hậu quả
pháp lý.
- Mang tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể
Tính linh hoạt và sáng tạo là một thuộc tính của hoạt động áp dụng pháp luật
nói riêng. Đây là nhân tố chủ quan của người ra kháng nghị, có nền tảng từ tinh
thần trách nhiệm đối với nghề nghiệp, với công việc được giao, từ trình độ văn hóa,
trình độ pháp luật, từ việc đề cao ý thức pháp luật, niềm tin nội tâm, các kiến thức

về khoa học, về xã hội, gắn với nghiên cứu kỹ hồ sơ tài liệu, bản án, quyết định sơ
thẩm và khả năng tư duy khái quát hóa, trừu tượng hóa khoa học để ra kháng nghị
được đúng đắn vì hoạt động áp dụng pháp luật không phải là khuôn mẫu cứng
nhắc. Tính linh hoạt và sáng tạo hoàn toàn trái ngược với sự thờ ơ thiếu trách
nhiệm, chủ quan duy ý chí hay tùy tiện hoặc vì động cơ cá nhân nào khác, mà đó là
22


thể hiện cao độ của sự tinh thông nghề nghiệp, sự kết hợp giữa lý luận với năng lực
thực tiễn và thể hiện cao độ trách nhiệm và bản lĩnh của người ra kháng nghị.
- Làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự xét kháng nghị
Sau khi ban hành kháng nghị, nếu người ra kháng nghị hoặc người có thẩm
quyền cấp trên không rút toàn bộ kháng nghị (vì kháng nghị thiếu căn cứ, không
đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng bị kháng nghị hoặc hết thời hạn kháng
nghị,…), thì tất yếu sẽ phát sinh một quan hệ pháp luật tố tụng là cơ quan, tập thể,
cá nhân được phân công thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm để xét kháng nghị phải
thực hiện tất cả và đầy đủ các hoạt động, quyết định, hành vi tố tụng theo các quy
định của pháp luật để giải quyết kháng nghị, giải quyết bổ sung kháng nghị hay rút
một phần kháng nghị để chấp nhận kháng nghị (toàn bộ hoặc một phần kháng nghị)
và áp dụng pháp luật giải quyết hậu quả pháp lý; hoặc không chấp nhận toàn bộ
kháng nghị (vì thiếu căn cứ hoặc kháng nghị vi phạm thẩm quyền về hình thức
hoặc thẩm quyền về nội dung hoặc hết thời hạn kháng nghị); hoặc xét lại vụ án kể
cả ngoài phạm vi kháng nghị theo đuy định của pháp luật (theo quy định của Điều
241 BLTTHS 2003 hoặc Điều 345 BLTTHS 2015 về phạm vi xét xử phúc thẩm);
xét việc tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên rút toàn bộ kháng nghị.
- Phụ thuộc vào kết quả giải quyết của tập thể xét kháng nghị
Hoạt động áp dụng pháp luật ra văn bản cá biệt khi giải quyết từng vụ án có
các giai đoạn phổ biến là: phân tích đánh giá bản chất vụ việc, lựa chọn quy phạm
pháp luật để áp dụng và kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn bản áp dụng pháp luật,
tổ chức thi hành văn bản áp dụng pháp luật đó. Đặc điểm của hoạt động áp dụng

pháp luật là mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, mang tính cá biệt, tính bắt
buộc thực hiện và mang tính sáng tạo, linh hoạt của chủ thể.
Người ra kháng nghị khi cho rằng có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng
pháp luật, nhưng việc giải quyết kháng nghị lại phụ thuộc vào Hội đồng xét xử
phúc thẩm hoặc Hội đồng phúc thẩm. Kết luận về sự thật khách quan mới sinh ra
giả thiết, chứ giả thiết không thể sinh ra kết luận và hoạt động tố tụng theo các thủ
tục cũng nhằm hướng đến các cấp độ của chân lý, chứ không phải hướng đến chân
23


lý tuyệt đối. Cho nên không phải mọi kháng nghị đều đúng hoặc cần thiết nên đều
phải được tập thể giải quyết kháng nghị chấp nhận. Tuy nhiên, tập thể xét kháng
nghị cũng phải thượng tôn pháp luật, không thể chi phối bởi quan hệ nội bộ ngành
hoặc quan hệ chính trị, quan hệ xã hội khác.
1.1.4. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm
Để làm sáng tỏ ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm hình sự, chúng tôi xin xét
đến các thuộc tính sau đây:
- Về ý nghĩa chính trị.Việc quy định kháng nghị phúc thẩm trong luật
chuyên ngành và luật tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa tập quyền dân chủ nhưng có sự phân công phân
nhiệm và đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, nhằm
góp phần quan trọng vào thực thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính thông
nhất của pháp luật, tính pháp chế Xã hội chủ nghĩa, không ngừng đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Ý nghĩa pháp lý. Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm
là căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, đồng thời
cũng xác định tính chất và phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm và xác định
hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm hình sự không bị kháng nghị, không bị
kháng cáo.
Luật tố tụng hình sự quy định về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tương

đối cụ thể và phù hợp với mục đích của xét xử phúc thẩm là kiểm tra lại tính có căn
cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, đồng thời xử lại vụ án về mặt nội dung. Qua đó,
một mặt bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân,
mặt khác thông qua việc sửa chữa những sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn, giải thích để áp dụng thống nhất pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết
các vụ án hình sự theo quy định pháp luật còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng
khác là cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản
của luật tố tụng, chẳng hạn như trong BLTTHS 2003 thì là cơ sở để hình thành
24


nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử” hoặc theo BLTTHS 2015 thì để thực
hiện “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” được quy định tại Điều
27, để vụ án hình sự có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm; nhằm giải
quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Kết quả xét xử phúc thẩm nếu không chấp
nhận kháng nghị mà không có căn cứ pháp luật, thì VKSND ra kháng nghị hoặc
VKSND có thẩm quyền còn có nhiệm vụ quyền hạn báo cáo lên VKSND có thẩm
quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm. Với các ý
nghĩa nêu trên, đã chống lại ý kiến cho rằng kháng nghị phúc thẩm cũng chỉ như là
kháng cáo mà thôi; đây là một sai lầm trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Vì thế,
thủ tục phúc thẩm cũng còn tự nó nói nên rằng, không phải bản án, quyết định phúc
thẩm nào khi xét lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng nghị cũng không phải
là đối tượng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm chống lại tư tưởng chủ quan ỷ lại khi cho rằng việc
xét xử ra bản án, quyết định sơ thẩm xử lý vụ án có hiệu lực pháp luật đã là trung
tâm của vấn đề hoặc cho rằng xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm
thì cấp phúc thẩm chỉ xét kháng cáo để ra bản án, quyết định phúc thẩm mà không
cần chú ý xét đến các phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng nghị (dù

có thể vi phạm nghiêm trọng) đã là chân lý tuyệt đối, đã có hiệu lực pháp luật,
trong khi BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 có quy định về tính chất của xét xử
phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm.
- Ý nghĩa xã hội. Kháng nghị phúc thẩm hình sự góp phần đảm bảo công
bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm
đảm bảo uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp là Tòa án nói riêng. Việc đảm bảo pháp luật được thực thi, giải
thích và áp dụng thống nhất là điều kiện quan trọng để hành vi của công dân được
điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ văn

25


×