Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

LUAN VAN CAO HOC CO GIAT DO SOT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.1 KB, 85 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Co giật ở trẻ em là một tình trạng rối loạn chức năng sống nghiêm trọng
rất thường gặp [26]. Co giật ở trẻ em là một tình trạng cấp cứu vì trẻ có thể tử
vong trong cơn do ngạt thở, hoặc có thể bị các di chứng tâm thần kinh do
thiếu oxy não nếu không được sơ cứu tốt [10].
Nguyên nhân gây co giật rất phong phú nhưng hay gặp nhất là co giật
do sốt đơn thuần (CGDSC) [3],[11],[16]. Theo Sheila J.Wallace có đến 3% trẻ
em nói chung bị co giật do sốt [66]; nếu chỉ tính cho trẻ nhỏ thì tần suất co
giật do sốt theo Robert H.A.Haslam là 3-4% [63]; theo nghiên cứu của Hauser
W.A thì 3% dân số của vùng Rochester thuộc bang Minnesota, Hoa Kỳ bị
CGDS [50].
Nelson và Ellenburg đã theo dõi 54.000 trẻ em từ sơ sinh đến 7 tuổi, thì
có 1.821 trẻ (3,3%) là có co giật 1 hay nhiều lần[60]. Còn theo Bruce O.Berg
thì có đến 1-2% tổng số trẻ em bị co giật không có sốt [43].
Tại Viện Nhi Trung ương, trong 7 năm từ năm 1984 - 1990, tỷ lệ co giật
do sốt ở trẻ dưới 7 tuổi trên tổng số trẻ vào khoa Cấp cứu lưu là 2,12%[5].
Cũng tại Viện nhi, từ tháng 6/1982 - 12/1990 có 495 trẻ em bị động kinh vào
điều trị thì có 23 cháu (4,6%) có tiền sử bị co giật do sốt [43].
Một trong những nguyên nhân làm tăng cao tấn suất mắc bệnh nhiễm
khuẩn trẻ em ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam là do kiến
thức, thái độ, thực hành xử trí của bà mẹ còn hạn chế trong đó có bệnh
CGDS. Bùi Bỉnh Bảo Sơn nghiên cứu 100 bà mẹ có con CGDS thấy đa số bà
mẹ lo lắng khi trẻ xuất hiện CGDS, ảnh hưởng đến tính mạng (93,0%), nguy
cơ tổn thương não (84,0%), nguy cơ động kinh sau này (74%). Nghiên cứu
cũng cho thấy họ còn có quan niệm sai về CGDS và chưa biết cách xử trí khi
trẻ bị CGDS (83%) [21].


2



Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu CGDS ở trẻ em [21],
[39],[47],[52]… Trong vài thập kỷ gần đây, CGDS và mối liên quan với động
kinh và phát triển tâm thần kinh sau này đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả
và hiện vẫn còn tranh cãi [70].
Ở Việt Nam, CGDS khá thường gặp nhưng công trình nghiên cứu về
CGDS ở trẻ em còn ít đặc biệt kiến thức-thái độ-thực hành về bệnh CGDS
còn hạn chế [21],[26],[47],[56]. Do đó chúng tôi muốn thực hiện đề tài này
với các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học lâm sàng và nguyên nhân của trẻ bị
co giật do sốt tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng.
2. Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành của bố mẹ trẻ về co giật do sốt.
Hy vọng kết quả thu được sẽ góp phần vào chẩn đoán, xử trí, tiên
lượng, dự phòng cũng như hạn chế các biến chứng của CGDS gây ra. Đồng
thời, góp phần giúp bố mẹ trẻ có kiến thức, thái độ, xử trí đúng khi con của họ
bị CGDS.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Các định nghĩa và thuật ngữ

1.1.1.

Sốt
Mặc dù các ý kiến chưa hoàn toàn thống nhất, nhưng định nghĩa sau


đây về sốt được hầu hết các tác giả chấp nhận: “sốt là hiện tượng tăng nhiệt
độ cơ thể khi nhiệt độ đo ở hậu môn trên 37,8 oC (ở trẻ bú mẹ) hoặc trên 38oC
(ở trẻ lớn hơn) trong điều kiện cơ thể nghỉ ngơi – do hậu quả của sự rối loạn
trung tâm điều nhiệt ở vùng dưới đồi làm tăng ngưỡng thân nhiệt”[1].
Gần đây, để cho tuyến y tế cơ sở khỏi bỏ sót những trường hợp bệnh rất
nặng có sốt, chương trình Xử trí lồng ghép trẻ bệnh (IMCI: Intergrated
management of chilhood illness) của tổ chức Y tế thế giới quy định “Gọi là
sốt khi nhiệt độ cặp ở nách (chưa cộng thêm 0,5 oC) là từ 37,5oC trở lên; hoặc
khi sờ ở bụng hoặc sờ ở nách trẻ ta thấy nóng hơn bình thường; hoặc trong
bệnh sử gia đình khai trẻ có sốt”[79].
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhiều loại sản
phẩm nhiệt kế khác nhau đã được sản xuất để đo thân nhiệt của cơ thể. Trong
đó có loại nhiệt kế đo ở tai cho độ chính xác khá cao (sai số 0,1 oC) và sốt là
khi đo nhiệt độ ở tai >37,5oC.
1.1.2.

Co giật
Co giật là triệu chứng rối loạn nhất thời, kịch phát chức năng não, có

thể biểu hiện bằng rối loạn về vận động, về ý thức, về hành vi, về cảm giác
hay về chức năng tự điều khiển một cách đơn thuần hay phối hợp. Một số co
giật chỉ có rối loạn vận động bất thường, không có kèm rối loạn hay mất ý
thức [7].


4

Co giật là hậu quả biểu hiện của một tình trạng phóng xung điện bất
thường, không tự ý, quá mức, đồng thời của một quần thể những tế bào thần

kinh ở não [61].
1.1.3. Co giật do sốt
Tháng 5 năm 1980, Viện quốc gia về sức khỏe của Hoa Kỳ đã tổ chức
một cuộc hội thảo và nhất trí định nghĩa:
“Co giật do sốt là một hiện tượng co giật xảy ra ở trẻ nhỏ, thường là
lứa tuổi từ 3 tháng đến 5 tuổi, kết hợp với sốt cao nhưng không do nhiễm
khuẩn nội sọ hoặc do một nguyên nhân xác định nào khác” [37].
1.1.4.

Động kinh
Động kinh là những rối loạn kịch phát các chức năng của não về vận

động và hoặc về cảm giác, giác quan, tâm thần, có hoặc không kèm theo mất
ý thức; xảy ra từng cơn, có tính chất định hình, tái diễn nhiều lần; cùng với
hiện tượng phóng điện quá mức của các Neuron ở vỏ não [4].
1.1.5.

Trạng thái sốt cao co giật liên tục
Là từ dùng để chỉ những cơn co giật do sốt toàn thân hay bán thân mà

kéo dài liên tục trên 30 phút, hoặc nhiều cơn ngắn hơn 30 phút nhưng xảy ra
kế tiếp nhau và giữa các cơn thì ý thức trẻ không trở lại bình thường [57].
1.1.6.

Đợt co giật do sốt
Là khoảng thời gian được tính từ lúc khởi phát của bệnh có sốt cho đến

lúc kết thúc bệnh ấy mà trong thời gian đó có cơn co giật do sốt. Trong một
đợt co giật do sốt có thể có một hoặc nhiều cơn co giật [49].
1.1.7.


Co giật do sốt đơn thuần và co giật do sốt phức tạp
Co giật do sốt có 2 thể lâm sàng mà tên gọi và định nghĩa của các thể

lâm sàng đó hiện nay vẫn chưa phải đã hoàn toàn thống nhất:
William T.Zempsky thì chia co giật do sốt làm 2 loại [80]:


5

 Co giật do sốt đơn giản (simple febrile seizures): Là co giật do
sốt mà
- Cơn co giật toàn thể
- Cơn co giật ngắn dưới 15 phút
- Chỉ có < 2 cơn trong 24 giờ
 Co giật do sốt phức tạp (complex febrile seizures): Là co giật do
sốt mà
- Cơn co giật cục bộ
- Hoặc cơn kéo dài hơn 15 phút
- Hoặc có nhiều hơn 2 cơn trong 24 giờ
Nhưng có tác giả như Robert H.A.Haslam lại dùng từ co giật do sốt
không điển hình (Atypical febrile seizures) thay cho từ co giật do sốt phức tạp
(complex febrile seizures) [63].
Cách phân loại co giật do sốt của các tác giả ở Việt Nam cũng chưa
thống nhất:
Lê Đức Hinh [6], Hồ Hữu Lương [12] phân co giật do sốt thành:
 Co giật do sốt đơn thuần hoặc co giật do sốt không có biến chứng
là co giật do sốt mà
- Cơn co giật toàn bộ
- Xảy ra ở các trẻ phát triển bình thường

- Các cơn thường ngắn
- Không xảy ra nhiều lần trong ngày
- Sau cơn trẻ không có triệu chứng thần kinh bất thường nào
 Co giật do sốt có biến chứng là co giật do sốt mà
- Xảy ra cục bộ hoặc thiên về một bên
- Các cơn kéo dài
- Xảy ra nhiều lần trong ngày


6

- Có triệu chứng thần kinh bất thường sau khi đã hết cơn giật.
Nguyễn Công Khanh thì chia ra “Co giật do sốt đơn thuần, lành tính”
và “Co giật do sốt phức tạp” [7],[8].
Bảng 1.1. Các tiêu chuẩn để phân biệt co giật do sốt đơn thuần với co giật
do sốt phức tạp (trích dẫn từ [7],[8],[9])
Đặc điểm

Co giật do sốt đơn

Co giật do sốt phức tạp

Tuổi mắc bệnh

thuần, lành tính
6 tháng – 5 tuổi

Bất kỳ

Thân nhiệt


Trên 39oC

Dưới 39oC cũng giật

Tính chất co giật

Lan tỏa

Lan tỏa hoặc khu trú

Thời gian co giật

Ngắn, dưới 10 phút

Dài, trên 20 phút

Tần số co giật/24 giờ

Ít, 2-4 lần

Tái diễn nhiều lần

Yếu tố gia đình

Không

Có người động kinh

Nước não tủy


Bình thường

Biến đổi

Điện não đồ ngoài cơn
Bình thường
Biến đổi
Các tác giả cũng chưa thống nhất với nhau trong cách phân loại co giật
do sốt [2],[15],[16],[27].
Viện quốc gia về sức khỏe Hoa Kỳ qua cuộc hội thảo về co giật do sốt
năm 1980 đã định nghĩa:
 Co giật do sốt phức tạp (complex febrile seizures) là co giật do
sốt mà
- Giật khu trú
- Hoặc kéo dài trên 15 phút
- Hoặc có hơn hai cơn giật trong một đợt sốt
 Co giật do sốt đơn giản (simple febrile seizures) là co giật do sốt

- Cơn co giật toàn thể
- Cơn ngắn dưới 15 phút


7

- Chỉ có < 2 cơn trong một đợt sốt
Trong luận văn này, chúng tôi xin sử dụng cách phân loại co giật do sốt
của Viện quốc gia về sức khỏe Hoa Kỳ.
1.2.


Lịch sử nghiên cứu co giật do sốt và bệnh động kinh
Bệnh động kinh đã được kể lại ngay từ khi loài người có văn tự. Những

cư dân vùng Lưỡng Hà, ngay từ 5000 năm trước công nguyên, đã mô tả chính
xác về tiền triệu và về cơn động kinh lớn. Các văn tự cổ của người Ấn Độ và
người Babylon cũng đã có những miêu tả tương tự [41],[69],[78].
Bài viết chi tiết về bệnh động kinh cổ nhất hiện nay được lưu giữ ở viện
bảo tàng Anh. Đây là một chương trong cuốn sách giáo khoa y học về nội
khoa của người Babylon gồm 40 tập đã có từ 2000 năm trước công nguyên
[78].
Thế kỷ thứ 5 trước công nguyên Hypocrates đã viết một luận văn nổi
tiếng về bệnh động kinh. Hypocrates tin rằng động kinh không phải là do thần
thánh, mà là một rối loạn chức năng của não. Ông ta khuyên nên điều trị động
kinh bằng thuốc và quả quyết rằng nếu để bệnh trở nên mạn tính thì sẽ không
thể chữa được
Galen (131 – 201) là người đầu tiên đề xuất ý kiến rằng động kinh bắt
nguồn từ não dưới tác động của một số nguyên nhân ngoại lai. Galen đã dùng
từ “idiopathic = vô căn” để chỉ các động kinh có nguồn gốc ở não, và từ
“sympathetic = giao cảm” để chi các động kinh do tác động của các nguyên
nhân bên ngoài lên não.
Tuy đã có những quan điểm cách mạng đó, nhưng mãi cho tới những
năm của thời kỳ Trung Cổ, động kinh vẫn còn được coi là bệnh do quỷ dữ và
có tính lây lan. Bệnh nhân bị động kinh được điều trị một cách thô bạo, bị
nhốt lại, hoặc bị đuổi khỏi cộng đồng.


8

Đến thời kỳ Phục Hưng, các thầy thuốc bắt đầu phân biệt động kinh với
các bệnh tâm thần và họ đã xác định được một số nguyên nhân nhiễm trùng

và dinh dưỡng có thể gây động kinh.
Vào thập kỷ 1800, các thể động kinh cục bộ được liên hệ với các tổn
thương khu trú ở não.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, Jackson nhờ tiếp thu các kết quả thực nghiệm
dùng điện để gây kích thích vỏ não trên chó của Fritz và Hitzig, mà kết luận
rằng các cơn động kinh cục bộ được bắt nguồn từ những vùng vỏ não riêng
biệt. Như vậy đã hình thành khái niệm dải vỏ não vận động. Tiếp bước
Jackson, năm 1866 Victor Horsly đã phẫu thuật cho những bệnh nhân bị động
kinh do vết sẹo ở vỏ não gây ra [78].
Đầu thập niên 1930, William và Margaret Lennox là những người đầu
tiên đưa ra những quan điểm nhân bản trong điều trị động kinh. Hai ông cho
rằng phải điều trị bệnh nhân động kinh một cách toàn diện nghĩa là phải chú ý
đến các khía cạnh tâm thần, xã hội, nghề nghiệp cũng như các khía cạnh khác
của đời sống người bệnh, chứ không phải chỉ bằng lòng với việc cố cắt cơn
động kinh mà thôi [76].
Năm 1929, Berger phát minh ra máy đo điện não đồ, đã mở đường cho
những nghiên cứu sinh lý điện học. Albert và Ellen Grass đã đưa ra thị trường
chiếc máy đo điện não có bộ phận khuyếch đại đầu tiên, giúp cho các thầy
thuốc thực hành hàng ngày cũng có thể trực tiếp ghi điện não cho bệnh nhân.
Chính việc ghi hoạt động điện não đã trở thành một chìa khóa chẩn đoán động
kinh [77].
Trong vài thập kỷ cuối việc phát triển các kỹ thuật mới như chụp cắt
lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ… đã giúp cho ta có thể nhìn thấy trực tiếp
hình anhhr cấu trúc và chức năng thần kinh của người sống. Điều đó góp phần


9

giúp chẩn đoán dễ dàng và chính xác các tổn thương não rất nhỏ khả dĩ có thể
dẫn tới động kinh ở một vài bệnh nhân [77].

Về điều trị động kinh, thì Charles Locock là người đầu tiên thử dùng
Bromides để điều trị kinh giật. Năm 1912, Hauptmann giới thiệu
Phenobarbital để điều trị động kinh. Năm 1938, Tracy Putnam và Houston
Meritt phát hiện tác dụng chống động kinh của Phenytoin. Suốt nửa đầu thế
kỷ này thuốc chủ yếu để điều trị động kinh vẫn là Phenobarbital(1912) và
Phenytoin(1938). Từ những năm 1960 nhờ hiểu biết nhiều hơn về hoạt động
điện não, đặc biệt là về hiện tượng kích thích và ức chế chất dẫn truyền thần
kinh, nên nhiều thuốc mới đã được khám phá.
Năm 1828 Benjamin W.Dudley ở Viện Đại học Transylvania,
Lexington, Kentucky đã phẫu thuật cho 5 bệnh nhân bị động kinh sau chấn
thương. Năm 1911 Krause đã mô tả các kỹ thuật phẫu thuật để chữa động
kinh và đã đề cập tới khả năng bệnh nhân có thể bị động kinh thứ phát do
chính các vết sẹo mổ để lại [78].
Vào giữa thập niên 1970, nhờ “chương trình động kinh toàn diện”
Comprehensive Epilepsy Programs của Viện quốc gia về bệnh thần kinh và
mù lòa Hoa Kỳ mà đã có nhiều tiến bộ trong việc điều trị, nghiên cứu, giáo
dục và dạy nghề cho bệnh nhân cũng như tổ chức các sự giúp đỡ của cộng
đồng cho người bệnh [75].
Có nhiều tổ chức quốc tế đã được thành lập để phối hợp các nỗ lực của
con người trong việc nghiên cứu và chữa trị động kinh:
 Liên đoàn quốc tế chống động kinh (ILAE = International
League Against Epilepsy)
 Văn phòng quốc tế về động kinh (IBE = International Bureau for
Epilepsy)


10

Co giật do sốt cũng đã được đề cập đến trong y văn của người Babylon
từ năm 2080 Trước Công Nguyên. Hypocrates cũng đã mô tả rõ ràng hội

chứng này trong tập sách của mình và nhấn mạnh: “Co giật sẵn sàng xảy ra ở
trẻ em dưới 7 tuổi nếu có hiện diện một bệnh sốt cấp tính, không xảy ra ở trẻ
lớn và người lớn” [42].
Năm 1949 Lennox đã có bài viết đầu tiên về lâm sàng, điện não đồ và
tiến triển của co giật do sốt. Sau đó, nhiều bài báo về co giật do sốt tiếp tục
xuất hiện, song vào thời đó người ta cho rằng co giật do sốt có thể là một triệu
chứng của nhiễm trùng nội sọ [55].
Năm 1973, M.Lennox – Buchtal đã viết cuốn “Co giật do sốt – sự đánh
giá lại”, trong đó đề nghị điều trị dự phòng co giật do sốt liên tục bằng
Phenobarbital. Tác giả này cho rằng co giật do sốt có thể gây thương tổn não
vĩnh viễn và nên điều trị dự phòng liên tục bằng Phenobarbital [55]. Tuy
nhiên Phenobarbital lại có nhiều tác dụng phụ. Vì vậy nhiều nghiên cứu sau
đó đã đi vào hướng tìm biện pháp thay thế [44],[51],[52],[54],[65],[74].
Tháng 5 năm 1980, một cuộc hội thảo để thống nhất về co giật do sốt
đã được tổ chức tại Viện quốc gia về sức khỏe Hoa Kỳ. Hội thảo đã bàn đến
nhiều vấn đề: định nghĩa, các yếu tố nguy cơ, tiến triển cũng như biện pháp
điều trị dự phòng. Từ đó, người ta bắt đầu chú ý đến tác dụng phụ của thuốc
kháng động kinh khi được dùng liên tục ở trẻ bị co giật do sốt để dự phòng tái
phát và đã đưa ra các chỉ định cụ thể hơn
Tại Châu Á, trong các hội nghị về thần kinh Nhi khoa, vấn đề co giật
do sốt cũng đã được bàn luận rất nhiều [37],[38],[58],[73].
Ở Việt Nam, các tác giả Đặng Phương Kiệt, Đoàn Liên Thanh, Phan
Thanh Trước [9] và Hoàng Cẩm Tú [31] đã có những nghiên cứu về điện não
đồ ở trẻ co giật do sốt. Năm 2000, tại trường Đại học Y Hà Nội, bác sỹ
Nguyễn Đình Thoại đã bảo vệ thành công một luận án Thạc sỹ về đề tài “Đặc


11

điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ của co giật do sốt ở trẻ em tại Bệnh viện

Nhi Trung ương” [24]. Năm 2003, tại trường Đại học Y Huế, Lê Thiện Thuyết
đã nghiên cứu “Đặc điểm dịch tễ lâm sàng và nguyên nhân co giật do sốt ở trẻ
em” [26].
1.3.

Dịch tễ học bệnh co giật do sốt ở trẻ em

1.3.1.

Tần suất mắc bệnh
Tần suất của co giật do sốt thay đổi tùy theo tác giả, tùy theo địa điểm

nghiên cứu và lứa tuổi, nhưng nói chung là khá cao:
- Theo Robert H.A.Haslam thì tỷ lệ bị co giật do sốt ở trẻ nhỏ là 3-4%
[63]
- Theo William T.Zempsky thì ở Hoa Kỳ, 2-4% tổng số trẻ tính cho đến 5
tuổi bị co giật do sốt và trên phạm vi toàn cầu tỷ lệ cũng tương tự,
nhưng theo tác giả thì tỷ lệ này có tăng cao hơn tại Châu Á [80]
- Theo Sheila J.Wallace [66] thì
+ Tần suất co giật do sốt nói chung cho mọi trẻ em là 3%
+ Tần suất co giật do sốt ở các trẻ mà có anh chị em cũng bị co giật do
sốt là 14%
+ Tần suất bị co giật do sốt ở các trẻ mà có cha hay mẹ cũng bị co giật
do sốt là 10-12%
+ Tần suất bị co giật do sốt ở các trẻ mà có cha hay mẹ bị động kinh là
5%
- Robert J.Gumnit [64] đã có một bảng liệt kê kết quả nghiên cứu của
một số tác giả khác nhau (bảng 1.2)



12

Bảng 1.2. Tập hợp tần suất trẻ bị co giật do sốt của một số tác giả:
Tác giả

Hauser và
Kurland

Địa điểm nghiên

Tỷ lệ trẻ bị co

cứu

giật do sốt

Tần suất cộng
dồn cho đến độ

2.2

tuổi
5 tuổi

Oakland, Canada

2.3

6 tuổi


Oregon
Anh quốc
Nhật Bản
Mariana Islands
Nhật Bản và

2.2
2.4
6.7
11.0

9 tuổi
15 tuổi
15 tuổi
5 tuổi

Rochester,
Minesota, Hoa
Kỳ

Van den Berg và
Yerushaimy
Meighan và CS
Ross
Tsuboi và Endo
Stanhope và CS
Robert J Gumnit
và Coll

Guam


7% - 11%

15 uổi

- Theo Lê Đức Hinh và cộng sự thì tỷ lệ co giật do sốt là 3% tính cho đến
5 tuổi [6].
- Tại Viện Nhi Trung Ương, thống kê trong 7 năm từ năm 1984 đến năm
1990, tỷ lệ co giật do sốt ở trẻ dưới 7 tuổi so với trẻ vào khoa cấp cứu
lưu là 2,12% [5].
1.3.2.

Chủng tộc
Sốt cao co giật xảy ra với tỷ lệ như nhau cho mọi chủng tộc [80]

1.3.3.

Giới
Theo William T.Zempsky thì trẻ trai bị co giật do sốt hơi nhiều hơn trẻ

gái một ít [80].
Theo Hirtz D.G thì tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái bị co giật do sốt là 1,2/1 [51]
Nhưng theo Lê Đức Hinh và cộng sự thì lứa tuổi dưới 18 tháng tuổi tỷ
lệ trẻ gái bị co giật do sốt cao hơn so với trẻ trai [6].
1.3.4.

Tuổi


13


Lứa tuổi nào hay bị co giật do sốt thì thay đổi tùy theo tác giả nhưng
nói chung là xảy ra chủ yếu ở lứa tuổi nhỏ (bảng 1.3)
STT
1

Tác giả
Lê Đức Hinh và CS [6]

Tuổi bị co giật do sốt lần đầu tiên
6 tháng đến 5 tuổi
- Hiếm gặp trước 9 tháng tuổi và sau 5

2

Robert H.A. Haslam [63]

3
4
5

đầu là 14-18 tháng tuổi
Robert J.Gumnit [64]
Thường xảy ra ở tuổi 1-4 tuổi
William T.Zempsky [80] 3 tháng đến 5 tuổi
Sheila J.Wallace [66]
6 tháng đến 3 tuổi
- 4% ở trẻ <6 tháng tuổi

6


Hirtz D.G [51]

tuổi
- Tần suất cao nhất bị co giật do sốt lần

- 75% ở trẻ từ 6 tháng đến 3 tuổi
- 95% xảy ra trước 5 tuổi.

1.4.
1.4.1.

Sinh bệnh học
Đặc điểm của cơ chế điều hòa thân nhiệt ở trẻ em

- Trung tâm điều nhiệt chưa trưởng thành, rất dễ bị tác động, trẻ dễ sốt
ngay cả khi chỉ có nhiễm trùng nhẹ hay ngược lại thân nhiệt cũng dễ bị hạ.
- Diện tích da của trẻ em nếu tính theo cân nặng thì lớn hơn nhiều so với
người lớn, mạng mao mạch dưới da lại nhiều nên thân nhiệt trẻ em dễ bị ảnh
hưởng bởi nhiệt độ môi trường.
- Do cơ thể trẻ em đang phát triển, trẻ luôn hiếu động nên quá trình sinh
nhiệt cao.
Vì vậy, so với người lớn, trẻ em dễ bị sốt và sốt thường cao hơn. Gần đây,
nhờ những tiến bộ của các ngành khoa học, con người ngày càng hiểu biết
nhiều hơn về cơ chế bệnh sinh của co giật do sốt; tuy vậy việc giải thích cơ
chế hội chứng này vẫn còn chưa đầy đủ [71],[75].
1.4.2.

Hậu quả của cơn giật



14

- Nếu cơn co giật toàn thể, kéo dài dưới 15 phút thì thường không gây
thương tổn não rõ ràng [70],[71].
- Nếu cơn kéo dài trên 30 phút sẽ gây phù não, hoại tử Neuron khu trú và
sau đó là xơ hóa, thường là ở thùy thái dương giữa. Các thương tổn não này
do nhiều yếu tố phối hợp gây nên: do chính cơn co giật; do tăng thân nhiệt, hạ
huyết áp, thiếu oxy não, nhiễm toan, hạ đường huyết… [10],[16],[70].
- Martinos MM và CS ghi nhận có sự suy giảm trí nhớ ở trẻ sau cơn co
giật kéo dài [56].
1.5.
1.5.1.

Nguyên nhân gây sốt
Yếu tố thuận lợi
Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng co giật do sốt liên quan đến gen

[41],[48],[80]. Bằng chứng là có nhiều trẻ co giật do sốt trong cùng một gia
đình, hoặc có bố mẹ bị co giật do sốt [41],[46]. Và người ta đã chỉ rõ gen có
liên quan là gen thuộc Chromosomes 19p và 8q13-21. Gen này di truyền theo
kiểu trội trên nhiễm sắc thể thường [63].
1.5.2.

Các nguyên nhân trực tiếp gây sốt

 Tất cả các tác giả đều thống nhất nhiễm vi rút là nguyên nhân thường
gặp nhất, mà hàng đầu là nhiễm vi rút đường hô hấp trên. Theo Sheila
J.Wallace thì 90% trường hợp co giật do sốt là do nhiễm vi rút [66]
 Một số nghiên cứu gần đây nhận thấy 20% trẻ bị co giật do sốt lần đầu

là do nhiễm vi rút Herpes 6 (HHV-6), đây là vi rút gây đào ban ấu nhi [80].
 Các nhiễm khuẩn khác gây co giật do sốt thường gặp là :
 Viêm dạ dày ruột do Shiella
 Viêm tai giữa cấp
 Viêm phổi


15

1.6.

Lâm sàng

1.6.1.

Đặc điểm cơn sốt
Theo nhiều tác giả thì chính mức cao của thân nhiệt là yếu tố quyết

định của co giật do sốt: 75% trẻ có thân nhiệt trên 39,2 oC trong đó 25% trên
40,2oC [6],[8],[33],[34],[36],[52].
Theo Lennox, giới hạn dưới của sốt phải là 38oC [55]
Nhưng giữa mức cao của thân nhiệt và tốc độ tăng nhanh của thân
nhiệt, điều nào quyết định hơn trong việc gây ra cơn giật thì vẫn chưa được
thống nhất:
 Maytal J. cho rằng mức cao của thân nhiệt thì quan trọng hơn [57]
 Theo William T.Zempsky thì không có bằng chứng nào chứng minh
cho giả thuyết cho rằng tốc độ tăng cao nhanh của nhiệt độ là nguyên
nhân gây co giật do sốt[80].
1.6.2.


Cơn co giật do sốt
Cơn co giật thường xuất hiện đột ngột, không có tiền triệu, vào lúc thân

nhiệt đang tăng, đặc biệt lúc tăng đột ngột. Đôi khi co giật là dấu hiệu đầu tiên
của đợt sốt [36],[48],[55]. Ngoài ra, co giật có thể xuất hiện lúc thân nhiệt
đang giảm, một số trường hợp xuất hiện ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ ban đầu
[55].
Đa số trẻ có cơn co giật dưới dạng cơn co cứng hoặc cơn co giật toàn
thể, đôi khi là cơn cục bộ. Cơn co giật thường ngắn, dưới 5 phút, thậm chí
dưới 10 giây, song có một số rất ít trường hợp cơn co giật kéo dài hơn 30
phút. Cơn kéo dài thường có biểu hiện cục bộ hơn [6],[36],[48],[49],[50],
[51],[54].
Trong cơn co giật, trẻ có thể tăng tiết đờm rãi, tím môi và ít gặp hơn là
đại tiểu tiện không tự chủ, mất ý thức hoặc ngừng thở. Sau cơn, trẻ thường
ngủ, hoặc lú lẫn, sững sờ, đau đầu hoặc có thể tỉnh táo bình thường [6].


16

Cơn co giật do sốt được phân làm hai thể: co giật do sốt đơn giản và co
giật do sốt phức tạp như đã trình bày ở trên. Tùy theo nghiên cứu ở cộng đồng
hay ở bệnh viện mà tỷ lệ của co giật do sốt phức tạp/co giật do sốt đơn giản
có thể khác nhau. Theo Wallace tỷ lệ ấy là 1:3; Nelson và Ellenberg cũng ghi
nhận 4% số cơn giật có biểu hiện khu trú; 7,6% có thời gian cơn giật lớn hơn
15 phút và 16,2% có 2 hoặc hơn hai cơn giật trong một đợt co giật do sốt [60]
Theo Frantzen E. và cộng sự thì tính chất của cơn co giật do sốt đầu
tiên có tầm quan trọng trong tiên lượng: Nếu cơn đầu tiên khởi phát sớm hoặc
thuộc thể phức tạp thì nguy cơ tái phát co giật do sốt và trở thành động kinh
sẽ tăng lên, đặc biệt khi có kết hợp với yếu tố tiền sử gia đình, tiền sử lúc sinh
bất thường [48]

Trạng thái co giật do sốt (Febrile Status Epilepticus) là cơn co giật do
sốt kéo dài trên 30 phút, có thể gây thương tổn thùy thái dương giữa và hình
thành động kinh thái dương sau này. Nghiên cứu của Gail E. Solomon nhận
thấy trạng thái co giật do sốt ở trẻ có bất thường thần kinh trước đó là một yếu
tố nguy cơ gây tái phát cơn co giật do sốt và động kinh [49]. May mắn là tỷ lệ
trẻ có trạng thái co giật do sốt rất thấp.
1.7.
1.7.1.

Các yếu tố nguy cơ
Yếu tố di truyền
Một yếu tố có tầm quan trọng trong bệnh nguyên của co giật do sốt là

trong họ hàng có người bị co giật, đặc biệt là co giật do sốt. Trong co giật do
sốt, có khoảng 10-30% trường hợp có tiền sử co giật trong họ hàng [3],[41].
Co giật do sốt xảy ra chủ yếu ở những người họ hàng gần, 95% ở bố mẹ, anh
chị em ruột của bệnh nhân, anh chị em ruột của bố mẹ và con của những
người này [41],[48].


17

Tỷ lệ co giật do sốt ở bố mẹ, anh chị em ruột của bệnh nhân, anh chị
em ruột của bố mẹ và con của những người này là vào khoảng 6-9%, cao gấp
2-3 lần so với tỷ lệ co giật do sốt chung trong cộng đồng [50],[63].
Mẹ bị co giật sẽ ảnh hưởng tới con nhiều hơn so với bố [46]
Cơ chế di truyền hiện nay đã được xác định, người ta đã chỉ rõ gen có
liên quan là gen thuộc Chromosomes 19p và 8q13-21. Gen này di truyền theo
kiểu trội trên nhiễm sắc thể thường [63].
1.7.2.


Các yếu tố nguy cơ gây co giật do sốt lần đầu tiên:

Theo William T.Zempsky thì có 5 yếu tố nguy cơ gây co giật do sốt lần
đầu tiên [80]:
- Tiền sử gia đình có người bị co giật do sốt
- Nhiệt độ cao trên 39oC
- Trẻ có tiền sử chậm phát triển tinh thần.
- Giai đoạn sơ sinh phải nằm viện hơn 28 ngày mới được cho ra viện
- Trẻ được gửi chăm sóc tại các trung tâm trông trẻ ban ngày.
Theo William T.Zempsky thì nếu trẻ có ≥2 yếu tố nguy cơ nếu trên thì tần
suất bị co giật do sốt lần đầu tiên tăng lên 30% so với trẻ không có yếu tố
nguy cơ nào cả.
Tác giả này cũng nhấn mạnh là không có bằng chứng nào chứng minh
rằng nhiệt độ tăng cao nhanh là nguyên nhân gây co giật do sốt.
1.7.3.

Các yếu tố nguy cơ gây tái diễn cơn co giật do sốt

- Cũng theo William T.Zempsky [80] thì có 4 yếu tố nguy cơ gây tái diễn
cơn co giật do sốt là:
+ Tuổi của trẻ càng nhỏ khi trẻ bị cơn co giật do sốt lần đầu
+ Trẻ bị cơn giật lần đầu ở mức độ sốt không cao lắm
+ Tiền sử gia đình có anh chị bị co giật do sốt


18

+ Khoảng cách từ khi bắng đầu sốt đến khi có cơn giật đầu tiên càng
ngắn.

Các trẻ mà có đủ cả 4 yếu tố nguy cơ trên thì ≥ 70% bị tái diễn co giật do
sốt trong khi các trẻ không có yếu tố nguy cơ nào thì chỉ ≤ 20% bị tái diễn co
giật do sốt. Nói chung theo William T.Zempsky thì 1/3 số trẻ sẽ bị tái diễn co
giật do sốt.
- Theo Sheila J.Wallace [66] thì có 5 yếu tố nguy cơ gây tái diễn co giật
do sốt là:
+ Trẻ có hoàn cảnh kinh tế xã hội khó khăn
+ Tiền sử gia đình có anh chị bị co giật do sốt
+ Trẻ bị cơn co giật do sốt lần đầu khi chưa được 15 – 18 tháng tuổi
+ Khi bị cơn đầu tiên, trẻ bị thể co giật do sốt phức tạp
+ Phát triển tinh thần kinh của trẻ dưới mức bình thường
Các trẻ mà có ≥ 3 yếu tố nguy cơ nêu trên thì tỷ lệ bị tái diễn co giật do
sốt là 75 – 100% trong khi các trẻ không có yếu tố nguy cơ nào thì chỉ 12% bị
tái diễn co giật do sốt.
- Theo Gail E.Solomon và cộng sự [49] thì 1/3 số trẻ sẽ bị tái diễn co giật
do sốt, mà 9% sẽ bị ≥ 3 lần co giật do sốt. Theo tác giả này thì yếu tố quan
trọng nhất liên quan với tái diễn co giật do sốt là tuổi của trẻ lúc bị lên cơn co
giật do sốt lần đầu tiên. Những trẻ mà bị lên cơn co giật do sốt lần đầu tiên
khi dưới 12 tháng tuổi thì nguy cơ bị tái diễn cao nhất và 90% trường hợp bị
tái diễn này xảy ra trong vòng 2 năm đầu.
1.7.4.

Các yếu tố nguy cơ gây động kinh về sau trong cuộc đời của trẻ

- Theo William T.Zempsky [80] thì có 3 yếu tố nguy cơ gây động kinh về
sau là:
+ Gia đình có tiền sử bị động kinh


19


+ Khám có triệu chứng thần kinh bất thường khi bị cơn co giật
do sốt
+ Trẻ chậm phát triển tinh thần kinh
Các trẻ có ≥2 yếu tố nguy cơ nêu trên thì tỷ lệ bị động kinh (co
giật không kèm sốt) về sau là 10%.
- Còn theo Robert H.A.Haslam [63] thì có 5 yếu tố nguy cơ gây động
kinh về sau là:
+ Gia đình có tiền sử động kinh
+ Trẻ bị cơn co giật do sốt lần đầu tiên khi < 9 tháng tuổi
+ Trẻ bị thể co giật do sốt không điển hình (thể co giật do sốt cao
phức tạp)
+ Khám có triệu chứng thần kinh bất thường khi bị cơn co giật
do sốt
+ Trẻ chậm phát triển tinh thần kinh
Các trẻ có ≥ 2 yếu tố nguy cơ nêu trên thì tỷ lệ bị động kinh về sau là 9%;
còn nếu không có yếu tố nguy cơ nào thì tỷ lệ bị động kinh về sau chỉ 1%.
- Sheila J.Wallce [66] khi theo dõi các trẻ có tiền sử co giật do sốt cho
đến năm 26 tuổi thì thấy có đến 7% trường hợp bị ít nhất là 2 lần co giật
không kèm sốt. Các yếu tố nguy cơ gây động kinh theo tác giả này là:
+ Trẻ bị co giật do sốt thể phức tạp, đặc biệt là thể co giật nửa
người
+ Trẻ có chậm phát triển tinh thần kinh
+ Trẻ bị co giật do sốt nhiều lần
+ Gia đình có tiền sử động kinh
- Nelson và Ellenberg [60] đã theo dõi 54.000 bà mẹ có thai và theo dõi
tiếp trong vòng 7 năm sau sinh thì thấy có 1700 trẻ bị co giật do sốt.


20


Các nguy cơ khiến trẻ trở thành bị động kinh sau khi bị co giật do sốt
theo ông là:
+ Trẻ bị thể co giật do sốt phức tạp
+ Trẻ đã có các triệu chứng thần kinh bất thường trước khi bị cơn
co giật do sốt lần đầu tiên
+ Gia đình có tiền sử động kinh
Nếu trẻ không có yếu tố nguy cơ nào trong 3 yếu tố trên thì chỉ có 1%
là bị động kinh tính đến 7 tuổi. Nếu trẻ có 1 yếu tố nguy cơ thì tỷ lệ bị động
kinh tính đến 7 tuổi là 2%. Nếu trẻ có 2 đến 3 yếu tố nguy cơ thì tỷ lệ bị động
kinh tính đến 7 tuổi là 10%.
1.8.

Điện não đồ trong co giật do sốt
Trước đây, điện não đồ (ĐNĐ) thường được dùng để đánh giá khả năng

tái phát cơn co giật do sốt hay tiến triển thành động kinh; nhưng các nghiên
cứu gần đây cho rằng ĐNĐ khi ghi trong đợt co giật do sốt không giúp ích gì
nhiều cho tiên lượng thậm chí có thể gây nhầm lẫn [30],[61] và vì vậy các tác
giả khuyên không nên dùng ĐNĐ để quyết định điều trị dự phòng [53],[55],
[71].
Trong tuần đầu sau co giật do sốt, 50-70% số trẻ có ĐNĐ bình thường,
1/3 trường hợp có sóng chậm vùng chẩm hoặc phức hợp gai – sóng; nhưng
theo Frantzen, khi theo dõi trẻ đến 4,5 tuổi thì các hoạt động kịch phát này
không còn [71].
Peter.R.Camfield cho rằng các bất thường của ĐNĐ tồn tại sau cơn giật
14 ngày và các phóng lực dạng động kinh ít có giá trị tiên lượng [44].
Tuy vậy, R.Degen theo dõi trong 10 năm thấy rằng ¼ số trẻ co giật do
sốt có sóng nhọn trên ĐNĐ hoặc có cơn động kinh trên lâm sàng.
Nghiên cứu của TS.Hoàng Cẩm Tú tại bệnh viện Nhi Trung Ương ở

120 trẻ co giật do sốt cho thấy những thay đổi trên ĐNĐ có giá trị tiên lượng


21

bệnh động kinh; trẻ có cơn đầu tiên ở 13 tuổi, co giật ≥ 3 lần và ở mức thân
nhiệt không cao thì trên ĐNĐ có biến đổi có tính chất động kinh [30],[31].
Lê Đức Hinh cho rằng nếu thấy tồn tại lâu nhịp Theta kịch phát phía
sau với tần số 4 – 7 c/s, cần cảnh giác khả năng tái phát cao, đặc biệt khi có
kết hợp với các phóng lực nhọn – sóng [6].
1.9.
1.9.1.

Vấn đề điều trị
Điều trị đợt co giật do sốt

- Xử trí tại tuyến y tế cơ sở khi trẻ lên cơn co giật do sốt
+ Giữ thông thoáng đường thở: cho trẻ nằm nghiêng một bên, kê cao
vai, cổ ngửa.
+ Hạ sốt đặt hậu môn: Acetaminophen 15mg/kg/lần hoặc Ibuprofen
10mg/kg/lần
+ Nới rộng quần áo, chườm ấm
+ Diazepam đặt hậu môn 0,5mg/kg hoặc thụt hậu môn dung dịch
Diazepam (pha 2ml thuốc có 10mg Diazepam với 8ml nước cất, thụt
hậu môn 0,5mg/kg/lần) hoặc 0,1 – 0,2mg/kg/lần tiem tĩnh mạch chậm
hoặc tiêm trong xương nếu không lấy được tĩnh mạch trong các trường
hợp trẻ có kèm ỉa chảy hay bị lỵ khiến ta không đặt thuốc đường hậu
môn được [25],[28],[29].
+ Thở Oxy nếu có tím
+ Có thể kết hợp với châm, nặn máu huyệt nhân trung và huyệt thập

tuyên.
- Nên cho vào viện các trường hợp nào?
Theo khuyến cáo của chương trình IMCI thì co giật là 1 trong 4 dấu hiệu
nguy hiểm toàn thân (3 triệu chứng còn lại là: ngủ li bì khó đánh thức; không
uống được hoặc không bú được; nôn tất cả mọi thứ) và bất kỳ trẻ nào có 1


22

trong 4 dấu hiệu nguy hiểm toàn thân thì không nên giữ lại ở tuyến y tế cơ sở,
mà cần chuyển gấp đi bệnh viện [79].
- Xử trí tại bệnh viện
+ Đảm bảo thông thoáng đường thở
+ Thở oxy nếu tím tái
+ Hạ sốt như trên
+ Diazepam đặt hay thụt hậu môn 0,5mg/kg hoặc 0,1mg/kg tiêm tĩnh
mạch chậm/lần để cắt cơn giật nếu đang có cơn. Sau đó duy trì bằng
Diazepam uống với liều 0,3mg/kg/mỗi 8 giờ (1mg/kg/24 giờ), hoặc
Gardenal uống 3 – 5mg/kg/lần x 1 – 2 lần/ngày; cho uống cho đến khi
trẻ hết sốt (thường 2 – 3 ngày) [65]
+ Điều trị tích cực bệnh lý nguyên nhân gây sốt
+ Chú ý trấn an gia đình và hướng dẫn cẩn thận cho gia đình về các
biện pháp hạ sốt vật lý như cho trẻ mặc thoáng, cho trẻ uống nhiều
nước, chườm ấm.
1.9.2.

Điều trị dự phòng tái diễn co giật do sốt
Về vấn đề này, các ý kiến chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về chỉ định

và biện pháp:

- Theo William T.Zempsky [80] thì:
 Không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng thuốc hạ sốt có thể
phòng tái diễn co giật do sốt
 Phenobarbital có thể cho uống hàng ngày và có hiệu quả phòng
co giật do sốt tái diễn, nhưng thuốc này cũng có nhiều tác dụng
phụ.
 Diazepam cho uống mỗi 8 giờ/lần trong suốt giai đoạn trẻ bị 1
bệnh có kèm sốt, đã được chứng minh là có hiệu quả phòng tái
diễn co giật do sốt trong một số công trình nghiên cứu. Nhưng


23

khi dùng, thuốc có thể gây loạng choạng và mơ màng khiến cho
việc đánh giá chức năng thần kinh trẻ khó khăn hơn.
 Nhiều người lại cho rằng việc điều trị dự phòng tái diễn co giật
do sốt hại nhiều hơn là lợi. Nên việc quyết định có sử dụng liệu
pháp dự phòng hay không phải được cân nhắc kỹ lưỡng
- Theo Robert H.A.Haslam [63] thì:
 Việc chỉ định điều trị dự phòng co giật do sốt dài hạn bằng thuốc
chống động kinh vẫn còn đang được tranh cãi và không còn được
khuyên khích
 Các thuốc Phenytoin và Carbamazepine không có tác dụng đối
với co giật do sốt
 Phenobarbital không có hiệu quả dự phòng tái diễn co giật do sốt
 Sodium Valproate có tác dụng đối với co giật do sốt, nhưng tác
dụng phụ của thuốc cao nên không đáng để phải dùng cho một
rối loạn tương đối lành tính.
 Diazepam là thuốc có hiệu quả và an toàn để làm giảm nguy cơ
tái diễn co giật do sốt bằng cách mỗi khi trẻ mới bị 1 bệnh lý có

sốt thì cho trẻ uống ngay Diazepam x 0,3mg/kg/mỗi 8 giờ
(1mg/kg/24 giờ), cho uống đến khi trẻ hết sốt (thường là 2-3
ngày). Các tác dụng phụ của Diazepam thường là nhẹ, nhưng nếu
trẻ lơ mơ, tăng kích thích, loạng choạng thì ta phải giảm liều
- Nhưng theo Gail E.Solomon và CS [49] thì đối với những trẻ thuộc
nhóm có nguy cơ cao bị động kinh sau khi bị co giật do sốt (các trẻ có 2-3 yếu
tố nguy cơ của Nelson và Ellenberg) thì nên được điều trị dự phòng. Thuốc để
điều trị dự phòng theo tác giả này là Phenobarbital bắt đầu với liều
2mg/kg/ngày uống 1 lần trước khi đi ngủ; sau đó tăng dần lên 1mg/kg cho đến


24

khi đạt liều 5mg/kg/ngày. Cho uống tối thiểu là 2 năm sau khi bị cơn giật đầu
tiên, hoặc tối thiểu là 1 năm sau cơn giật cuối cùng.
Nói chung trước đây, hầu hết các tác giả đều cho rằng co giật do sốt nếu
tái phát sẽ gây nên hậu quả động kinh và chậm phát triển tinh thần vận động,
vì thế họ chủ trương cần phải điều trị dự phòng. Nhưng cuộc hội thảo về co
giật do sốt của Viện sức khỏe Hoa Kỳ năm 1980 khuyến cáo rằng co giật do
sốt là một rối loạn co giật lành tính, rất ít gây hậu quả xấu và không có bằng
chứng để cho rằng điều trị dự phòng sẽ ngăn cản tiến triển động kinh. Việc
điều trị dự phòng chỉ có mục đích ngăn ngừa cơn tái phát và trấn an gia đình
Hội thảo đã kết luận rằng chỉ nên xét điều trị dự phòng trong các trường
hợp sau:
+ Trẻ có bất thường thần kinh trước cơn co giật do sốt lần đầu tiên
+ Cơn co giật khu trú hoặc kéo dài hơn 15 phút
+ Tái phát cơn co giật trong vòng 24 giờ
+ Có tiền sử động kinh ở cha mẹ, anh chị em ruột
+ Tuổi khởi phát cơn co giật lần đầu tiên dưới 12 tháng
Có 2 phương án điều trị dự phòng tái diễn co giật do sốt:

+ Điều trị khi xuất hiện cơn sốt bằng Diazepam:
Đây là phương pháp được hầu hết các tác giả ưa chuộng vì hiệu quả
cao, ít tác dụng phụ. Dùng Diazepam loại uống với liều 0,5 – 1mg/kg/24 giờ
hoặc loại đặt hậu môn 0,5mg/kg/lần dùng khi thân nhiệt lớn hơn 38oC [53],
[65]
Phương pháp điều trị này sẽ làm giảm tỷ lệ tái phát ở trẻ có nguy cơ
xuống bằng với những trẻ không có nguy cơ [54]
+ Điều trị thuốc liên tục:
Ở một số trẻ, cơn co giật xuất hiện quá nhanh, trong trường hợp này,
nếu trẻ có nhiều yếu tố nguy cơ tái phát thì theo Brett E.M. ta nên điều trị các


25

thuốc chống co giật liên tục cho tới khi đạt được 2 năm liên tiếp không có co
giật do sốt [42]
Thuốc và liều lượng mà tác giả này đề nghị là:
Phenobarbital 4-5mg/kg/24 giờ (cần lưu ý là nếu dùng kéo dài có thể
gây ra rối loạn hành vi như tăng động, kích thích, giảm khả năng tập trung
trong học tập).
Hoặc Sodium Valproate (Depakin): 10-20 mg/kg/24 giờ. Khi dùng kéo
dài thì nên theo dõi chức năng gan.
1.10. Về kiến thức, thái độ, thực hành của bố mẹ về co giật do sốt
Đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề này
- Tại Việt Nam, năm 2001, Huỳnh Văn Lộc, Võ Công Đồng [13] đã
nghiên cứu đề tài “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi của người chăm sóc
đối với bệnh nhi co giật do sốt tại phòng lưu bệnh viện Nhi Đồng 1”. Năm
2009, Bùi Bỉnh Bảo Sơn [21] đã nghiên cứu đề tài “Đánh giá kiến thức, thái
độ, hành vi của người chăm sóc đối với trẻ bị co giật do sốt”
- Trên thế giới cũng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.

Năm 2008, Ertan Kayserili và CS đã nghiên cứu đề tài “Kiến thức, thái độ và
chăm sóc của bố mẹ đối với trẻ co giật do sốt ở Turkish”. Năm 2006, Mei
Chih Huang và CS đã nghiên cứu đề tài “Co giật do sốt: phát triển bộ câu hỏi
đo lường kiến thức, thái độ, lo lắng và thực hành của bố mẹ”. Năm 2013,
Ochhe và CS đã nghiên cứu đề tài “Sử dụng các nhóm phụ nữ hỗ trợ để nâng
cao kiến thức và thực hành co giật do sốt cho những bà mẹ vùng nông thôn
bang Sokoto, Nigeria”…
Tuy nhiên, kiến thức, thái độ, thực hành của bố mẹ rất khác nhau, phụ
thuộc vào từng nước, từng địa phương, phụ thuộc vào văn hóa, trình độ học
vấn, dân tộc.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×