Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Những luận điểm cơ bản của học thuyết kinh tế trọng thương ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đè này với việc mở rộng quan hệ kinh tế, quốc tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.1 KB, 23 trang )

PHẦN I- PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử các học thuyết kinh tế là một bộ môn khoa học cung cấp sự hiểu
biết hơn về tiến trình sáng tạo các quan điểm kinh tế từ khi khởi đầu chính thức
cách đây hơn 200 năm. Trong hệ thống các tư tưởng kinh tế trong lịch sử, tư
tưởng trọng thương đã được coi là hệ thống và trở thành học thuyết kinh tế đầu
tiên trong lịch sử. Hệ thống quan điểm của học thuyết kinh tế trọng thương là
tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trước hết ở Anh vào khoảng
những năm 1450, phát triển mạnh mẽ vào thế kỉ XVI và XVII, và chiếm một vị
trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của các nước châu Âu. Nó đã phản
ánh những tiến bộ mới trong đời sống kinh tế châu Âu lúc bấy giờ. Đây cũng là
giai đoạn đầu của thời kì tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, là thời kì tạo ra
những tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học
thuyết kinh tế trọng thương đã thống trị trong thời kì tích luỹ ngun thuỷ của
tư bản nổi bật với tư tưởng tích luỹ tiền, phát triển ngoại thương và các chính
sách của nhà nước đối với nền kinh tế đã trực tiếp đẩy nhanh quá trình hình
thành chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, mặc dù chưa biết đến quy luật kinh tế và còn
hạn chế về tính lí luận, nhưng hệ thống quan điểm kinh tế của trường phái trọng
thương đã tạo ra những tiền đề lí luận kinh tế xã hội cho các học thuyết kinh tế
sau này. Những quan điểm đó của chủ nghĩa trọng thương cho tới nay vẫn được
vận dụng. Do vậy, việc nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm cơ bản của học
thuyết kinh tế trọng thương có ý nghĩa quan trọng. Nó khơng những giúp chúng
ta hiểu thêm về cách thức và quá trình hình thành của chủ nghĩa tư bản mà cịn
giúp chúng ta có thể nghiên cứu sâu hơn về các học thuyết kinh tế sau này cũng
như các mơn kinh tế khác trong đó quan trọng nhất là mơn kinh tế chính trị.
Đảng ta kiên định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Một mặt chúng
ta cần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin với tư duy đổi mới, sáng tạo, song bên
cạnh đó chúng ta cũng cần nghiên cứu các quan điểm, các luồng tư tưởng khác
để từ đó phát triển và làm phong phú thêm cho chủ nghĩa Mác, trong đó cần
quan tâm tới các tư tưởng kinh tế. Các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương
cịn tạo ra cơ sở lí luận cho Đảng ta lãnh đạo hội nhập kinh tế quốc tế của nước


ta. Trước xu thế Tồn cầu hố, việc hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu với
mỗi một quốc gia. Phát triển thương mại mà đặc biệt là ngoại thương lại càng
có tầm đặc biệt quan trọng.
Do vậy, em xin chọn đề tài “ Những luận điểm cơ bản của học thuyết
kinh tế trọng thương. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đè này với việc mở
rộng quan hệ kinh tế, quốc tế ở nước ta hiện nay”. Do kiến thức của bản
thân còn nhiều hạn chế nên bài viết của em khơng tránh khỏi sai sót. Rất mong
q thầy, q cơ và các bạn đóng góp thêm nhằm giúp bài viết hoàn chỉnh hơn.


PHẦN II - NỘI DUNG
I- Học thuyết trọng thương – hoàn cảnh ra đời, đặc điểm và các giai
đoạn phát triển của nó
Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời trong thời kỳ phương thức sản
xuất phong kiến tan rã. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phong kiến, thiết
lập chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đã dần dần tạo ra kinh tế chính trị của
mình. Kinh tế chính trị tư sản đã lật đổ những quan điểm kinh tế của các nhà tư
tưởng phong kiến và đã có tác dụng tiến bộ trong thời gian nhất định.
Chủ nghĩa tư bản ra đời vào thế kỷ XVI sớm nhất ở Tây Ban Nha, Anh.
Ngay từ thời đú đó cú nhứng ý kiến đầu tiên muốn xây dựng một hệ thống các
quan niệm để giải thích nhiều hiện tượng của chủ nghĩa tư bản. Chẳng hạn, vào
thế kỷ XVI và XVII đã nảy sinh và phát triển một khuynh hướng và chính sách
kinh tế mà người ta gọi là chủ nghĩa trọng thương hay còn gọi là trường phái
coi trọng thương mại.
1 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết trọng thương:
Chủ nghĩa trọng thương – tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản –
ra đời trước hết ở Anh, sau đó ở Pháp, Italia và các nước khác, vào khoảng
những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ XVII và sau đó bị suy đồi.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong bối cảnh: Phương thức sản xuất phong
kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời, đang chuyển từ

kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.
- Về mặt lịch sử
Đây là thời kỳ tích lũy nguyên thủy của tư bản ngày càng tăng. C.Mác đã
chỉ rõ: chủ nghĩa tư bản ra đời cần có hai điều kiện, một là, phải tích lũy được
một số tiền lớn vào tay giai cấp tư sản để tổ chức sản xuất, kinh doanh theo
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; hai là, phải có một tầng lớp người lao
động bị mất hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động, trở thành lao động
làm th. Vì thế, tích lũy tiền tệ có vai trị quan trọng cho sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản. Thời kỳ đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vì sản
xuất chưa phát triển, để có tiền tệ tích lũy phải thơng qua hoạt động thương mại,
mua bán, trao đổi.
- Về kinh tế:
Đây là thời kỳ kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển mạnh mẽ. Nền sản
xuất hàng hóa vào cuối thời kỳ phong kiến đã phát triển tới trình độ cổ điển, tức
là tới trình độ mà hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản . Theo C.Mác
“Lưu thơng hàng hóa là khởi đểm của tư bản. Sản xuất hàng hóa và một nền
lưu thơng hàng hóa phát triển, thương mại, đó là những tiền đề lịch sử của sự
xuất hiện cả tư bản. Thương mại thế giới và thị trường thế giới thế kỷ XVI đã

2


mở ra trang sử cận đại của tư bản” (C.Mác và Ăngghen: tồn tập, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội , 1993, t. 23, tr. 221)
- Về mặt chính trị:
Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, chưa nắm được chính quyền, chính
quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó, chủ nghĩa trọng thương ra đời
nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.
- Về phương diện khoa học – kỹ thuật:
Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là có những phát hiện lớn về địa

lý Crixtốp Cơlơng tìm ra châu Mỹ và đường sang châu Á năm 1492; năm 1496
V. Gâm đi vòng quanh châu Phi đã tìm ra đường sang Ấn Độ Dương. Do đó,
trung tâm mậu dịch châu Âu được chuyển từ Địa Trung Hải sang Đại Tây
Dương, các nước Hà Lan, Pháp, Anh giữ vai trị chính trong sự phát triển mậu
dịch, du thương để chuyển vàng từ châu Mỹ về châu Âu. Điều này chứng tỏ vai
trò quan trọng của tư bản thương nghiệp. Nó địi hỏi phải có lý thuyết kinh tế
chính trị chỉ đạo, hướng dẫn cho hoạt động thương nghiệp đang trên đà phát
triển mạnh mẽ.
- Về mặt tư tưởng, triết học
Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng. Trong xã
hội người ta đề cao tư tưởng tư sản, đề cao cá nhân, đưa cá nhân lên hàng đầu.
Các nhà tư tưởng trong thời kỳ này đã tập trung phê phán bóc lột, phê phán sở
hữu phong kiến và chống lại chế độ sở hữu phong kiến; tư tưởng chống nhà thờ
cũng phát triển mạnh. Bruno (1548 – 1600) – Nhà triết học và nhà vô thần Italia
đã tiếp tục Học thuyết Nhật tâm về vũ trụ của Copermic (mặt trời là trung tâm
của vũ trụ), đã bị tòa án giáo hội kết tội là tà giáo và bị thiêu sống.
Những sự kiện trên làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt phong kiến trung
cổ, nền sản xuất phong kiến bắt đầu nhường chỗ cho chế độ tư bản thương mại.
Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản cũng là thời kỳ thống
trị của học thuyết kinh tế trọng thương.
2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế trọng thương
Học thuyết kinh tế trọng thương chịu ảnh hưởng bởi những đặc điểm về
kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng nêu trên. Do đó, nó mang những đặc điểm
sau:
a) Học thuyết kinh tế trọng thương xuất hiện một cách độc lập
Khác với các học thuyết kinh tế sau này, học thuyết kinh tế trọng thương
không phải là một học thuyết thuần nhất, mang tính chất phổ biến trong tất cả
các nước mà cịn cả ở những nước khác nhau thì có những học thuyết trọng
thương cho riêng mình và nó phản ánh những qua trình kinh tế khác nhau, xuất


3


hiện ở các nước như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Trong đó,
Học thuyết trọng thương ở Anh là học thuyết trọng thương triệt để nhất, điển
hình nhất, mang đầy đủ các đặc điểm của từng giai đoạn phát triển một cách rõ
rệt. Bởi lẽ, giai cấp phong kiến, quý tộc của Anh mang tính chất tư sản hóa rõ
rệt nhất - đây là đặc điểm của giai cấp tư sản Anh còn được biểu hiện cho tới
ngày nay.

4


b) Học thuyết trọng thương mang tính chất khơng triệt để
Ở trên chúng ta đã thấy được, học thuyết trọng thương thể hiện tính độc
lập. Bên cạnh đặc điểm đó, học thuyết cũng mang tính chất khơng triệt để.
Như chúng ta đã biết, học thuyết trọng thương là trào lưu kinh tế tư sản,
nhưng trong thưc tế nhiều nước, giai cấp quý tộc đã lợi dụng để phục vụ lợi ích
của mình và để cứu vãn sự suy tàn của xã hội phong kiến. Do vậy, cơ sở giai
cấp của học thuyết kinh tế trọng thương không phải chỉ là giai cấp tư sản mà
còn bao gồm cả giai cấp q tộc nên nó mang tính chất khơng triệt để.
c) Học thuyết kinh tế trọng thương rất ít tính lý luận, song lại rất thực
tiễn
Trong buổi ban đầu của CNTB, nhiệm vụ trọng tâm của giai cấp tư sản là
phải tạo ra nguồn vốn ban đầu, tức là phải tích lũy được nhiều tiền. Vì muốn có
nhiều tiền họ đã dựa vào Nhà nươc để thực hiện các biện pháp phi kinh tế chứ
không phải là dưa trên sự vận động của các quy luật kinh tế. Với những hoàn
cảnh về kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng nêu trên thì sự ra đời của học thuyết
kinh tế trọng thương là tất yếu. Nhưng học thuyết kinh tế trọng thương cũng bị
giới hạn bởi hồn cảnh. Q trình con người nhận thức từ nông đến sâu, từ đơn

giản tới phức tạp. Quá trình nhận thức các quan hệ kinh tế cũng vậy. Ban đầu
mới chỉ là sơ khai rời rạc như tư tưởng kinh tế của thời kì cổ đại và phong kiến.
Học thuyết kinh tế trọng thương đã có bước tiến vượt bậc, đã tách những quan
hệ kinh tế thành những lĩnh vực riêng để nghiên cứu, lần đầu tiên trong hệ
thống tư tưởng và chính sách kinh tế, hệ thống lý thuyết về kinh tế. Nhưng chủ
nghĩa trọng thương cũng mới chỉ dừng lại ở kinh nghiệm, khái quát những kinh
nghiệm mà chưa đi sâu hơn khái quát hơn để phát hiện ra quy luật. Chủ nghĩa
trọng thương mới chỉ dừng lại ở giai đoạn đầu của q trình nhận thức quy luật
- đó là chủ nghĩa kinh nghiệm. Đây là điều tất yếu của quá trình nhận thức tìm
ra quy luật. Chính những kinh nghiệm của những nhà trọng thương này các nhà
kinh tế sau này đã kế thừa và phát triển. A.Smith có nhận xét : Quan điểm lý
luận của chủ nghĩa trọng thương là ngây thơ.
Tuy vậy, học thuyết kinh tế trọng thương lại rất thưc tiễn, nó đã kêu gọi
thương nhân dùng ngoại thương bn bán và cướp bóc thuộc địa để làm giàu.
Thơng qua thực tiễn đó đã khái qt những kinh nghiệm thành những quy tắc,
cương lĩnh chính sách. Do đó với những lí luận thơ sơ trên cơ sở hiện thực lịch
sử học thuyết kinh tế trọng thương đã giải quyết tốt vân đề cấp bách lúc bấy giờ
là tích lũy vốn ban đầu.
3. Các giai đoạn phát triển của học thuyết kinh tế trọng thương
Học thuyết trọng thương phát triển qua hai giai đoạn.

5


- Giai đoạn sơ kỳ (Còn gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ - Bảng cân đối
tiền tệ”)
Giai đoạn này xuất hiện từ giữa thế kỷ XV kéo dài đến giữa thế kỷ XVI.
Đại biểu điển hình cho giai đoạn này là Starford người Anh (1554 – 1612).
Trong giai đoạn này nhưng nhà trọng thương đưa ra thuyết tiền tệ hay “Bảng
cân đối tiền tệ”. Ở giai đoạn này, họ đồng nhất của cải với tiền tệ và tìm mọi

cách để tăng tiền tệ. Nên nội dung chủ yếu của học thuyết kinh tế trọng thương
thời kỳ này là lấy tiền tệ làm cân chính. Để thực hiện Bảng cân đối tiền tệ, họ
đòi hỏi nhà nước phải can thiệp vào đời sống kinh tế, trước hết can thiệp vào
lưu thơng tiền tệ bằng các biện pháp hành chính như: cấm xuất khẩu tiền tệ ra
nước ngoài; thu hút tiền về càng nhiều càng tốt; bắt các thương nhân nước
ngồi khơng đươc đem tiền về mà phải mua hết hàng hóa về nước họ.
Thơng qua các biện pháp trên cho ta thấy, những người trọng thương sơ
kỳ đã có đầu óc thực tiễn, nghĩa là họ biết khái quát hóa những sự kiện có tính
chất kinh nghiệm Nhưng họ cũng có sai lầm về mặt lý luận : họ coi tiền là sản
phẩm duy nhất của xã hội, họ chủ trương tích chữ tiền, ngồi ra họ cịn sử dụng
các biện pháp phi kinh tế, hành chính để can thiệp vào quá trình kinh tế.
- Học thuyết kinh tế trọng thương - giai đoạn trọng thương chính thống

6


Giai đoạn này xuất hiện vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVII được gọi là
“Giai đoạn học thuyết về Bảng cân đối thương mại” ra đời thay thế cho chính
sách “Bảng cân đối tiền tệ”. Đại biểu điển hình của giai đoạn này là Thomas
Mun (1571 – 1644). Trong giai đoạn này những người trọng thương lại không
dựa vào những biện pháp hành chính, mà lấy các biên pháp kinh tế là chủ yếu.
Những đại biểu trọng thương giai đoạn này cho rằng nhà nước phải có số dư
trong bảng cân đối thương mại, đất nước không được nhập khẩu hàng hóa nhiều
hơn xuất khẩu. Để đạt mục đích đó, người ta đã khuyến khích phát triển cơng
nghiệp để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ suất khẩu. Mở rộng xuất khẩu
trên cở sở nhập khẩu quy mô lớn các nguyên vật liệu để sản xuất sau đó mới
đem suất khẩu với khối lượng và chất lượng lớn hơn, phải bảo đảm cân đối xuất
siêu. Ngoài ra, trong giai đoạn này các nhà trọng thương còn lên án việc tích trữ
tiền. Họ cho rằng đồng tiền phải vận động mới sinh lời, xuất khẩu tiền là thủ
đoạn tăng thêm của cải. Do đó ngoại thương, bn bán phát triển mạnh. Bên

cạnh đó, họ cịn quan tâm tới việc phát triển sản xuất, đặc biệt là khuyến khích
hàng xuất khẩu với những giải pháp cụ thể như : giúp đỡ vốn cho người sản
xuất, miễn thuế, giảm thuế với hàng xuất khẩu, thu hút thợ giỏi từ nước ngoài
vào, lập hàng rào thuế quan để bảo vệ hàng hóa trong nước. Như vậy, giai đoạn
trọng thương chính thống đã khẳng định sự phát triển hơn hẳn về tư duy kinh tế
so với giai đoạn đầu. Họ đã thấy rõ được vai trị của lưu thơng tiền tệ, và quan
tâm tới phát triển sản xuất với những biện pháp kích thích nền sản xuất cực kì
tiến bộ cho đến nay vẫn có nhiều kinh nghiệm cho việc phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương nói về sản xuất, coi công nghiệp là biện
pháp cuối cùng nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng chúng ta không gọi là
chủ nghĩa trọng công. Bởi họ cho rằng sản xuất chỉ là phương tiện để phục vụ
cho thương nghiệp, coi thương nghiệp là trọng tâm, là nguồn gốc duy nhất sinh
ra của cải.
II- Những luận điểm cơ bản của học thuyết kinh tế trọng thương
Như đã trình bày ở trên học thuyết kinh tế trọng thương phát triển theo
hai giai đọan. Cả hai giai đoạn đều cùng một mục đích là tích lũy tiền tệ cho sự
ra đời của chủ nghĩa tư bản. Nó chỉ khác nhau về thủ đoạn và phương thức mà
thôi. Qua một số đặc điểm của hai giai đoạn đó chúng ta có thể thấy được học
thuyết kinh tế trọng thương có nhiều luận điểm quan trọng.
1. Những luận điểm cơ bản của học thuyết kinh tế trọng thương.
a) Tiền là của cải thực sự:
Giống các học thuyết khác, học thuyết trọng thương cũng có một tư
tưởng xuất phát và từ tư tưởng xuất phát đó có một loạt các tư tưởng khác được
ra đời. Học thuyết trọng thương bắt đầu với tư tưởng coi tiền là của cải, là tiêu
chuẩn của của cải.

7


Trước đó người ta coi tư liệu sinh hoạt là của cải. Sự giàu hay nghèo đều

được đánh dấu bằng sự sung túc hay ít ỏi về tư liệu sinh hoạt. Chủ nghĩa trọng
thương lại cho rằng tiêu chuẩn của sự giàu có khơng phải là tư liệu sinh hoạt
nữa, mà là tiền. Sự giàu nghèo được đánh giấu bằng ít tiền hay nhiều tiền. Học
thuyết kinh tế trọng thương dựa trên điểm xuất phát này để xây dựng học thuyết
cho mình. Họ cịn lấy tiền để đánh gía mọi hình thức nghề nghiệp. Cho rằng
hoạt động nào khơng tích lũy tiền tệ là những hoạt động tiêu cực. Tư tưởng này
có tầm ảnh hưởng rộng lớn, kêu gọi tầng lớp thương nhân tăng cường trao đổi
bn bán, tích trữ tiền, góp phần làm cho q trình tích lũy ngun thủy của tư
bản diễn ra nhanh hơn. Từ quan điểm coi tiền là của cải, người ta đã đi tìm kiếm
nguồn gốc của của cải, hay của tiền. Tiền tệ được quyết định trực tiếp bởi lưu
thơng tiền tệ. Có lẽ vì vậy trong giai đoạn đầu – trọng thương sơ kì, các nhà
trọng thương đã kêu gọi sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực lưu thông tiền
tệ. Họ đề nghị cấm xuất khẩu tiền, lập hàng rào thếu quan, cấm nhập khẩu các
loại hàng hóa đặc biệt là hàng xa xỉ. Các nhà trọng thương còn đánh giá một
nước có càng nhiều tiền và vàng thì càng giàu có, cịn hàng hóa chỉ là phương
tiện để tăng thêm khối lượng tiền tệ mà thôi.
Sau này, trái với quan điểm của phái trọng thương, W.Petty (1623- 1687)
- nhà kinh tế học phản ánh bước quá độ từ chủ nghĩa trọng thương sang KTCT
cổ điển - đã phê phán học thuyết trọng thương đã đánh giá quá cao tiền tệ. Ơng
cho rằng tiền tệ khơng phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có. Ơng cũng
phê phán chế độ song vị bản dùng vàng và bạc làm cơ sở tiền tệ và ủng hộ một
kim loại quý duy nhất làm tiền. Theo ông, việc giảm giá trị thực tế của tiền là
một tai họa thật sự của nền kinh tế. Petty đã đưa ra quy luật lưu thơng tiền tệ,
theo đó số lượng tiền tệ cần thiết được xác định căn cứ vào số lượng hành hóa
trao đổi và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Đây là điều mà chủ nghĩa trọng
thương trong giai đoạn phát triển của nó chưa thể chỉ ra được.
Với những lý luận sơ khai về tiền tệ của các nhà trọng thương, nhà kinh
tế tiểu tư sản cũng đã có những nét phát triển mới về lý luận tiền tệ, đó là
Sismondi (1773 – 1842). Ông coi tiền là một loại hàng hóa, nhưng lại là loại
hàng hóa đặc biệt dùng làm thước đo chung cho giá trị. Song ông vẫn chưa

khám phá ra bản chất bí ẩn bên trong của tiền tệ và nguồn gốc sinh ra nó.
Khơng giống như chủ nghĩa trọng thương, ông thường lên án đồng tiền một
cách không thương tiếc. Và sau này, lý luận tiền tệ phải đến Marx mới được xây
dựng hoàn chỉnh. Mác cũng chỉ ra rằng lao động mới là của cải thực sự của mỗi
quốc gia.

8


Khi nghiên cứu quan điểm trên của chủ nghĩa trọng thương và so sánh
với các quan điểm khác về tiền tệ và thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
tác giả thấy được một số sai lầm trong qua điểm này. Trước tiên, của cải của
mỗi quốc gia không chỉ có tiền. Một quốc gia giàu có khơng phải chỉ là một
quốc gia có nhiều tiền mà phải có nguồn lực lao động dồi dào, với trình độ cao.
Đó mới là của cải thực sự của một quốc gia. Việc tích lũy nhiều tiền lại là một
sai lầm. Nó là một nguyên nhân làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Tiền
phải được đưa vào sản xuất, để tạo ra hàng hóa, làm giàu cho xã hội. Sai lầm
tiếp theo của quan điểm này của các nhà trọng thương về tiền tệ là họ coi các
kim loại quý là của cải chủ yếu của xã hội. Họ đã đồng nhất tiền với các kim
loại quý đó. Các kim loại quý lại là những thứ tự nhiên có sẵn. Như vậy, vơ
hình tiền đã là những thứ tự nhiên, sẵn có.
Qua nghiên cứu luận điểm này, tác giả thấy rằng, việc xác định đúng của
cải thực của mỗi quốc gia có ý nghĩa quan trọng, vì chính thứ của cải đó mới là
nguồn gốc tạo ra những của cải khác. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể thấy được
vai trò của “những tư tưởng khởi thủy” trong học thuyết trọng thương về tiền tệ.
Các nhà kinh tế chính trị học sau này đã dựa trên những tư tưởng đó để xây
dựng lý luận cho riêng mình.
b) Để có tích lũy tiền tệ, phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước
hết là ngoại thương
Mối bận tâm của những người theo thuyết trọng thương đối với vấn đề

tiền tệ khụng chỉ đơn thuần là gắn với việc tôn thờ vẽ đẹp quyến rũ của tiền và
vàng. Nhìn chung họ cho rằng chính sự gia tăng lượng tiền (lệ thuộc vào xuất
khẩu vượt mức nhập khẩu) là kích thích đến nền kinh tế không bằng cách này
cũng bằng cách khác. Họ cũng cho rằng khối lượng tiền chỉ có thể tạo ra bằng
con đường ngoại thương.

9


Từ quan điểm coi tiền là của cải, người ta đã tìm kiếm nguồn gốc của của
cải. Do coi trọng tiền, họ đề cao lưu thơng tiền tệ và tìm kiếm biện pháp tác
động của Nhà nước vào lưu thông tiền tệ. Mục đích cuối cùng của họ là giữ
khối lượng tiền không bị hao hụt. Nhưng, lưu thông tiền tệ được quy định bởi
cái gì? Lưu thơng tiền tệ được quy định trực tiếp bởi lưu thơng hàng hóa, vì vậy
trong hai giai đoạn, chủ nghĩa trọng thương đã xây dựng biện pháp điều tiết lưu
thông Hàng- Hàng. Việc điều tiết hàng dẫn đến điều tiết tiền tệ nhằm mục đích
thu về lượng tiền lớn hơn. Vì vậy, trong giai đoạn phát triển thư hai đích thực
mới là giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương. Trong giai đoạn sơ kì,
các biện pháp của Nhà nước khi can thiệp sâu vào nền kinh tế như: cấm xuất
khẩu tiền và vàng bạc ra nước ngoài, phải thu hút tiền về càng nhiều càng tốt,
giám sát thương nhân nước ngoài, không cho đem tiền về, mà buộc phải mua
hàng, và tích trữ tiền lại. Khác hẳn giai đoạn sơ kì, giai đoạn trọng thương chính
thống việc mang tiền trao đổi bn bán đã phát triển hơn trước. Họ đã có tư duy
kinh tế mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng hạn, họ cho rằng
muốn có nhiều tiền thì phải đẩy mạnh xuất khẩu. Nhưng muốn mở rộng xuất
khẩu phải có hàng hóa rẻ, do đó phải giảm chi phí sản xuất. Giá càng rẻ, khối
lượng sản xuất càng lớn.
Học thuyết kinh tế trọng thương khẳng định vai trị của thương nghiệp.
Để tích lũy và phát triển thương nghiệp, trước hết là ngoại thương. Chỉ có ngoại
thương mới là nguồn gốc đích thực của sự giàu có, là phương tiện để tạo ra

nhiều tiền: “thương mại là hịn đá thử vàng của mỗi quốc gia; khơng có phép lạ
nào khác để kiếm tiền trừ thương mại” ( Thomas Mun). Ông cũng cho rằng
thương mại càng được mở rộng, thì càng có nhiều cơ hội kiếm tiền, quốc gia
càng giàu có. Sự phát triển thương mại là thước đo duy nhất cho sự phồn thịnh
của mỗi quốc gia. Trong quan điểm này của Thomas Mun có nhiều luận điểm
có gía trị thực tiễn cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay chúng ta cần đi sâu
nghiên cứu.

10


Bên cạnh quan điểm của Thomas Mun về thương mại và vai trò của
thương mại trong nền kinh tế quốc dân có một quan điểm tiến bộ khác của
Montchretien (1575 – 1692) - Đại biểu cho chủ nghĩa trọng thương ở Pháp : “
Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải
phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương”. Chủ nghĩa trọng thương coi
trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo tiêu chuẩn của sự giàu có và mọi sự
hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đích kinh tế của mỗi nước đó là phải
tăng khối lượng tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có; và hàng hố
chỉ là phương tiện tăng khối lượng tiền tệ. Họ cũng coi nghề nông là một nghề
trung gian những hoạt động tích cực và tích cực vì nghề nơng khơng làm tăng
hay giam của cải ( trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc) do đó nội thương chỉ có
tác dụng di chuyển của cải trong nước chức không thể làm tăng của cải trong
nước. Trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu( xuất
nhiều, xuất ít). Học thuyết trọng thương cho rằng lợi nhuận tạo ra cho lĩnh vực
lưu thơng nó là kết quả việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Ngoại
thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, khơng có ngoại thương
khơng thể tăng được của cải. Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng
tiền nước ngoài vào trong nước. Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem
nhẹ nội thương vì ơng chỉ chú ý đến lĩnh vực lưu thông (T-H-T) mà chưa hiểu

được tồn bộ q trình sản xuất và bước chuyển của việc tạo ra lợi nhuận đó là
do quá trình sản xuất. Giải pháp số một mà những người trọng thương đưa ra là
tăng cả nội thương và ngoại thương với việc tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được
dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương,
thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho cơng ty thương mại độc quyền bn
bán với nước ngoài. Như vậy, khi nghiên cứu về luận điểm này chúng ta càng
nhận thức rõ hơn về vai trò của nội thương và ngoại thương trong việc phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa, và hội nhập
kinh tế quốc tế là tất yếu của mỗi quốc gia mà Việt Nam không phải là một
ngoại lệ. Quan điểm này càng chứng tỏ đặc điểm của học thuyết trọng thương
tuy ít tính lí luận song lại rất thực tiễn.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế chính trị học sau này mà tiêu biểu là Mác đã
khẳng định tiền không phải tạo ra bằng con đường ngoại thương (nói cách khác
là trong lưu thơng), mà phải được tạo ra trong quá trình sản xuất. Trong giai
đoạn trọng thương chính thống, các nhà trọng thương cũng đã chủ chương phát
triển sản xuất trong nước, giảm chi phí sản xuất, tạo ra lợi thế cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Có lẽ tiền lại được thu về q mạnh mẽ từ lưu thơng đã làm
lóa mắt các nhà trọng thương, và sản xuất trong giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa trọng thương chưa đủ để giúp các nhà trọng thương nhận ra được điều
này. Do vậy, một quốc gia muốn phát triển điều quan trọng hơn cả là phát triển
sản xuất trong nước, đẩy mạnh nội thương và ngoại thương để thúc đẩy sản
xuất phát triển.

11


c) Ngoại thương phải tổ chức như thế nào để bảo đảm xuất xiêu.
Tiền là của cải thực sự của mỗi quốc gia. Khối lượng tiền chỉ có thể tăng
lên bằng con đường ngoại thương. Nhưng ngoại thương phải được tổ chức như
thế nào để đảm bảo xuất siêu. Đảm bảo xuất siêu để có chênh lệch tăng tích luỹ

tiền. Họ quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp là kết qủa của sự trao đổi không
ngang giá, là sự lừa gạt, như chiến tranh vậy, không người nào thu được lợi mà
không làm thiệt hại kẻ khác. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của
dân tộc khác. Trao đổi phải có bên thua, bên được. Đây cũng là một đặc điểm
lớn của thời kì tích lũy nguyên thủy của tư bản.
Xuất phát từ chỗ coi nguồn gốc của của cải được sinh ra trong lưu thông
và luận điểm về ngoại thương phải thực hiện xuất siêu của mình, chủ nghĩa
trọng thương chủ trương xuất siêu với các mức độ khác nhau giữa các khuynh
hướng của quốc gia trong những thời kỳ khác nhau. Quan điểm này của chủ
nghĩa trọng thương phát triển toàn diện trong giai đoạn chính thống. Để thực
hiện xuất siêu thì phải phát triển cơng nghiệp từ đó mở rộng xuất khẩu. Nhập
khẩu với quy mô lớn, nhưng không phải là nhập khẩu hàng tiêu dùng hay hàng
xa xỉ, mà chủ yếu là nhập các nguyên liệu để sau chế biến lại đem xuất khẩu với
khối lượng lớn hơn và chất lượng hơn. Miễn sao phải bảo đẩm xuất xiêu. Và
nhập khẩu có thể giảm nếu từ bỏ việc “tiêu dùng quá mức” hàng nước ngồi.
Chỉ nên nhập khẩu những hàng hóa mà trong nước không sản xuất được hay
sản xuất được nhưng có chi phí q lớn so với hàng ngoại cùng kiểu cách, chất
lượng. Xuất khẩu phải chú ý đến những mặt hàng dư thừa trong nước và nhu
cầu của nước trong hoạt động ngoại thương. Có thể nói đây là tư tưởng cực kì
tiến bộ mà cho tới nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nguyên tắc mà T.Mun đưa ra là: “ Cách thông thường … để gia tăng của
cải và vàng bạc là thông qua Ngoại thương, tức là hằng năm chúng ta phải tuân
theo quy tắc này: hàng năm phải bán cho nước ngoài nhiều hơn, về mặt giá trị,
số hàng hóa mà chúng ta mua của họ, phần của cải không trở lại với chúng ta
dưới dạng hàng hóa nhất định sẽ quay lại dưới dạng vàng bạc” (50 nhà kinh tế
tiêu biểu, Steven Presman, Nxb Lao động, 2003, Tr.15).
Đây là quan điểm này thể hiện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời
kì tích lũy ngun thủy của nó - Chủ nghĩa tư bản được hình thành bằng máu và
nước mắt. Để ngoại thương có hiệu quả mà tiến hành các biện pháp kể cả phi
kinh tế như chủ nghĩa trọng thương đề ra, tác giả cho rằng chưa thực sự tồn

diện. Nó chỉ có thể áp dụng trong thời kì mà nền kinh tế của quốc gia đang phát
triển. Khi lâm vào suy thoái nền kinh tế của quốc gia khó có thể áp dụng được
các biện pháp mà chủ nghĩa trọng thương nêu ra để đảm bảo xuất siêu. Chủ
nghĩa trọng thương còn chưa coi trọng thị trường trong nước. Tuy vậy, trong
quan điểm này của chủ nghĩa trọng thương cũng có nhiều luận điểm giá trị cần
đi sâu nghiên cứu, có nhiều ý nghĩa tích cực cho việc phát triển ngoại thương.

12


d) Khơng có khái niệm về quy luật kinh tế nên đánh giá cao vai trị chính
sách kinh tế của nhà nước.
Để có thể kiếm được nhiều tiền, làm giàu cho quốc gia, các nhà trọng
thương cho rằng ngoại thương phải được tổ chức như thế nào để đảm bảo xuất
xiêu. Trong các giải pháp đưa ra, có sự can thiệp của các nhà nước vào nền kinh
tế. Đây cũng là quan điểm được coi là đặc trưng của chủ nghĩa trọng thương.
Theo đó, vai trị của nhà nước được đề cao trong phát triển thương nghiệp. Cho
rằng muốn tích luỹ, phải có sự giúp đỡ của nhà nước. Mục đích chủ yếu của các
chính sách kinh tế của nhà nước là hết sức làm tăng khối lượng tiền tệ, phải
đảm bảo tích luỹ được nhiều tiền. Vậy tại sao các nhà trọng thương lại đề cao
vai trò của nhà nước đến vậy? Có thể giải thích điều này như sau:
Các quy luật kinh tế là các quy luật phát triển của quan hệ sản xuất, phân
phối, trao đổi, và tiêu dùng. Các quy luật kinh tế ra đời cùng với sự xuất hiện
của xã hội loài người, trong quá trình hoạt động sản xuất của con người. Quá
trình nhận thức của con người phát triển từ thấp lên cao, từ đơn giản tới phức
tạp. Trong đó các quy luật kinh tế cũng không phải là ngoại lệ. Giai đoạn ra đời
và phát triển của chủ nghĩa trọng thương, các quy luật kinh tế chưa được phát
hiện, chưa thừa nhận các quy luật, còn xa lạ với các quy luật. Họ chưa nhận ra
được vai trò của quy luật là động lực cho sự phát triển nội tại của các hiện
tượng kinh tế và các quá trình kinh tế. Như vậy, cũng có nghĩa là những người

theo phái trọng thương chưa tìm thấy động lực bên trong nền kinh tế. Vì vậy, họ
phải dùng sức mạnh khác ngồi kinh tế để tác động vào kinh tế, đó là nhà nước.
Do đó, họ coi nhà nước là cơng cụ vạn năng để tăng của cải. Cũng vì chưa cơng
nhận quy luật, chưa phát hiện ra quy luật, mà chỉ dừng lại ở nhận thức bên
ngoài của quan hệ kinh tế nên họ chưa phải là một trường phái khoa học trong
lịch sử khoa học kinh tế.
Chưa phát hiện ra các quy luật kinh tế, họ sử dụng vai trò của nhà nước
một cách triệt để nhất. Trong giai đoạn trọng thương sơ kì, các nhà trọng thương
đưa ra bảng cân đối tiền tệ. Để thực hiện cương lĩnh này, với đầu óc đầy tính
thực tiễn của mình, họ địi hỏi nhà nước phải can thiệp vào đời sống kinh tế,
trước hết là can thiệp vào lưu thông tiền tệ bằng các biện pháp hành chính để
giải quyết các vấn đề kinh tế : cấm xuất khẩu tiền vàng, bạc ra nước ngoài, phải
thu hút tiền về càng nhiều càng tốt, giám sát thương nhân nước ngồi khơng cho
đem tiền về nước, mà buộc phải mua hàng…Chuyển sang giai đoạn trọng
thương chính thống, các biện pháp mà nhà nước áp dụng đã có vẻ hợp lý hơn để
khuyến khích phát triển sản xuất như giúp đỡ vốn cho người sản xuất, miễn
giảm thuế với hàng nhập khẩu, thu hút thợ giỏi từ nước ngoài vào, lập hành rào
thuế quan để bảo vệ hàng hoá trong nước. Trong giai đoạn này họ đã nhận ra
được vai trị của lưu thơng tiền tệ, và quan tâm tới phát triển sản xuất.

13


Trên đây, là những biểu hiện cụ thể chứng tỏ vai trò của nhà nhà nước
trong nền kinh tế mà các nhà trọng thương áp dụng. Sau chủ nghĩa trọng
thương, là sự thống trị của tư tưởng kinh tế tư sản cổ điển trong thời gian dài
với quan điểm thị trường tự do, khơng có sự can thiệp của nhà nước. Nhưng sau
đó tới đầu thế kỉ XX, một nhà kinh tế nổi tiếng là Keynes đã làm những tư
tưởng can thiệp vào kinh tế của nhà nước hồi sinh nhưng đã phát triển ở giai
đoạn cao hơn và phù hợp với hoàn cảnh. Nhà nước cũng thể hiện vai trị của

mình ở trình độ cao hơn trọng thương rất nhiều.
Tóm lại, khi nghiên cứu quan điểm này, chúng ta càng nhận thức sâu sắc
hơn vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Trong điều kiện hiện nay khi mà
nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý
của nhà nước thì “những tư tưởng khởi thuỷ” của chủ nghĩa trọng thương càng
có vai trị quan trọng.
2. Đánh giá những quan điểm của học thuyết kinh tế trọng thương
a) Thành tựu:
Học thuyết kinh tế trọng thương là học thuyết kinh tế đầu tiên trong lích
sử, tiến bộ hơn hẳn so với các tư tưởng phong kiến và các lý thuyết tôn giáo còn
đang thịnh hành ở nhiều nước thời bấy giờ. Lần đầu tiên có một cách nhận thức
mới mẻ về kinh tế thốt khỏi các lý thuyết đạo đức, tơn giáo, thần học. Cũng là
lần đầu tiên quan điểm về sự giàu có là giá trị, là tiền. Họ cũng đã nêu ra được
quan điểm mục đích hoạt động của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận.
Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá
phát triển, xoá bỏ kinh tế tự nhiên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Đặc biệt là thương nghiệp, ngoại thương, coi là đòn bẩy mạnh mẽ để tích luỹ
vốn ban đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Tư tưởng cơ bản của học thuyết trọng thương là coi trọng thương, buôn
bán, coi đây là đòn bẩy mạnh mẽ để làm giàu. Nhưng sang giai đoạn hai họ
nhận ra rằng, muôn cho thương nghiệp, ngoại thương phát triển có lợi cho cạnh
tranh thì phải phát triển sản xuất, giảm chi phí. Như vậy các nhà trọng thương
đã biết hướng vào phát triển sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương đã đưa ra tuyên
ngôn hướng vào việc phát triển hệ thống công trường thủ công và lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới đó cố gắng nhận thức CNTB, giải thích các q trình kinh
tế dưới góc độ lý luận dựa trên cơ sở các thành tựu khoa học.
Bên cạnh đó, cịn có các chính sách bảo hộ của nhà nước có tác dụng rút
ngắn sự qua độ từ phương thức sản xuất phong kiến sang phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Và chính tư tương nhà nước can thiệp vào kinh tế sau đã được
kinh tế học hiện đại sử dụng.

a) Hạn chế:

14


Các quan điểm của học thuyết kinh tế trọng thương mới dừng lại ỏ viêc
phân tích thực tiễn, có tính chất kinh nghiệm (thông qua hoạt động thương mại
của Anh, Hà Lan) để đưa ra những lời khuyên về chính sách kinh tế, rất ít tính
lý luận. Do phương pháp luận thiếu tính khoa học và do điều kiện lịch sử quy
định, nên các học thuyết kinh tế trọng thương mới đề cập tới một và phạm trù
kinh tế và chưa có khái niệm về các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, về tư bản họ
mời hiểu đó là tiền đẻ ra tiền, hay về giá trị thặng dư mới thấy được giá trị biểu
hiện của nó là lợi nhuận thương nghiệp. Hơn nữa, học thuyết trọng thương có
những tư tưởng cịn mang tính phiến diện, chỉ nghiên cứu các quan hệ kinh tế
trong lĩnh vực lưu thông, mà không quan tâm đến sản xuất, phân phối và tiêu
dùng để tìm ra bản chất và nội dung bên trong của các phạm trù và các quy luật
kinh tế – đó mới là lĩnh vực chính mà các học thuyết kinh tế cần nghiên cứu.
Chưa biết đến các quy luật kinh tế, họ coi thương trường là chiến trường,
người này được thì người kia mất. Từ đó họ kêu gọi tăng cường cuớp bóc, áp
bức, bóc lột. Đây là hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa trọng thương.
c) Sự tan rã tất yếu của học thuyết kinh tế trọng thương.
Học thuyết kinh tế trọng thương là hệ tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai
cấp tư sản nhằm mục đích tạo ra tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Tuy
vậy chủ nghĩa trọng thương sẽ nhất định bị phá sản về mặt lý luận. Bởi lẽ, điểm
xuất phát của chủ nghĩa trọng thương là việc coi tiền là của cải và tiền là nhân
tố nổi bật nhất trong lưu thơng. Cái gì quy định tiền? đó là lưu thơng tiền tệ. Vì
vậy, trong giai đoạn sơ kì, chủ nghĩa trọng thương đã đưa ra sự can thiệp trực
tiếp của nhà nước vào lưu thông tiền tệ. Người ta cho rằng tiền được sinh ra
trực tiếp từ lưu thơng tiền tệ. Nhưng cái gì quyết định lưu thơng tiền tệ? Câu trả
lời đó là đánh dấu giai đoạn phát triển chính thống của chủ nghĩa trọng thương

– lưu thơng hàng hố quy định lưu thơng tiền tệ. Số lượng tiền không chỉ do lưu
thông tiên tệ quy định mà xa hơn nữa là lưu thơng hàng hố. Nhưng cái gì quyết
định lưu thơng hàng hố? Chủ nghĩa trọng thương khơng có bước tiến thêm
nữa, bởi vì cả lĩnh vực lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ đều là lĩnh vực
lưu thơng. Cịn cáí gì quyết định lưu thơng hàng hố? Buộc họ phải giải thích
nguồn gốc của của cải ở sản xuất. Việc này trái với quan điểm của chủ nghĩa
trọng thương. Càng nghiên cứu sâu hơn thì càng chống lại những nguyên lý của
họ. Do đó, chủ nghĩa trọng thươn tất yếu bị phá sản về mặt lý luận. Chủ nghĩa
trọng thương tất yếu bị tan giã.
III- Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này với việc mở rộng quan
hệ kinh tế, quốc tế ở nước ta hiện nay.
Việc nghiên cứu Những luận điểm cơ bản của học thuyết kinh tế trọng
thương có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế, quốc tế
ở nước ta hiện nay.

15


Vì đối với Việt Nam chúng ta, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hành đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị với các quốc gia, dân tộc trên thế
giới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ khi thành lập Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa. Trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, Đảng và Nhà
nước đã đề ra đường lối mở cửa kinh tế, chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã hội nhập sâu và toàn diện
vào nền kinh tế thế giới như tham gia các khu vực mậu dịch tự do ASEAN,
ASEAN - Trung Quốc và các khu vực mậu dịch tự do khác (ASEAN - Nhật
Bản, ASEAN -Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc); Tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế

Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Á - ÂU
(ASEM); tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đường lối đối ngoại
của nước ta với phương châm độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ quốc tế trên tinh thần chủ động, sẵn sàng hội nhập, “sẵn sằng là bạn và là
đối tác tin cậy” đã góp phần đưa nước ta thốt khỏi khủng hoảng về kinh tế và
sự bao vây, cấm vận kéo dài trong nhiều thập kỷ. Q trình hội nhập ngồi việc
tăng vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, chúng ta cũng đã thu hút được một số
lượng đáng kể vốn đầu tư nước ngồi và viện trợ phát triển chính thức quốc tế;
tiếp thu những thành tựu mới về khoa học, công nghệ cũng như kinh nghiệm và
kỹ năng quản lý. Xây dựng một đội ngũ công chức, viên chức nhà nước và đội
ngũ quản lý kinh doanh từng bước thích ứng với điều kiện và môi trường mới
tạo tiền đề để tham gia một cách tích cực hơn, chủ động hơn trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế những năm tiếp theo. Với những cơ hội và thành tựu đạt
được đó, chúng ta từng bước thực hiện được chủ trương kết hợp phát huy nội
lực với goại lực tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa đến những thành tựu kinh tế-xã
hội, ổn định và giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua chúng ta cịn gặp
khơng ít khó khăn, thách thức. Thách thức lớn nhất đối với chúng ta hiện nay
vẫn là 4 nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(01/1994) của Đảng đã chỉ ra đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp; nguy cơ sai
lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về tệ nạn
tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí; nguy cơ “Diễn biến hồ bình” của các
thế lực thù địch. Chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế đã được khẳng định rõ
trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước
nhưng nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn
chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán ở một bộ phận cán bộ và nhân dân.

16



Doanh nghiệp nhà nước nói chung cịn hạn chế về hiểu biết thị trường thế giới,
thông lệ quốc tế; luật pháp quốc tế; năng lực và kinh nghiệm quản lý, hiệu quả
sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh quốc tế cịn yếu kém. Vẫn
cịn tư tưởng trơng chờ, ỷ lại vào một vài “phao cứu sinh của Nhà nước” . Hầu
hết các doanh nghiệp chỉ chú trọng vào tính kinh tế của hàng hố mà ít được
chú trọng vào tính xã hội của hàng hố như một số nước văn minh, hiện đại
ngày nay. Môi trường kinh doanh ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song
về nhiều mặt còn hạn chế như hệ thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ
chưa đủ rõ ràng và nhất quán. Kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chắp vá, đơi nơi
cịn nóng vội dẫn đến làm mất đi những giá trị nguyên sơ mà thiên nhiên ban
tặng; bộ máy hành chính cịn nhiêu khê, nhũng nhiễu, quan liêu; tệ tham nhũng
có phần tinh vi, phức tạp hơn; những biểu hiện khoa trương, tự “đánh bóng
hình ảnh doanh nghiệp” còn diễn ra đối với một bộ phận khơng ít các doanh
nghiệp nhà nước mà kỳ thực họ chưa đủ độ “cứng vững” để chịu đựng sự va
đập của thị trường. Bên cạnh đó, tình hình thế giới và khu vực có những biến
đổi phức tạp, thiếu sự ổn định bền vững.
Để chủ động hội nhập cũng như mở rộng kinh tế quốc tế nhằm mở rộng
quan hệ bang giao, mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, cơng nghệ nước
ngồi phục vụ mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xây dựng một đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,văn
minh” theo suy nghĩ của em thì cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm
túc Những luận điểm cơ bản của học thuyết kinh tế trọng thương để đề ra
một số giải pháp sau đây:
Một là, Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế kinh tế đối ngoại.
Từ việc nghiên cứu chủ nghĩa trọng thương, chúng ta nhận thức rõ hơn
vai trò của ngoại thương, bên cạnh phát triển nội thương. Trước xu thế tồn cầu
hố hiện nay, việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu với
mỗi quốc gia. Nhận thức rõ xu thế đó, qua hơn hai mươi năm đổi mới, quan hệ

kinh tế của nước ta không ngừng được mở rộng. Chúng ta đã lần lượt tham gia
vào các tổ chức quốc tế, các hiệp định kinh tế. Tuy vậy, hiện nay chúng ta cần
hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn ở cả khu vực và trên thế giới. Cần thực
hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế. Khẩn trương
đổi mới thể chế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia phù
hợp với các thơng lệ quốc tế. Từ đó,tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngồi,
khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đẩy mạnh xuất
khẩu, chủ động nhập khẩu, giảm tỷ lệ nhập xiêu. Tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu
các sản phẩm chế biến có giá trị cao, giàu hàm lượng cơng nghệ, có sức cạnh
tranh, nhanh chóng chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, nông sản chưa
qua chế biến. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, giải pháp quyết định cho việc
tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đai hoá hiện nay.

17


Hai là,. Tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh phát triển
mạnh mẽ.
Trước tiên, nền kinh tế nước ta cần chuyển mạnh sang nền kinh tế thị
trường, hình thành các nguyên tắc thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện
các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với
đặc điểm của nước ta. Đây được coi là giải pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh
đó, cần “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối
ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”(Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhà xuất bản
chính trị quốc gia, 2006, tr.187)
Bên cạnh các giải pháp tổng thể nêu trên, chúng ta cũng cần bảo đảm cho
mọi công dân quyền đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực ngành nghề, địa
bàn mà pháp luật cho phép. Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp phát
triển và hoạt động có hiệu qủa theo cơ chế thị trường. Xây dựng thêm và củng

cố các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty lớn. Thu hút ngày càng nhiều các tập đoàn
kinh tế lớn của ngoài nước vào đầu tư. Khuyến khích các hình thức kinh tế đa
sở hữu là chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần, để hình thức này ngày càng
chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Hơn nữa, cũng cần tiếp tục đổi mới chính
sách phát triển mạnh các loại hình kinh tế tập thể và các hộ kinh doanh cá thể,
các loại hình doanh nghiệp tư nhân. (trong giai đoạn trọng thương sơ kì cho
thấy rõ nét sự cần thiết của biện pháp này). Tuy vậy, cũng cần phát triển đảm
bảo đúng định hướng XHCN. Do đó, cần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của
thành phần kinh tế nhà nước. Với biện pháp này, mọi nguồn lực của toàn xã hội
sẽ được huy động, việc phát triển kinh tế có thể đạt hiệu quả cao.
Ba là, Thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngồi, thường xun đổi
mới chính sách đầu tư.
Giải pháp tiếp theo mà tác giả xin đưa ra là đó là việc thu hút mạnh
nguồn lực đầu tư từ nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn ngoại lực
quan trọng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là bộ phận quan trọng
của nền kinh tế Việt Nam. Đảng ta đánh giá cao vai trò của thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi.

18


Do vậy, cần tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia vào phát triển
các ngành, các vùng lãnh thổ. Đa dạng hố các hình thức, cơ chế đầu tư để thu
hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư của những nhà đầu tư nước ngoài, cả trực tiếp và
gián tiếp vào các ngành các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, trong đó lưu ý
đến các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dung kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội. Song song với đó, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức
quản lý nhà nước và cải tiến thủ tục đầu tư, thường xuyên bổ xung xây dựng
luật đầu tư cho ngày càng phù hợp, tạo mơi trường thơng thống. Vốn đầu tư

của nhà nước cần tập trung vsò xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, phát
triển văn hoá, khoa học, giáo dục cơng nghệ, ý tế trợ giúp vùng khó khăn. Vốn
của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất. Đây là
kinh nghiệm có ý nghĩa từ việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa trọng
thương chính thống : nguồn vốn đầu tư phải đưa vào để phát triển sản xuất.
Việc đưa vốn vào phát triển sản xuất là vơ cùng có ý nghĩa, thúc sản xuất phát
triển, vừa làm giảm nguy cơ lạm phát do có q nhiều tiền trong lưu thơng, làm
cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thực hiện hai giải pháp nêu trên làm cho
việc huy động và sử dụng có hiệu qủa các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế
trong nước lại thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Trong chủ nghĩa trọng thương, vai trò của Nhà nước là đặc biệt quan
trọng. Với Nhà nước ta, trước đây thực hiện cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu nay chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước cần tăng vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh hỗ
trợ doanh nghiệp, không can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Các loại
thị trường, thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị
trường lao động, thị trường khoa học cơng nghệ có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nhà nước cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của
các loại thị trường. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ
và thị trường sức lao động, cần phát triển vững chắc thị trường tài chính bao
gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Kênh huy động vốn quan trọng cho
phát triển kinh tế.

19


Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã tập trung nguồn lực cho đầu
tư phát triển và tổng mức đầu tư của Nhà nước đã đạt gần 40% tổng mức đầu tư
toàn xã hội. Bên cạnh nguồn đầu tư của Nhà nước, nguồn vốn đầu tư của các

thành phần kinh tế ngoài Nhà nước hết sức quan trọng, trong đó vốn đầu tư trực
tiếp, gián tiếp của nước ngồi và nguồn vốn đầu tư của dân cư đã góp phần
quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Trong một số năm gần đây,
nguồn vốn đầu tư qua thị trường vốn, thị trường chứng khoán ngày càng tăng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã mở của từ năm 2000, qua 6 năm hoạt
động cho thấy thị trường này có tiềm năng phát triển. Cùng với việc cải cách hệ
thống tài chính, thị trường vốn sẽ trở thành một kênh cung cấp vốn đầu tư dài
hạn có hiệu quả của nền kinh tế. Song, với đặc tính vốn có, thị trường chứng
khốn cũng tiềm ẩn những yếu tố rủi ro mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp,
các nhà đầu tư cần nhận diện và có chính sách, giải pháp điều chỉnh phù hợp.
(“Bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ An Ninh tại Hội thảo quốc tế về
thị trường vốn”. Sáng 22 tháng 01 năm 2007 tại Hà Nội – theo
vietbao.com.vn).
Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất
và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn
cho phát triển. Lưu ý vai trị của thị trường chứng khốn, kênh huy động vốn
quan trọng cho nên kinh tế quốc dân.
Năm là, Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ và tín dụng phù hợp.
Không áp dụng triệt để các biện pháp hành chính như các Nhà nước trong
thời kì thống trị của học thuyết kinh tế trọng thương, vai trò của Nhà nước hiện
nay được thể hiện trong việc điều chỉnh nền kinh tế bằng các chính sách kinh tế
vĩ mơ - công cụ điều hành nền kinh tế, việc giữ vững các cân đối kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, sẽ tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế.
Về chính sách tài chính, “tích cực đổi mới và hồn thiện hệ thống chính
sách tài chính tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm thực hiện chiến lược kinh tế xã - hội”. ( Đảng Cộng sản Việt
Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, Tr.154). Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh
tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm

đầu tư, kinh doanh. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thuế cho phù hợp với tình
hình của đất nước và các cam kết quốc tế đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau kể cả
doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Tăng
tích luỹ trong đầu tư cho phát triển ở mức độ phù hợp. Nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư.

20


Về tín dụng: trong việc thực hiện cơng cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo,
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đã có những thành tựu to lớn trong đó có tín dụng.
Hoạt động tín dụng cần tiếp tục tổ chức đa dạng hố các loại hình vay vốn,
cung ứng dịch vụ với các chủ thể của sản xuất kinh doanh. Từ đó thơng qua
quan hệ tín dụng buộc những chủ thể sử dụng vốn vay phải làm đồng vốn trở
nên có hiệu quả nhất. Nói cách khác, hiệu quả của hoạt động tín dụng phải lấy
hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động.
Về chính sách tiền tệ : Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta đang phát
triển, nguồn vốn không những được huy động từ trong nước mà ngay cả
nước ngồi. Vốn đó phải được đưa vào sản xuất, kinh doanh so với lưu
thông một cách hợp lý.
Mức cung về tiền và dư nợ tín dụng trong mấy năm gần đây ở nước ta
liên tục tăng cao do các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sự duy trì liên
tục trong nhiều năm về dư nợ tín dụng cao và cung tiền lớn trong ngắn hạn có
tác dụng nhất định đối với tăng trưởng, nhưng lại là nguyên nhân đẩy lạm phát
tăng cao trong dài hạn.
Thực hiện các biện pháp nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, kiểm sốt
lạm phát, góp phần vào tăng trưởng bền vững, tăng dự trữ ngoại tệ,
khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh. Xây
dựng các ngân hàng thương mại nhà nước lớn mạnh về mọi mặt, đủ sức

làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương mại trong cơ chế thị
trường. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cở chế hoạt động cúa các ngân
hàng chính sách. Bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với công bằng, an sinh
xã hội.
Sáu là, Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý của
nhà nước về kinh tế - xã hội, kiên quyết phịng chống tham nhũng lãng phí.
Vai trị điều tiết nền kinh tế của Nhà nước là vô cùng quan trọng, đặc biệt
là nước ta lại đang xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN có
sự quản lý của Nhà nước. Vai trò điểu tiết nền kinh tế cảu Nhà nước là vô cùng
quan trọng. Cần quy định rõ nhiệm vụ của Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ,
tránh chồng chéo làm thay. Riêng với Chính phủ cần tập trung vào việc hoạch
định thể chế, chính sách, xây dựng các giải pháp, cải cách thủ tục hành chính,
tạo mơi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Giảm nhẹ cơ
cấu bộ máy các cơ quan Nhà nước và các chính quyền địa phương, tiếp tục cải
cách mạnh mẽ thủ tục hành chính.

21


Bên cạnh việc xây dựng bộ máy Nhà nước và cơ chế quản lý nền kinh tế,
cũng cần kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng. Thường xuyên bổ
sung sửa chữa luật phịng chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm.
Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng ở Trung ương và các địa phương cần hoạt
động tích cực, nói đi đơi với làm cương quyết, triệt để. Từ đó, ngăn chặn và
từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí – một trong bốn nguy cơ đe doạ ổn
định của kinh tế – xã hội mà Đảng ta đã xác định.

22



PHẦN III - KẾT LUẬN
Học thuyết kinh tế trọng thương tuy ít tính lý luận nhưng những tư tuởng
của chủ nghĩa trọng thương đã để lại làm bài học, và là tư tưởng chỉ đạo cho
việc phát triển kinh tế trong giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, làm cho
giai cấp tư sản thương nghiệp tích luỹ được một lượng vốn lớn cho sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản. Lý luận của học thuyết kinh tế trọng thương tạo ra một
bước phát triển lý luận kinh tế. Đây là học thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử
các học thuyết kinh tế, đã biết hướng vào việc phát triển công nghiệp bằng việc
tạo ra nguồn vốn lớn thơng qua ngoại thương bất bình đẳng, góp phần xố bỏ
các tư tưởng thần học thống trị trong xã hội lúc bấy giờ.
Ngày nay việc nghiên cứu các quan điểm của học thuyết kinh tế trọng
thương có ý nghĩa vơ quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Một số luận điểm
còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt theo xu thế tồn cầu hóa,
các các nước trên thế giới đều chuẩn bị cho minh một chinh sách dúng đắng để
mở rộng và hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có Việt Nam. Một số luận điểm
có giá trị trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước trong thời kỳ
hội nhập. Từ việc nghiên cứu các luận điểm của học thuyết kinh tế trọng
thương, và vận dụng các quan điểm của Đảng, bản thân em cũng nghiên cứu và
đưa ra một số giải pháp thực hiện trong quá trình mở rộng kinh tế quốc tế của
nước ta. Việc nghiên cứu học thuyết kinh tế trọng thương không chỉ giúp cho
bản thân em hiểu rõ hơn về thời kì tích luỹ ngun thuỷ của tư bản, tạo cơ sở
cho việc học tập mơn kinh tế chính trị, cũng như hiểu rõ hơn đường lối, chủ
chương của Đảng, và Nhà nước ta trong việc mở rộng kinh tế quốc tế nhằm xây
dựng đất nước ta “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,văn minh”.

23




×