MỤC LỤC
- Sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ với logic và lịch sử, bám sát
thực tiễn lịch sử để hiểu rõ cơ sở khách quan hình thành Đảng.........................................6
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để từ những quan điểm ở các tác phẩm khác
nhau để khái quát và trình bày theo hệ thống......................................................................6
- Sử dụng phương pháp so sánh với các tác phẩm của Lênin thấy được sự vận dụng sáng
tạo của Hồ Chí Minh sau này...............................................................................................6
- Sử dụng phương pháp tư duy để có cái nhìn biện chứng trong việc đánh giá Đảng.......7
7. Kết cấu tiểu luận...............................................................................................................7
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
tiểu luận có kết cấu 3 chương và 10 tiết..............................................................................7
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Những lý luận về Đảng kiểu mới là những nội dung cơ bản và quan
trọng của CNXHKH. Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển của xã hội,
Lênin đã kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm của C.Mác –
Ph.Ăngghen về lý luận. Các ông đã luận giải, chứng minh xã hội loài người
trải qua nhiều đấu tranh để khỏi áp bức bóc lột, nên cần phải có một tổ chức
lãnh đạo.Trong giai đoạn đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đã có rất nhiều
nhà kinh điển nghiên cứu và đưa ra “Đảng cộng sản”. Đảng Cộng sản đầu
tiên trên thế giới, như mọi người đều biết, phải nhiều năm sau khi Các-mác
qua đời mới được hình thành. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917),
Đảng Cộng sản Nga (Bôn-sê-vích) đã chính thức khai sinh, đó là tiền thân
của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này. Đảng Cộng sản Nga là kết quả của đấu
tranh vũ trang với các ‘kẻ thù giai cấp’ mà thành, và trong quá trình duy trì
sự tồn tại của Đảng, Đảng đã liên tục dùng bạo lực để đàn áp những đảng
viên và những người dân bất đồng chính kiến. Đảng xuất hiện từ phái Bôn-
sê-vích của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga, dưới sự lãnh đạo của
V.I.Lenin. Đảng lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng 10 năm 1917 dẫn tới sự lật
đổ Chính phủ Lâm thời Nga và thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
của thế giới. Với vai trò trung tâm do Hiến pháp Liên xô quy định, đảng
kiểm soát toàn bộ cấp bậc chính phủ tại Liên xô. Cách tổ chức của đảng
được chia thành các đảng cộng sản của các nhà nước cộng hoà Xô viết cấu
thành cũng như tổ chức đoàn thanh niên.
Đảng cũng là động lực của Quốc tế cộng sản, duy trì các liên kết tổ chức và
hỗ trợ các phong trào cộng sản ở Đông Âu, châu Á và châu Phi. Đảng chấm
2
dứt tồn tại với thất bại của cuộc đảo chính Xô viết năm 1991 và được kế
thừa bởi Đảng Cộng sản Liên bang Nga tại Nga và các đảng cộng sản của
các nước cộng hoà cũ hiện đã độc lập.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo và áp dụng Đảng kiểu mới cuả V.I.Lenin để làm cơ sở lý
luận và phương pháp luận cho việc nhận thức cũng như xác định con đường,
hình thức, bước đi của nước ta trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu
trong thời kỳ mới của công cuộc đổi mới.
Qua những lý do trên và với tư cách là một sinh viên chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội thì việc nghiên cứu Đảng là cần thiết cho việc bổ sung, tích lũy
kiến thức của bản thân. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: “Những luận
điểm cơ bản của V.I.Lenin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân”.
Làm đề tài tiểu luận của mình, nhằm hiểu rõ hơn sự phát triển sáng tạo
“Đảng kiểu mới”.
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Tác phẩm kinh điển của V.I.Lenin có rất nhiều vấn đề cần phải nghiên
cứu nhưng ở tiểu luận này tôi xin tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề “Đảng
kiểu mới”. Do hạn chế về thời gian và phạm vi đề tài nên trong tiểu luận này
tôi chỉ bàn về các vấn đề chung nhất.
- Khách thể nghiên cứu của đề tài là: Hoạt động nghiên cứu, đi sâu
nghiên cứu vấn đề “Đảng kiểu mới”
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: đi sâu nghiên cứu vấn đề “Đảng
kiểu mới”
- Đối tượng khảo sát của đề tài:
+Nhà nước và cách mạng
+Những nhiệm vụ trước mắt của “Đảng kiểu mới”
3
Giới hạn nghiên cứu vấn đề tập trung vào một số tác phẩm: Làm gì, Một
bước tiến hai bươc lùi, Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội Nga trong
cách mạng dân chủ, Nhà nước và cách mạng, Về quyền dân tộc tự quyết,
Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô Viết, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản, Thà ít
mà tốt, Sáng kiến vĩ đại...
Khẳng định niềm tin vào lí tưởng của Đảng vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.
3. Tình hình nghiên cứu.
Hiện nay có rất nhiều tài liệu, các công trình nghiên cứu, các sách báo,
tạp chí và nhiều trang website trên mạng internet viết về Các luận điểm về
chuyên chính vô sản.
- Đề cương bài giảng Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của
V.I.Lênin về CHXH KH của PGS TS Đỗ Công Tuấn (Chủ biên) – Khoa chủ
nghĩa xã hội khoa học – Học Viện báo chí và tuyên truyền – Hà nội tháng 2/
2009. Đây là một cuốn sách chuyên ngành, đề cập một cách toàn diện về
những nguyên lý của CNXHKH trong đó có đề cập đến nhưng lý luận về
Các luận điểm về Đảng kiểu mới. Đây là nguồn tài liệu chủ yếu đề tác giả
phát triển và thực hiện đề tài này.
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – Khoa chủ nghĩa xã hội khoa
học – Học viện Báo chí và Tuyên Truyền – Lưu hành nội bộ - Hà Nội, 2009.
Cuốn giáo trình này đã trình bày một cách toàn diện những lý luận cấu thành
CNXHKH, trong đó có trình bày về lý luận Các luận điểm về Đảng.
- Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hôi và lý luận con đường phát
triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta của TS Phạm Văn Chung - NXB CTQG –
Hà nội, 2005
4
Cuốn sách này cũng viết về hình thái kinh tế - xã hội ở phương diện
khái quát chung, nhằm đem đến cho bạn đọc cái nhìn chung nhất về Các
luận điểm về Đảng .
- Bên cạnh những sách báo, tạp chí, thông tin trên internet, với tư cách
là sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi còn được tiếp cận,
được học tập, nghiên cứu những tài liệu và trao đổi với giảng viên và học
viên về những vấn đề có liên quan đến đề tài Đảng.
Tuy nhiên các tác phẩm, các bài viết trên chỉ mới đề cập đến một khía
cạnh nhất định mà đề tài cần nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi hi vọng với đề
tài: “Nhũng luận điểm cơ bản của V.I.Lenin về Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân” .Tôi sẽ thấy rõ hơn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
- Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm, tác giả trình bày và phân
tích nhằm làm rõ sự phát triển về Đảng.
- Đồng thời, phân tích làm sáng tỏ sự vận dụng lý luận Đảng vào giải
phóng áp bức bóc lột của bọn giai cấp tư sản. Đặc biệt là Đảng cộng sản
Việt Nam vào sự nghiệp giải phóng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn hiện nay.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những quan điểm của V.I.Lenin về Đảng kiểu mới.
- Nghiên cứu sự phát triển sáng tạo Đảng kiểu mới của V.I.Lênin và sau
này Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo.
- Trên cơ sở đó, đánh giá khách quan về sự vận dụng lý luận Đảng kiểu
mới của V.I.Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng vào sự nghiệp đấu
tranh giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay
5. Đóng góp của tiểu luận
5
C.Mác, Ph.Ăngghen và đặc biệt V.I.Lênin là bậc tiền bối của kho tàng
lý luận các ông đã để lại một khối lượng đồ sộ các tác phẩm, điều đó giúp
cho chúng ta có thể tìm hiểu và kế thừa những kho tàng lý luận đó. Những
tác phẩm kinh điển của hai ông là một nguồn tài liệu rất quý giúp cho chúng
ta thấy được giá trị và cần phải học hỏi nhằm củng cố kiến thức giúp cho tôi
rất lớn trong con đường học tập của mình, đặc biệt là sẽ giúp cho tôi hoàn
thành xuất sắc phần tiểu luận của mình. Vậy qua tiểu luận này thì tôi sẽ học
hỏi được rất nhiều từ hai nhà lý luận nổi tiếng và từ thầy cô, bạn bè.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
V.I.Lênin đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình đấu
tranh chống áp bức bóc lột là phải có Đảng cầm quyền.
Về mặt lý luận, Đảng là nhân tố cơ bản, nội dung cốt lõi của tiểu luận
mà tôi đã chọn, xuất phát từ những lý luận và thực V.I.Lênin đã nêu. Một
mặt, Đảng sẽ phản ánh bản chất của các loại hình xã hội lúc bấy giờ, xã hội
giữa người và người là vấn đề cần phải quan tâm bàn tới lợi ích. Mặt khác,
Đảng cũng sẽ giúp cho chúng ta thấy được tầm quan trọng và vai trò vị thế
của nó sẽ gắn liền, liên quan đến sự phát triển của đất nước và con người,
cũng là động lực phát triển kinh tế – xã hội.
- Sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ với logic và lịch
sử, bám sát thực tiễn lịch sử để hiểu rõ cơ sở khách quan hình thành
Đảng.
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để từ những quan điểm ở các tác
phẩm khác nhau để khái quát và trình bày theo hệ thống.
- Sử dụng phương pháp so sánh với các tác phẩm của Lênin thấy được sự
vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh sau này.
6
- Sử dụng phương pháp tư duy để có cái nhìn biện chứng trong việc đánh giá
Đảng.
7. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của tiểu luận có kết cấu 3 chương và 10 tiết.
7
NỘI DUNG
Chương 1. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung chính các tác phẩm.
1.1 Khái quát hoàn cảnh lịch sử từ khi Tuyên Ngôn Đảng của Cộng Sản ra
đời cho đến những năm 60-70 của thế kỷ XIX
Trong khoảng thời gian này hoàn cảnh lịch sử có vai trò và ý nghĩa to
lớn để các ông viết nên những tác phẩm của mình. Qua đây tôi xin được
trình bày hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản, Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Nội chiến ở Pháp, Phê phán cương lĩnh Gô
Ta.
Về kinh tế - xã hội:
Nền đại công nghiệp phát triển nhanh chóng đã phát minh nhiều các
công cụ lao động, hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại , kéo theo đó các yếu
tố cơ sở hạ tầng của nền kinh tế cũng phát triển nhanh: giao thông vận tải
đường sắt , đường bộ, đường biển đã tạo ra cơ sở nền tảng cho sự phát triển
kinh tế và chỉ có hơn một trăm năm đã gấp rất nhiều lần.
Sự mở rộng trong nước và khu vực châu Âu đã giúp cho chủ nghĩa tư
bản có thể nhanh chóng khắc phục khủng hoảng để tiếp tục phát triển.
Về chính trị - xã hội:
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng diễn ra
gay gắt và quyết liệt.
Vậy qua đó chúng ta thấy được hoàn cảnh dẫn đến sự ra đời của các tác
phẩm từ đó các tác phẩm cần phải đưa ra được phương pháp để giải quyết
khó khăn đó. Bởi vậy, việc các nhà kinh điển như C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đưa ra một số luận điểm về chuyên chính vô sản ở mỗi tác phẩm và những
luận điểm đó sẽ đi tới giải quyết những vướng mắc trong xã hội.
8
Hoàn cảnh lịch sử “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là lúc này do tình
hình kinh tế xã hội, chính trị xã hội ở châu Âu, Bắc Mỹ những năm giữa thế
kỷ XIX gặp nhiều mâu thuẫn, khó khăn.
Về kinh tế: Lúc này cũng là lúc có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất và hệ quả kinh tế xã hội của nó. Nền đại công nghiệp phát triển
nhanh chóng đã phát minh nhiều các công cụ lao động, hệ thống máy móc,
thiết bị hiện đại , kéo theo đó các yếu tố cơ sở hạ tầng của nền kinh tế cũng
phát triển nhanh: giao thông vận tải đường sắt , đường bộ, đường biển đã tạo
ra cơ sở nền tảng cho sự phát triển kinh tế và chỉ có hơn một trăm năm đã
gấp rất nhiều lần, từ đó nó sẽ tác động mang tính hai mặt. Mặt thứ nhất là
làm tăng năng suất, hiệu quả ngày càng tăng… Mặt thứ hai nó tác động
ngược trở lại là những người công nhân bị áp bức bóc lột một cách nặng nề
và tàn bạo.
Lực lượng lao động xã hội được phát triển mạnh. Giai cấp công nhân ra
đời và phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu, chất lượng cùng với các
yêu cầu tích lũy tư bản, của phát triển đại công nghiệp. Trong sản xuất vật
chất, công nhân đã thực sự là lực lượng lao động chủ yếu, nguồn lao động
của họ dấn tới sự tăng nhanh của cải vật chất và sự giàu có cho xã hội tư
bản. Chính đại công nghiệp phát triển đã dẫn tới mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất, từ đó xuất hiện xung đột ngoài xã hội.
Tư liệu sản xuất ngày càng tập trung. Các tài nguyên khoáng sản được
khai thác mạnh mẽ phục vụ cho công nghiệp chế biến, tạo ra ngày càng
nhiều sản phẩm cho tiêu dùng và sản xuất.
Bởi vậy, toàn bộ các thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất phát
triển với một trình độ kỹ thuật công nghệ hiện đại và với một tính chất xã
hội hóa cao trong phạm vi từng công ty, doanh nghiệp. Sự lớn mạnh và tăng
9
trưởng đó của lực lượng sản xuất là do tác động trực tiếp bởi quan hệ sản
xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đồng thời chính sự phát triển ấy cũng tự nó
làm sâu sắc và làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập của một
phương thức sản xuất tư bản: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất là chiếm hữu
tư nhân tư liệu sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất, chính
mâu thuẫn này được phản ánh trong đời sống xã hội chính trị của châu Âu
và các nước tư bản chủ nghĩa.
Do vậy tình hình kinh tế xã hội có tác động rất lớn cho sự ra đời của tác
phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” .
Về chính trị xã hội:
Có sự phân chia và hình thành cơ cấu xã hội – giai cấp mới:
Những năm giữa thế kỷ XIX, giai cấp tư sản đã xác lập về cơ bản địa vị
thống trị không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên lĩnh vực chính trị - xã
hội. Trong nhà nước tư sản, các giai cấp và tầng lớp phong kiến quý tộc suy
yếu và dần tiêu vong hoặc là bắt tay liên kết, chịu sự thống trị chính trị của
giai cấp tư sản nhằm duy trì, bảo vệ các đặc lợi và đặc quyền của mình, hoặc
là bị tư sản hóa, đi vào guồng máy kinh tế chính trị của giai cấp tư sản.
Trong khi đó, tuyệt đại bộ phận cư dân thuộc các giai cấp và tầng lớp sở
hữu nhỏ: nông dân, thợ thủ công, những tiểu thị dân buôn bán nhỏ… bị phá
sản. Đại đa số trở thành những người vô sản, còn phần ít là tư sản. Giai cấp
công nhân lại bị thống trị cả về phương diện chính trị và xã hội. Họ gần như
không có bất cứ quyền lợi nào thỏa đáng. Cường độ lao động cao, điều kiện
làm việc và các quyền dân chủ, dân sinh xã hội không được đảm bảo …
Do vậy hơn bao giờ hết, một lý luận cách mạng khoa học, phản ánh và
thể hiện các nguyện vọng xã hội chủ nghĩa đã được thực tiễn phong trào
công nhân đặt ra và đòi hỏi một cách hết sức cần thiết. Trong khi đó, lý luận
10
của chủ nghĩa xã hội ở Pháp và Anh do H.Xanhximong, S. Phuriê và R.
Ooen đưa ra không thể đáp ứng được đòi hỏi ấy.
Vào thời điểm này, nhiều đại biểu tư tưởng của giai cấp công nhân, đại
diện cho nhiều tổ chức do giai cấp công nhân sáng lập nên đã bước vào hoạt
động chính trị, đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân. Tiêu biểu trong
số họ là C.Mác và Ph.Ăngghen.
Hơn nữa, trong những năm 40 của thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã hoàn thành nhiều tác phẩm lý luận quan trọng, trong đó đặc biệt là những
tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh … C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phát hiện ra và hoàn thành lý luận duy vật về lịch sử và học
thuyết giá trị thặng dư, từ đó các ông đã phát hiện ra lực lượng xã hội mới
đóng vai trò là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh thủ tiêu chủ nghĩa
tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nhờ đó, các hạn chế lịch sử của chủ
nghĩa xã hội không tưởng đã được khắc phục. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành
một khoa học. Để công bố các phát hiện có tính chất cộng sản ấy, để đáp
ứng đòi hỏi cả về tổ chức (sự thống nhất) cả về tư tưởng và chính trị của
phong trào công nhân, C.Mác đã hoàn thành tác phẩm “ Tuyên ngôn Của
Đảng cộng sản”.
Vậy tác phẩm ra đời không chỉ là tài liệu lý luận quan trọng mà còn là
cương lĩnh chính trị đầu tiên của giai cấp công nhân. Trong đó có đề cập đến
chuyên chính vô sản.
Hoàn cảnh tác phẩm “ Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 – 1850”
Về kinh tế - xã hội:
Nạn khoai tây bị sâu bệnh và nạn mất mùa năm 1845 – 1846, cuộc
khủng hoảng kinh tế trên toàn châu Âu năm 1845 – 1847 đã tác động sâu sắc
đến tình hình xã hội.
11
Do sự phát triển nhanh chóng đại công nghiệp và sự mở rộng thị trường
trong nước và khu vực.
Vậy cơ sở kinh tế đó sẽ tác động tới các nhà kinh điển như C.Mác và
Ph.Ăngghen.
Về chính trị - xã hội:
Đó là sự thối nát của triều đại quân chủ chuyên chế của dòng quý tộc
Osooc-lê-ăng do phi-líp đứng đầu đã dẫn tới cuộc cách mạng tháng 2 năm
1848, lật đổ nền quân chủ tháng 7 của Lui-philip, xây dựng nền cộng hòa xã
hội ở Pháp với việc thiết lập chính phủ lâm thời.
Sau thắng lợi giai cấp tư sản Pháp đã dùng hàng loạt thủ đoạn lừa bịp,
đẩy giai cấp công nhân tới cuộc khởi nghĩa tháng 6 năm 1848 và dùng bạo
lực đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa đó đẩy lùi cách mạng. Lợi dụng mâu
thuẫn nội bộ của giai cấp tư sản và lòng tin của tầng lớp tiểu tư sản Lu-i-bô-
na-pác-tơ đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp tháng
12 năm 1848. Đó là thất bại của phái tư sản cộng hòa, là thắng lợi của phái
tư sản quân chủ và cách mạng tháng hai năm 1848 bị đẩy lùi lần thứ hai.
Nhằm để bảo vệ và củng cố địa vị của mình, cuối cùng giai cấp tư sản
đã phải lộ nguyên hình khi chúng dùng những thủ đoạn như đã sử dụng đối
với giai cấp công nhân để đẩy giai cấp tư sản thành thị, mà đại biểu là phái
núi xuống đường nhân danh “trật tự”, giai cấp tư sản đàn áp giai cấp tiểu tư
sản trong tháng sáu năm 1849 cũng là thất bại của phái tư sản cộng hòa, là
thắng lợi của phái tư sản quân chủ và đẩy nhanh được quá trình thành lập lại
nền quân chủ ở Pháp.
Trong bối cảnh phức tạp cuộc đấu tranh giai cấp ở nước Pháp lúc đó, sự
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp tiểu tư sản và tư sản cộng hòa
thành liên minh chống đại tư bản (phái quân chủ) đã hình thành và nhờ đó
12
họ đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu bổ sung các đại biểu vào Quốc
Hội ngày 20/03/1850. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân trong khối liên minh đó, phe “trật tự” tìm cách tấn
công trở lại trước hết bằng việc công bố dư luận “Hủy bỏ chế độ đầu phiếu
phổ thông” và thông qua nhiều luật mang tính chất phản động khác …
Trong thời kỳ đó, cuộc đấu tranh của phe “trật tự” với tổng thống và
cuộc đấu tranh trong nội bộ phe “trật tự” diễn ra ngày càng gay gắt. Lu-i-Bô-
na-pác - tơ lợi dụng mâu thuẫn đó, thực hiện âm mưu làm suy yếu phe này
và tăng cường lực lượng của mình.
Sau thất bại của phong trào cách mạng 1848-1850 ở Pháp, Đức, Áo,
Hung, Italia … phong trào vô sản châu Âu tạm thời gặp nhiều khó khăn như
là: “Liên đoàn những người cộng sản” hoạt động yếu, kém hiệu quả; nhiều
tổ chức cơ sở đảng không liên hệ được với trung ương và mất quần chúng.
Trong khi đó, những năm 1848-1850 kinh tế TBCN ở châu Âu nói
chung và nước Pháp nói riêng đã bắt đầu phục hồi và bước vào giai đoạn
hưng thịnh.
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, thời kỳ cách mạng 1848-1850 là thời
kỳ kiểm nghiệm lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa C.Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng và trong thời kỳ ấy, hoạt động của C.Mác
được tập trung vào việc đề xuất những vấn đề tư tưởng chính trị, chiến lược,
sách lược cách mạng để góp phần chỉ đạo phong trào cách mạng, nhưng
cách mạng không thành công.
Hoàn cảnh ra đời tác phẩm “Nội chiến ở pháp”
Thứ nhất: Vào những năm 60-70 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất
tư bản đã cơ bản hoàn thành ở Tây Âu. Chủ nghĩa tư bản đang chuyển sang
13
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và có sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, thay
đổi sâu sắc về chính trị.
Về kinh tế:
Nền công nghiệp phát triển mạnh và đã hoàn thành ở một số nước Tây
Âu như Anh, Đức, Pháp …
Về chính trị:
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã thay thế mâu
thuẫn giữa tư sản và phong kiến và trở thành mâu thuẫn chủ yếu, ngày càng
gay gắt.
Sau cách mạng những năm 1848-1849, chế độ chính trị phản động được
xác lập, củng cố ở nhiều nước châu Âu. Giai cấp tư sản đã bộc lộ bản chất
phản động của nó. Giai cấp tư sản muốn thông qua chiến tranh xâm lược để
bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm thị trường và đẩy mâu thuẫn trong nước ra
ngoài nước (đặc biệt là Pháp và Đức).
Thứ hai: tình cảnh nước Đức và Pháp cuối thế kỷ XIX.
Ở nước Đức:
Đây là thời kỳ thống trị của Bôx C.Mác (1815-1898) nhà quý tộc Đức,
một trong những kẻ hô hào dùng vũ lực đàn áp phong trào cách mạng trong
những năm 1847-1848 và là kẻ ủng hộ chính phủ Chie pháp đàn áp công xã
Pa-ri 1871. Bôx C.Mác đã từng làm sứ giả Phổ, là đại diện của giai cấp tư
sản và địa chủ phản động.
Đại bộ phận kế hoạch thống nhất nước Đức của Bôx C.Mác được thực
hiện. Năm 1867, liên bang Đức được thành lập, dưới quyền Phổ gồm 18
nước, Bắc Đức và 3 thành phố tự do là Hăm bua, Brêmen, Liubêch.
Do đó, Bôx C.Mác muốn hoàn thành việc thống nhất nước Đức bằng
chiến tranh, tức con đường thống nhất từ trên xuống của vương triều Phổ.
14
Ở nước Pháp:
Đây là thời kỳ thống trị của đế chế II.
Về kinh tế:
Nền công nghiệp Pháp đang tiếp tục phát triển. Giai cấp tư sản chủ yếu
đầu tư vào thương nghiệp, giao dịch cho vay nặng lãi, công nghiệp tiêu dùng
xa xỉ, không đầu tư vào công nghiệp nặng. Do đó Pa-ri trở thành trung tâm
ăn chơi của thế giới tư bản.
Về chính trị:
Nền thống trị của đế chế II chỉ là hình thức chính quyền duy nhất có thể
có được trong một thời kỳ mà giai cấp tư sản đã từng mất năng lực trị nước
đó rồi, mà giai cấp công nhân thì chưa đạt được năng lực đó.
Giai cấp tư sản tha hồ làm giàu bằng việc tăng cường bóc lột nhân dân
lao động. Đối nội là nền độc tài quan liêu quân phiệt, bóp nghẹt dân chủ.
Do đó nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh, trong đó mâu thuẫn giữa nhân dân
lao động với chính quyền nhà nước Bônapác trở lên hết sức gay gắt. Mâu
thuẫn này như là nguyên nhân thường trực của một cuộc cách mạng nhằm
lật đổ hình thức nhà nước do Lu-i- Bônapác lập ra. Lập ra nền cộng hòa lần
thứ ba.
Đối ngoại là chính sách sô vanh phản động của Bônapác .
Napônêon III muốn chia cắt vĩnh viễn nước Đức vì không muốn bên
cạnh mình có một quốc gia thống nhất hùng mạnh.
Vậy đó chính là cơ sở C.Mác thấy và viết tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”.
Thứ ba: phong trào công nhân và hoạt động của C.Mác – Ph.Ăngghen.
Những năm 70, phong trào công nhân dần được phục hồi sau thời kỳ
thoái trào những năm 1848-1849 do sự đàn áp của bọn phản động và sự
phản bội của giai cấp tư sản tự do. Tuy nhiên phong trào lại chịu ảnh hưởng
15
nhiều của các trào lưu tư tưởng như Lat Xan, Bacu min, công đoàn Anh …
chủ nghĩa C.Mác lúc đó mới chỉ là một trong những trào lưu XHCN, mà
chưa chiếm được ưu thế trong phong trào công nhân. Cho nên mục tiêu
chung của phong trào thời kỳ này là thống nhất lực lượng công nhân, trước
hết về mặt tổ chức.
Kết quả hoạt động của C.Mác – Ph.Ăngghen là sự ra đời của quốc tế I
năm 1864. Quốc tế I đã hoàn thành nhiệm vụ và tuyên bố giải tán năm 1872.
Hoạt động của C.Mác – Ph.Ăngghen trên lĩnh vực lý luận bao gồm việc
hoàn thành quyển I bộ “Tư bản” làm cho học thuyết C.Mác trở lên chín
muồi.
Qua đó C.Mác đã bổ sung hoàn chỉnh căn bản học thuyết chuyên chính
vô sản, đồng thời đưa ra chiến lược, sách lược về chiến tranh, hòa bình dân
tộc.
Về thực tiễn, C.Mác đã trực tiếp tham gia phong trào công nhân, tham
gia các sự biến chính trị với tư cách người lãnh đạo, người vạch ra chiến
lược, sách lược hành động cho phong trào công nhân. C.Mác – Ph.Ăngghen
là người thành lập và chỉ đạo hoạt động quốc tế I.
C.Mác đã nhân danh quốc tế I, viết tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” để chỉ
đạo hành động cho giai cấp vô sản, đặc biệt là giai cấp vô sản ở Pháp và
Đức.
Hoàn cảnh lịch sử tác phẩm “Phê phán cương lĩnh GôTa” .
Phê phán cương lĩnh GôTa là một trong những tác phẩm quan trọng
nhất của C.Mác và hoàn cảnh ra đời là:
Tình hình kinh tế - xã hội, chính trị xã hội của chủ nghĩa tư bản châu
Âu những năm 70 thế kỷ XIX.
16
Về kinh tế - xã hội:
Vào những năm giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang
tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao. Hình thức tích lũy nguyên thủy
vẫn tồn tại và vẫn là một hình thức cơ bản chủ yếu của tích lũy tư bản.
Do cường độ lao động của người công nhân trong hầu hết các quốc gia
tư bản chủ nghĩa đều kéo dài 10 – 12 giờ/ngày và có tới 6 – 7 ngày/ tuần lễ.
cường độ lao động nặng nhọc, thời gian lao động kéo dài là hiện tượng rất
phổ biến.
Do điều kiện làm việc hết sức tồi tệ, lao động trong các điều kiện ồn ào,
thiếu ánh sáng, thiếu không khí, không hoặc gần như không có các thiết bị
bảo đảm vệ sinh công nghiệp, chỗ ở chật chội, tồi tàn và chung đụng…
Do người lao động từ các vùng nông thôn bị chiếm đoạt ruộng đất đổ về
các thành phố, công xưởng xí nghiệp tạo nên một sự cạnh tranh gay gắt về
việc làm, đời sống, thu nhập tiền công… giữa những người lao động.
Chính trị xã hội và tương quan lực lượng tư sản – vô sản trên phạm vi
quốc tế.
Từ các điều kiện và bối cảnh kinh tế và đời sống trên tất yếu dẫn đến
những phản kháng mạnh mẽ của giai cấp vô sản.
Trước hết là các đòi hỏi về tăng tiền công, giảm giờ làm, cải thiện điều
kiện nơi ăn ở và điều kiện làm việc cùng các quyền được đảm bảo sinh
mạng, sức khỏe trở thành mục tiêu thiết yếu của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân.
Bên cạnh đó là các nhu cầu về dân chủ cũng đã được đặt ra cấp thiết,
đòi có quyền phổ thông đầu phiếu, thành lập và sinh hoạt trong các tổ chức
công đoàn, hiệp hội của mình.
17
Vậy chúng ta thấy đấu tranh cho các nhu cầu dân chủ và xã hội đang trở
nên hết sức cấp thiết của phong trào công nhân lúc đó.
Ở Pari lúc đó là sự kiện có tác động to lớn đến phong trào công nhân,
tác động cả mặt tích cực và tiêu cực.
Thứ nhất, từ công xã Pa ri, những lãnh tụ trung kiên của giai cấp công
nhân mà tiêu biểu là C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành phân tích một cách
khoa học, khách quan nguyên nhân diễn biến, các thành công, cũng như sự
thất bại đó.
Thứ hai, một số lãnh tụ khác vì nhiều lí do đã “hoảng hốt” trước sự thất
bại đau lòng của “Tuần lễ đẫm máu”. Họ chỉ thấy mặt trái, chỉ thấy sự mạnh
mẽ điên cuồng của bạo lực tư sản. Với lập trường lao động, họ không thể tìm
ra các nguyên nhân khách quan và các bài học kinh nghiệm từ công xã.
Phong trào công nhân Đức
Đảng công nhân xã hội dân chủ Đức được thành lập tại đại hội diễn ra ở
Aixơnắc năm 1869. Đại hội có sự tham gia của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã
thông qua cương lĩnh về sau gọi là cương lĩnh Aixơnắc. Với sự ra đời của
đảng, phong trào công nhân Đức đã dâng lên rất cao, trở thành một trung
tâm cách mạng châu Âu.
Cùng thời gian này, phong trào công nhân cũng đã dẫn đến sự thành lập
của tổng hội công nhân toàn Đức do Latxan là thủ lĩnh.
Tác phẩm được viết từ tháng 4 đến đầu tháng 5 năm 1875, dưới tên gọi
“Những điểm lưu ý đối với cương lĩnh của đảng công nhân Đức”.
Do sự đàn áp thẳng tay của chính quyền tư sản sau sự kiện công xã,
nhiều lãnh tụ của Đảng dân chủ xã hội Đức bị bắt và bị cầm tù, trong đó có
C. Liếp- nếch, chủ tịch đảng.
18
1.2 Nội dung chính các tác phẩm
Từ tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” trở về sau thì các luận
điểm chuyên chính vô sản đã được các ông đề cập rất rõ và đã đưa ra
các nhiêm vụ, công việc, mục tiêu cần phải đạt được của chuyên
chính vô sản. Đó là, các ông đã chỉ ra Mục đích trước mắt của những
người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô
sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền
[4,616]. Nhưng bản "Tuyên ngôn" còn nói thêm rằng "các đẳng cấp trung
gian... chỉ (trở thành) cách mạng... trong chừng mực họ thấy họ sẽ phải rơi
vào hàng ngũ giai cấp vô sản".
“Tuyên ngôn Đảng cộng sản” nói về sứ mệnh lịch sử giai cấp
công nhân, tính tất yếu của cách mạng vô sản và chuyên chính vô
sản. Trước hết, giai cấp vô sản là giai cấp đông đảo nhất, sinh ra và
lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Trong tất cả
các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp
vô sản là thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Giai cấp vô sản, trái
lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. “Đại công nghiệp
đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã
chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng
hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ
thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công
nghiệp; mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng
phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của
19
họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại xuống phía sau”[4,
598 – 599]. Đây chính là tính tất yếu dẫn đến sự cần thiết phải có
chuyên chính vô sản.
Điều kiện là phải có các quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân.
Các ông quan niệm đấu tranh của giai cấp công nhân là một quá trình , trải
qua nhiều giai đoạn, từ thấp lên cao, từ tự phát nhỏ, lẻ dần dẫn đến ngày
càng có tính chất tự giác hơn, cuối cùng là tự giác.
Tính tất yếu nữa là giai cấp tư sản không chỉ tạo ra giai cấp vô sản qua
sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế, mà còn rèn giũa trang bị một phần
tri thức về tổ chức chiến tranh. Chính sự rèn giũa giai cấp vô sản bởi môi
trường và kỷ luật lao động của nền đại công nghiệp, sự rèn giũa trong cuộc
đấu tranh chính trị chống giai cấp phong kiến dưới ngọn cờ tư sản và các
cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của chính mình đã làm cho giai cấp vô
sản trở thành lực lượng có tổ chức kỷ luật.
Chính điều kiện kinh tế xã hội và chính trị xã hội của chủ nghĩa tư bản
đã quy định một cách tất yếu rằng giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có
sứ mệnh lịch sử: thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới –
chế độ XHCN và CSCN.
20