Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Bảo vệ quyền lợi của bên nhận nhượng quyền trong nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.96 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU............................................................................................... 3
1.1

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 3

1.2

Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 4

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 4

1.4

Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 5

1.5

Cơ cấu của báo cáo ................................................................................. 5

PHẦN 2: LÝ THUYẾT ........................................................................................ 6
2.1

Một số vấn đề cơ bản về hoạt động nhượng quyền thương mại ........ 6

2.1.1

Khái niệm về nhượng quyền thương mại ...................................... 6


a) Lịch sử hình thành ............................................................................... 6
b) Khái niệm .............................................................................................. 7
2.1.2

Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại.................... 8

a) Chủ thể của hoạt động nhượng quyền thương mại ........................... 8
b) Đối tượng của nhượng quyền thương mại ......................................... 8
c) Các đặc điểm khác................................................................................ 9
2.1.3

Vấn đề về sở hữu trí tuệ trong nhượng quyền thương mại ......... 9

a) Sự khác nhau giữa nhượng quyền thương mại và chuyển giao công
nghệ ............................................................................................................. 9
b) Sản phẩm nhượng quyền ................................................................... 11
c) Chỉ dẫn thương mại ........................................................................... 11
2.2 Một số vấn đề cơ bản về bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền trong
nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam. ................................. 14
2.2.1 Lợi ích của các bên khi tham gia hoạt động nhượng quyền
thương mại ................................................................................................... 14
a) Đối với bên nhượng quyền: ............................................................... 14
b) Đối với bên nhận quyền: .................................................................... 14
2.2.2 Rủi ro của các bên khi tham gia hoạt động nhượng quyền
thương mại ................................................................................................... 15
a) Đối với bên nhượng quyền................................................................. 15
b) Đối với bên nhận quyền. .................................................................... 15
PHẦN 3: THỰC TRẠNG .................................................................................. 16
3.1


Pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại ........................... 16
Trang 1


3.1.1. Tổng quan những quy định của Pháp luật Việt Nam về nhượng
quyền thương mại ........................................................................................ 16
3.1.2.

Nhận xét .......................................................................................... 16

3.2 Bảo vệ quyền lợi cho bên nhận quyền trong nhượng quyền thương
mại tại Việt Nam. ............................................................................................ 18
3.2.1.

Hoạt động khai thác trong nhượng quyền thương mại.............. 18

a) Quyền kiểm soát ................................................................................. 18
b) Vấn đề cung cấp thông tin trước khi kí kết hợp đồng của bên
nhượng quyền ........................................................................................... 21
c) Độc quyền cung cấp trang thiết bị ..................................................... 24
d) Độc quyền cung cấp sản phẩm .......................................................... 24
e) Thỏa thuận độc quyền lãnh thổ ......................................................... 25
Kiểm soát hệ thống nhượng quyền .................................................... 27

f)
3.2.2.

Hoạt động chuyển giao trong nhượng quyền thương mại ......... 28

a) Thay đổi chủ sở hữu của bên nhượng quyền ................................... 28

b) Chuyển giao cho bên thứ ba .............................................................. 29
3.2.3.

Quyền và nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng ........... 30

a) Nghĩa vụ của bên nhận quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ khi chấm
dứt hợp đồng.............................................................................................. 30
b) Điều khoản không cạnh tranh........................................................... 33
PHẦN 4: GIẢI PHÁP ........................................................................................ 36
4.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật ........................................................... 36

4.2. Một số giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền trong
nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. ..................................................... 37
PHẦN 5: KẾT LUẬN ........................................................................................ 40

Trang 2


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1

Lý do chọn đề tài
Một là, nhượng quyền thương mại là hình thức kinh doanh đã xuất hiện hơn

100 năm và khá thành công trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn có thể nói là
còn khá mới mẻ trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn kinh doanh ở Việt
Nam, xét về góc độ bản chất của nhượng quyền thương mại thì hoạt động này vẫn
chưa thực sự phát triển tại Việt Nam.

Hai là, bên nhận quyền thường là bên yếu thế và chịu nhiều rủi ro trong hoạt
động nhượng quyền. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các nghĩa vụ đối
với bên nhận quyền cũng nhiều hơn.
Ba là, bên nhận quyền cũng không được phép nhượng quyền lại trong trường
hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền. Việc nhượng quyền lại cho bên
thứ ba được Luật Thương mại 2005 quy định tại Điều 290.
Bốn là, Hiện nay, trên thị trường Việt Nam, ngày càng xuất hiện nhiều các
thương hiệu nổi tiếng thông qua hoạt động nhượng quyền thương mại. Các thương
nhân Việt khi tham gia vào chuỗi nhượng quyền của các thương hiệu hàng đầu thế
giới thường thiếu về thông tin, kinh nghiệm cũng như kỹ năng đàm phán hợp đồng
nên thường gặp nhiều bất lợi. Đây cũng chính là một lý do mà pháp luật nhượng quyền
thương mại cần lưu tâm tới việc bảo vệ quyền lợi của bên nhận nhượng quyền nói
chung và các thương nhân trong nước nói riêng.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, để hoạt động nhượng quyền thương mại thực
sự phát triển theo đúng bản chất của nó, nhằm tạo sự cân bằng, hài hòa lợi ích giữa
các bên, việc nghiên cứu, hệ thống hóa các quy định của pháp luật và các biện pháp
nhằm bảo vệ hợp lý quyền lợi chính đáng của bên nhận nhượng quyền là hết sức cần
thiết, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế hiện này.
Chính vì thế em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền lợi của bên nhận
quyền trong nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài báo cáo
thực tập.
Trang 3


1.2

Mục tiêu nghiên cứu
Một là, cho thấy được một cái nhìn khách quan nhất về vị thế của bên nhận

quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Phản ánh rõ đúng

sự bất cân xứng về lợi ích mà bên nhận nhượng quyền luôn phải đối mặt. Đặc biệt,
đề tài sẽ giới hạn rõ các vấn đề cụ thể mà bên nhận quyền sẽ dễ dàng bị xâm phạm
lợi ích hợp pháp ở đó.
Hai là, sẽ đưa ra các vụ việc trong hoạt động nhượng quyền thương mại trên
thực tế tại Việt Nam, về hai hướng nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào
Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài, để qua đó đánh giá, phản ánh đúng thực
trạng về lợi ích của bên nhận quyền.
Ba là, đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm
giúp bên nhận quyền có thể tự bảo vệ mình trong quá trình tham gia hoạt động
nhượng quyền thương mại. Từ đó, nhằm đảm bảo lợi ích được cân bằng hài hòa
giữa các bên, thúc đẩy hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển theo đúng
bản chất của nó.

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định hiện hành của pháp luật thương mại

Việt Nam về nhượng quyền thương mại nói chung và bảo vệ quyền lợi cho bên
nhận nhượng quyền nói riêng. Các quy định về nhượng quyền được quy định tại
Luật Thương Mại 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Cạnh Tranh 2004…
và các vụ việc cụ thể trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu như sau: làm rõ khái niệm nhượng quyền thương mại từ
đó đưa ra các đặc điểm của quan hệ nhượng quyền thương mại, đánh giá những lợi
ích và rủi ro của các bên khi tham gia vào quan hệ này, hệ thống hóa toàn bộ quy
định pháp luật liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại. Thông qua đó,
tập trung phân tích làm nổi bật lên vấn đề vị thế của bên nhận quyền trong quan hệ
nhượng quyền thương mại. Qua đó đặt ra vấn đề vì sao phải bảo vệ quyền lợi cho
bện nhận quyền. Mặt khác, căn cứ vào thực tiễn cụ thể về áp dụng pháp luật trong
giải quyết một số vụ việc để đánh giá những thành tựu và hạn chế đối với cơ chế

Trang 4


bảo vệ quyền lợi cho bên nhận và theo quy định trong Luật Thương Mại 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Từ đó kiến nghị, đề xuất các biện pháp cũng
như hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên
nhận nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.

1.4

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tham khảo các tài liệu trên sách báo, giáo

trình, internet… để trang bị những lí luận cơ bản và có hướng đi đúng đắn, góp
phần làm phong phú hơn nội dung của báo cáo.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Từ những thông tin thu thập được, tiến
hành tổng hợp lại và phân tích, đưa ra những nhận định riêng của bản thân.
Phương pháp so sánh: Dựa trên nhưng quy định cơ bản, tiến hành so sánh với
các văn bản có liên quan, nhằm rút ra những nội dung khái quát nhất.
Phương pháp dẫn chiếu, liệt kê: Trích dẫn một số quan điểm của các nhà
nghiên cứu pháp luật trước đó và đưa ra những nhận định của bản thân.

1.5

Cơ cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo có kết

cấu thành ba phần:
Phần 2: Lý thuyết
Phần 3: Thực trạng

Phần 4: Giải pháp

Trang 5


PHẦN 2: LÝ THUYẾT
2.1

Một số vấn đề cơ bản về hoạt động nhượng quyền
thương mại
2.1.1
a)

Khái niệm về nhượng quyền thương mại
Lịch sử hình thành

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng
quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17 - 18 tại Châu Âu. Tuy nhiên, hoạt động
nhượng quyền kinh doanh (hay nhượng quyền thương mại) được chính thức thừa
nhận khởi nguồn, phát triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer
(sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác
của mình.
Nhượng quyền thương mại thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm
1945 (khi Thế Chiến II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách
sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở
hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống
kinh doanh theo phương thức này. Từ những năm 60, nhượng quyền thương mại trở
thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn
ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp... Sự lớn mạnh của những tập đoàn
xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh thức

ăn nhanh, khách sạn - nhà hàng đã góp phần “truyền bá” và phát triển nhượng quyền
thương mại trên khắp thế giới. Ngày nay, nhượng quyền thương mại đã có mặt tại hơn
150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh
theo phương thức nhượng quyền.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động
của nhượng quyền thương mại đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng
và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh
tế liên quan đến nhượng quyền thương mại đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến
khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát
triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền (Franchise development program) với mục
Trang 6


tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng
quyền, thúc đẩy và phát triển việc bán Franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore,
quốc gia láng giềng của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy,
phát triển hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế,
du lịch, khách sạn-nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ
Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng
quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường nội địa và quốc tế.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ trợ và
quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội đồng Franchise Thế
giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994, có thành viên là các hiệp hội
franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội
Franchise Quốc tế (International Franchise Association) được thành lập năm 1960, có
khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua franchise.
Tại Việt Nam: Hình thức kinh doanh nhượng quyền đã có mặt từ trước năm
1975 thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu (gas station) của
Mỹ như Mobil, Exxon (Esso), Shell. Sau đó, NQTM được xem manh nha xuất hiện
trở lại vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20. Nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã

biết tận dụng hình thức này để làm “đòn bẩy” phát triển thị trường, nâng cao giá trị
thương hiệu của mình. Thực phẩm là ngành thế mạnh của DN trong nước và có tốc
độ nhượng quyền lan rất nhanh.
b)

Khái niệm

Nhượng quyền kinh doanh (nguyên văn từ tiếng Pháp: franchise, nghĩa là trung
thực hay tự do) là việc cho phép một cá nhân hay tổ chức (gọi là bên nhận nhượng
quyền) được kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ theo hình thức và phương pháp kinh
doanh đã được thử thách trong thực tế của bên nhượng quyền ở một điểm, tại một khu
vực cụ thể nào đó trong một thời hạn nhất định để nhận một khoản phí hay một tỷ lệ
phần trăm nào đó từ doanh thu hay lợi nhuận.
Theo Điều 284, Luật thương mại 2005 định nghĩa: Nhượng quyền thương mại
là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
Trang 7


quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện
sau đây:
- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy bản chất của nhượng quyền được thể hiện ở:
sự cho phép sử dụng một số đối tượng phi vật thể gồm nhiều loại chỉ dẫn thương
mại như tên thương mại, nhãn hiệu, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo, sự truyền đạt bí quyết kinh doanh cho Bên nhận quyền, sự trợ giúp và

kiểm soát của Bên nhượng quyền đối với Bên nhận quyền.
2.1.2
a)

Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại
Chủ thể của hoạt động nhượng quyền thương mại

Chủ thể của quan hệ NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Các chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, là công dân trong nước
hoặc người nước ngoài.
Thông thường, chủ thể của nhượng quyền thương mại thường là thương nhân,
những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, trao đổi hàng hóa trên thị
trường. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp thì chủ thể của nhượng quyền thương
mại không phải là thương nhân (khi nhượng quyền diễn ra trong lĩnh vược nông
lâm thủy sản, hàng nghề tự do)
Bên nhượng quyền và bên nhận quyền có mối quan hệ bình đẳng với nhau
trên thị trường, cùng nhau xây dựng thương hiệu, đảm bảo sự đồng nhất giữa bên
nhượng quyền và bên nhượng quyền, hợp tác cùng phát triển và có lợi.
b)

Đối tượng của nhượng quyền thương mại

Đối tượng của nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại”
Trang 8


Trước đây, nhượng quyền thương mại được coi là nhượng quyền phân phối
sản phẩm. Nhưng ngày nay, nhượng quyền thương mại được coi là nhượng quyền
phương thức kinh doanh. Cách hiểu này được đưa ra nhằm phù hợp với sự hội
nhập của kinh tế thế giới.

"Quyền thương mại" là khái niệm trừu tượng, gắn bó mật thiết với thương
hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp. Quyền thương mại bao gồm thương hiệu, tên
sản phẩm, phương pháp phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng… các doanh
nghiệp nhận quyền sẽ thừa hưởng tất cả những điều ấy từ công ty nhượng quyền,
cùng nhau phát triển dựa vào thương hiệu của sản phẩm thương mại.
c)

Các đặc điểm khác

Nhượng quyền thương mại luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền. Bởi doanh nghiệp nhượng quyền và doanh
nghiệp nhận quyền đều cùng nhau kinh doanh trên một sản phẩm, quy trình kinh
doanh như nhau, là những bản sao hoàn hảo của nhau.
Nhượng quyền thương mại mang tính hệ thống và đồng nhất với nhau. Bởi
các doanh nghiệp tham gia nhượng quyền là những bản sao hoàn hảo của nhau, từ
cách trang trí cửa hàng, phong cách phục vụ khách hàng, phân phối sản
phẩm…nhằm mang đến sự hài lòng như nhau cho khách hàng.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại có quy định cụ thể về thị phần cạnh
tranh của từng doanh nghiệp vì thế có thể ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của thị
trường chung, đi ngược lại với quy luật cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường.
2.1.3
a)

Vấn đề về sở hữu trí tuệ trong nhượng quyền thương mại
Sự khác nhau giữa nhượng quyền thương mại và chuyển giao
công nghệ

Mặc dù có những điểm tương đồng lớn nhưng giữa nhượng quyền thương
mại và hoạt động chuyển giao công nghệ vẫn có rất nhiều điểm khác biệt với nhau:
- Một là, về mặt tính chất của hoạt động: Nếu như nhượng quyền thương

mại là phương thức mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua việc cho phép
Trang 9


một doanh nghiệp khác được sản xuất kinh doanh trên cơ sở uy tín, tên thương
mại, công nghệ.v.v.. của Bên nhượng quyền, thì chuyển giao công nghệ lại chỉ đơn
thuần là việc chuyển giao các công nghệ để ứng dụng nó vào quá trình sản xuất.
- Hai là, về quyền năng của bên nhận quyền đối với đối tượng chuyển giao:
Khi một doanh nghiệp nhận công nghệ, họ có quyền ứng dụng công nghệ đó để
sản xuất ra sản phẩm dưới bất kỳ thương hiệu, kiểu dáng, tên thương mại nào mà
họ mong muốn. Trong khi đó, đối với hoạt động nhượng quyền thương mại, Bên
nhận quyền chỉ được sử dụng các công nghệ mà mình nhận được để sản xuất, cung
ứng các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức và dưới nhãn hiệu hàng hoá,
tên thương mại của Bên nhượng quyền. Bên cạnh đó, Bên nhận quyền còn phải
tuân theo sự bày trí cửa hàng, cung cách phục vụ khách hàng, phương pháp xúc
tiến thương mại của Bên nhượng quyền. Đặc biệt, các doanh nghiệp cùng nhận
quyền thương mại từ một doanh nghiệp nhất định sẽ có mối quan hệ với tư cách là
các thành viên trong cùng một mạng lưới kinh doanh, mối quan hệ này không bao
giờ hình thành giữa các doanh nghiệp cùng nhận quyền chuyển giao công nghệ.
- Thứ ba, sự khác nhau về phạm vi đối tượng của hoạt động: Nếu như trong
hoạt động chuyển giao công nghệ, đối tượng của nó là “các kiến thức tổng hợp của
công nghệ hoặc máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo… kèm theo các kiến thức công
nghệ”, tức là chủ yếu tập trung vào công nghệ sản xuất ra sản phẩm, quy trình sản
xuất ra sản phẩm.
Trong khi đó, nhượng quyền thương mại như đã đề cập ở trên có phạm vi đối
tượng không chỉ bao gồm quy trình sản xuất mà còn cả các quy trình sau sản xuất
nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, quy trình quản lý – không chỉ giới
hạn ở cơ cấu tổ chức, chính sách kinh doanh, kiểm toán, nhân sự, thậm chí cả tiêu
chuẩn cho việc thiết kế, trang trí cửa hàng, nhà xưởng.
- Thêm nữa, sự khác biệt còn nằm ở sự hỗ trợ, kiểm soát của bên nhượng

quyền đối với bên nhận quyền: Trong nhượng quyền thương mại thì đây là một
nội dung cốt lõi và không thể thiếu được nhằm đảm bảo tính thống nhất của toàn
bộ hệ thống nhượng quyền, tuy nhiên, trong hoạt động chuyển giao công nghệ thì
về nguyên tắc, sau khi chuyển giao công nghệ xong bên chuyển quyền sẽ không
Trang 10


hỗ trợ gì thêm đối với bên nhận quyền và bên chuyển quyền cũng không có quyền
kiểm soát hoạt động sản xuất – kinh doanh của bên nhận quyền.
b)

Sản phẩm nhượng quyền

Theo Điều 7 Nghị định 35/2006 NĐ – CP ngày 31/03/2006: Hàng hoá, dịch
vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại là hàng hoá, dịch vụ không
thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế
kinh doanh, Danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp
chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh
doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
c)

Chỉ dẫn thương mại

Theo Khoản 2, Điều 130, Luật Sở hữu trí tuệ: Chỉ dẫn thương mại là các
dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ bao gồm: nhãn
hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý,
kiểu dáng bao bì của hàng hoá và nhãn hàng hoá. Nhưng, nhượng quyền thương
mại chỉ có liên quan đến việc cho phép sử dụng một số chỉ dẫn thương mại như
nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, và các chỉ dẫn thương mại khác như khẩu

hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo.
Nhãn hiệu hàng hóa: Là những dấu hiệu dùng phân biệt hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có
thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp ...Là những dấu hiệu dùng phân biệt hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu
hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện
bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu hàng hóa được coi là một tài sản vô hình
của người hoặc công ty thực hiện hoặc sản xuất và là một trong các đối tượng sở
hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ. Nhượng quyền thương mại nhãn hiệu
hàng hóa là một hoạt động thương mại, bên nhượng quyền và bên nhận quyền thỏa
thuận thông qua một hợp đồng, theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền
sử dụng hệ thống kinh doanh của mình để kinh doanh những sản phẩm dịch vụ xác
Trang 11


định và bên nhận quyền có nghĩa vụ trả phí cho quyền sử dụng này. Hệ thống kinh
doanh ở đây không chỉ liên quan đến sản phẩm dịch vụ mà còn bao gồm cả nhãn
hiệu hàng hóa, logo, biểu trưng…, công nghệ sản xuất sản phẩm, quy trình cung
cấp dịch vụ, tiêu chuẩn sản phẩm dịch vụ, chiến lược kinh doanh, chính sách khách
hàng, kế hoạch đào tạo nhân viên, hệ thống lưu trữ, chế độ kế toán, kiểm toán…
- Theo Luật Sở hữu trí tuệ, việc cho phép sử dụng nhãn hiệu như trong
nhượng quyền thương mại được gọi là chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu hay còn
gọi là Li – xăng nhãn hiệu. Pháp luật cũng quy định thêm Hợp đồng Li – xăng
phải được lập thành văn bản và đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Khoản
2, Điều 141, Luật SHTT). Hợp đồng Li – xăng sẽ không có giá trị khi quyền sở
hữu nhãn hiệu của bên chuyển giao chấm dứt. Để bảo vệ các bên trong hợp đồng,
pháp luật Việt Nam quy định như sau:
+ Bên chuyển giao: Thứ nhất, đăng ký hợp đồng nếu việc đăng ký không được
Bên nhận tiến hành. Thứ hai, nộp thuế chuyển giao. Thứ ba, giải quyết tranh
chấp với người thứ ba nếu việc chuyển giao gây nên tranh chấp đó.

+ Bên nhận: Thứ nhất, đăng ký hợp đồng nếu bên kia không đăng ký. Thứ
hai, trả tiền (Phí chuyển giao). Thứ hai, chịu sự kiểm tra về chất lượng hàng
hoá mang nhãn hiệu (nếu cần thiết) và phải đảm bảo chất lượng hàng hoá
như hàng hoá Bên giao. Thứ ba, ghi chỉ dẫn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá
về sản xuất theo li xăng và Bên giao là ai.
Tên thương mại: Là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển
nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại
đó. Tuy nhiên, trong nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền có thể được bên
nhượng quyền cho phép sử dụng tên thương mại của mình trong mua bán hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ. Như vậy, bên nhận quyền sẽ rất dễ vướng vào các tranh
chấp liên quan đến Tên thương mại với bên nhượng quyền.
Trang 12


Bí mật kinh doanh: Là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí
tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách
hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Chủ
sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách
hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà
bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công
việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao
việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Bí mật kinh doanh được bảo hộ
nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
-


Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;

-

Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh
doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật
kinh doanh đó;

-

Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh
doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Khẩu hiệu kinh doanh: Slogan là khẩu hiệu thương mại, nghĩa cổ là tiếng
hô trước khi xung trận của những chiến binh Scotland. Ngày nay, slogan được hiểu
như là khẩu hiệu thương mại của một công ty. Slogan thường được coi là một phần
tài sản vô hình của công ty dù rằng nó chỉ là một câu nói. Do vậy, đặc điểm của
Slogan thường là những dòng chữ cô đọng, ngắn gọn gắn với đặc điểm của hàng
hóa, dịch vụ cung cấp hoặc những giá trị do hàng hóa, dịch vụ mang lại. Slogan
mà không tạo ra sự liên tưởng cho người tiêu dùng về hàng hóa/dịch vụ được cung
cấp thì sẽ không thể được gọi là khẩu hiệu kinh doanh.
Biểu tượng kinh doanh: Là chữ và hình ảnh được thiết kế đồ họa, phối hợp
màu sắc và sắp sếp chúng theo một phong cách riêng tạo thành một biểu trưng có
cấu trúc hoàn chỉnh chứa đựng một lượng thông tin hàm súc biểu đạt lực năng hoạt
động của một công ty, một tổ chức, một hoạt động (như một cuộc thi, phong
trào….Khi nói đến Logo là nói đến tính thẩm mỹ của các dấu hiệu tạo nên logo.
Trang 13


Logo có các đặc điểm: khác biệt, dễ nhớ, dễ thích nghi, có ý nghĩa. Như vậy, nhãn

hiệu và logo là các yếu tố nhận diện cho thương hiệu, chúng làm cho khách hàng
tìm đến doanh nghiệp, nhớ đến doanh nghiệp và nhận rõ doanh nghiệp của bạn
trong hàng triệu những công ty kinh doanh khác.

Một số vấn đề cơ bản về bảo vệ quyền lợi của bên nhận

2.2

quyền trong nhượng quyền thương mại theo pháp luật
Việt Nam.
2.2.1

Lợi ích của các bên khi tham gia hoạt động nhượng quyền
thương mại

a)

Đối với bên nhượng quyền:

Hoạt động nhượng quyền thương mại giúp bên nhượng quyền tối đa hóa thu
nhập.
Hoạt động nhượng quyền giúp bên nhượng quyền mở rộng hoạt động kinh
doanh.
Bên nhượng quyền không cần phải bỏ nhiều vốn đầu tư lớn.
Bên nhượng quyền thực hiện được việc nhân bản, quảng bá, phát triển
phương thức kinh doanh của mình.
Tổ chức gọn nhẹ nguồn nhân lực
b)

Đối với bên nhận quyền:


Hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ giúp bên nhận quyền giảm thiểu rủi
ro khi bắt đầu hoạt động kinh doanh.
Phương thức kinh doanh này giúp bên nhận quyền dễ dàng thành công.
Bên nhận quyền sẽ tận dụng được các nguồn lực từ bên nhượng quyền, như:
thương hiệu, nhãn hiệu, biểu tượng, khách hàng...
Bên nhận quyền có thể dễ dàng vay tiền từ các nhà tài trợ để kinh doanh và
được quyền mua nguyên liệu với giá ưu đãi.
Trang 14


Được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đào tạo, tư vấn, chuyển giao kinh nghiệm, tiếp
cận bí quyết, công nghệ…
2.2.2

Rủi ro của các bên khi tham gia hoạt động nhượng quyền
thương mại

a)

Đối với bên nhượng quyền

Nguy cơ bị mất bí quyết kinh doanh, bị làm nhái sản phẩm.
Bên nhượng quyền dễ mất sự kiểm soát của mình đối với việc kinh doanh.
Khả năng đánh mất uy tín của bên nhượng quyền và hiệu ứng dây chuyền
cho cả hệ thống nhượng quyền.
b)

Đối với bên nhận quyền.


Hạn chế quyền chủ động của bên nhận quyền trong kinh doanh, chịu các ràng
buộc của hợp đồng nhượng quyền.
Công sức và nguồn vốn mà bên nhận nhượng quyền đã bỏ ra để tham gia vào
hệ thống sẽ thuộc về chủ thương hiệu.
Thiếu tính sáng tạo và bị ảnh hưởng bởi uy tín chung
Dễ bị chi phối trong hệ thống nhượng quyền thương mại.

Trang 15


PHẦN 3: THỰC TRẠNG
3.1

Pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại
3.1.1.

Tổng quan những quy định của Pháp luật Việt Nam về nhượng
quyền thương mại

Trước thời điểm có hiệu lực của Luật Thương Mại 2005, pháp luật về nhượng
quyền thương mại của Việt Nam chỉ được quy định rải rác và thiếu nhất quán trong một
số văn bản luật. Luật Thương Mại ra đời ngày 14/06/2005 đánh dấu một bước ngoặt
cho hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam, quy định về nhượng quyền
thương mại trong 8 điều, từ Điều 284 đến Điều 291, đề cập đến các vấn đề như định
nghĩa nhượng quyền thương mại, quyền và nghĩa vụ của các; nhượng quyền lại cho
bên thứ ba, đăng ký nhượng quyền thương mại…
Ngày 31/03/2006, Chính Phủ ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định
chi tiết Luật Thương Mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, gồm 28 điều, quy
định rõ ràng các vấn đề về điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại.
Ngày 16/12/2011, Nghị định 120/2011/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành để

sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương Mại, trong đó quy định các trường hợp phải đăng ký và không phải
đăng ký nhượng quyền thương mại.
Ngoài ra, hoạt động nhượng quyền thương mại còn được điều chỉnh tại Luật
chuyển giao công nghệ 2006, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Luật Cạnh Tranh 2004…
Năm 2007, thời điểm gia nhập tổ chức thương mại thế giới - WTO, Việt Nam đã
đưa ra hàng loạt các cam kết về mở cửa thị trường có liên quan đến hoạt động nhượng
quyền thương mại. Theo bảng phân loại (CPC) của WTO, nhượng quyền thương mại
được xếp vào nhóm các dịch vụ phân phối. Theo đó, Việt Nam có những cam kết chung
dành cho nhóm dịch vụ này cũng như cam kết dành riêng cho dịch vụ nhượng quyền
thương mại.
3.1.2.

Nhận xét

Trang 16


Nhìn chung, việc hình thành nên hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại tại Việt Nam đã tạo nên một khung pháp lý cơ bản, trực
tiếp điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, các
quy định này vẫn còn rất hạn chế, không thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của các
bên. Cụ thể:
- Các quy định này chưa thể hiện rõ bản chất của hoạt động NQTM cũng như
sự khác biệt rõ ràng với hoạt động chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp và chuyển giao công nghệ.
- Có sự chồng chéo trong các quy định mới về nhượng quyền giữa Luật
Thương mại và pháp luật về chuyển giao công nghệ và nhãn hiệu. Chỉ riêng khái
niệm về NQTM cũng chịu sự điều chỉnh của 2 văn bản pháp luật là Luật Chuyển
Giao Công Nghệ 2006 và Luật Thương Mại 2005. Như vậy, theo Luật chuyển giao

công nghệ 2006 thì NQTM là một loại chuyển giao công nghệ và nằm dưới sự
quản lý của Bộ Khoa Học Công Nghệ. Tuy nhiên Luật Thương mại 2005 lại xác
định NQTM là một HĐTM và chịu sự quản lý của Bộ Thương Mại. Như vậy,
NQTM dường như đang bị kẹt giữa hai cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Thương
Mại và Bộ Khoa Học Công Nghệ.
- Pháp luật về NQTM của Việt Nam chủ yếu quy định vấn đề đăng ký, quản
lý nhà nước với hoạt động này mà thiếu các quy định về vấn đề bên nhượng quyền
có thể thiết lập sự kiểm soát ở mức nào, giới hạn là bao nhiêu,... Hầu hết các nhà
làm luật đều quên đi hoạt động kiểm soát của bên nhượng quyền và các vấn đề đi
kèm với nó liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Mà mâu thuẫn về giới
hạn kiểm soát thì luôn tồn tại bởi tính đặc thù của loại hình kinh doanh này. Cụ
thể, bên nhận quyền độc lập kinh doanh, tuy phải tuân theo những tiêu chuẩn của
bên nhượng quyền song cơ sở nhượng quyền đó vẫn là tài sản của anh ta. Còn về
phía bên nhượng quyền, cơ sở nhượng quyền là một phần trong hệ thống. Bởi vậy
bên nhượng quyền luôn tìm cách kiểm soát càng nhiều càng tốt, trong khi đó bên
nhận quyền thì lại mong muốn hạn chế, trốn tránh khỏi sự kiểm soát. Nếu sự kiểm
soát càng chặt chẽ sẽ phát sinh mâu thuẫn có thể dẫn tới những thiệt hại cho công
việc kinh doanh của cả hai bên.

Trang 17


Mặt khác, trong thời gian gần đây, tại Việt Nam xuất hiện càng nhiều các nhà
NQTM nước ngoài của các thương hiệu nổi tiếng như: KFC, Lotteria, Gloria Jean
Café,…, Sotheby’s International Realty Affiliates, Inc,… theo dự báo của các
chuyên gia kinh tế, NQTM sẽ còn mở rộng trên mọi lĩnh vực. Điều này cho thấy
đa phần khi gia nhập vào hệ thống NQTM quốc tế, các DN Việt Nam sẽ chủ yếu
là các nhà nhận quyền và phải chịu nhiều bất lợi từ những hoạt động mang tính
chất kiểm soát của các nhà nhượng quyền quốc tế.
Về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ sẽ do các bên thỏa thuận và ghi nhận trong

HĐ. Tuy nhiên để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, pháp luật Việt
Nam chỉ đưa ra những quy định khung mang tính chất định hướng để bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của các bên. Các quy định này còn rất nhiều bất cập, ảnh hưởng
đến quyền lợi của phía bên nhận quyền, tạo ra sự không bình đẳng giữa bên Việt Nam
với bên nước ngoài.

3.2

Bảo vệ quyền lợi cho bên nhận quyền trong nhượng
quyền thương mại tại Việt Nam.
3.2.1.
a)
i.

Hoạt động khai thác trong nhượng quyền thương mại
Quyền kiểm soát
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại

Cụm từ "thỏa thuận hạn chế cạnh tranh" được dùng để chỉ sự thông đồng của
một số chủ thể kinh doanh có những lợi thế trên những thị trường nhất định mà nội
dung của những thỏa thuận này nhằm vào việc duy trì và tiếp tục nâng cao hơn nữa
vị thế của các thành viên của thỏa thuận, đồng thời hạn chế cạnh tranh của các đối
thủ cạnh tranh khác. Để xác định một thỏa thuận thương mại bất kỳ là một thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh cần phải xác định rất nhiều yếu tố liên quan như chủ thể,
khách thể cũng như tính chất và mức độ hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận đó.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là thỏa thuận giữa các tác nhân kinh tế nằm
ở vị trí ngang nhau trong chu trình sản xuất hoặc phân phối, tức các nhà sản xuất
với nhau hoặc các nhà phân phối với nhau, hoặc là thỏa thuận giữa các tác nhân


Trang 18


kinh tế nằm ở vị trí khác nhau trong chu trình sản xuất hoặc lưu thông tức thỏa
thuận giữa nhà sản xuất và người phân phối.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được xác định thông qua các dấu hiệu
sau: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành động diễn ra giữa
các doanh nghiệp hoạt động độc lập với nhau; nội dung của thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các
doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ khoa học công
nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng; hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm
giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Pháp luật Việt Nam và hầu hết các quốc gia đều cho phép các bên trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại thỏa thuận các điều khoản khá đặc biệt: một là,
bên nhận quyền không được thiết lập quan hệ trong cùng một lĩnh vực thương mại
với bên thứ ba nếu quan hệ này có khả năng gây ra cạnh tranh giữa bên thứ ba và
bên nhượng quyền; hai là, các bên có thể cùng nhau thỏa thuận giao kết một hợp
đồng nhượng quyền thương mại độc quyền; ba là, các bên có quyền từ chối giao
dịch thương mại với các bên thứ ba nếu như việc thực hiện giao dịch này có khả
năng ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống nhượng quyền thương mại; bốn là, các bên
phải thực hiện một cách tốt nhất những phương pháp, cách thức để đảm bảo tính
đồng bộ của hệ thống nhượng quyền thương mại. Có thể nói thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại là loại thỏa thuận được ra
đời bởi sự cho phép và bảo vệ của Nhà nước. Căn cứ các quy định về thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, các thỏa thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền
được ghi nhận trong hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể dẫn tới thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh sau: Thứ nhất, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn
cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua việc ký một hợp đồng nhượng
quyền thương mại độc quyền. Thứ hai, thường thấy trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống nhượng

quyền thương mại.. Thứ ba, thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp
khác tham gia thị trường, hoặc phát triển kinh doanh bằng cách thống nhất về việc
từ chối mua hàng hoặc bán hàng cho các bên thứ ba nếu như nhận thấy việc mua,
Trang 19


bán hàng hóa với bên thứ ba có khả năng gây ra những thiệt hại đối với "quyền
thương mại" mà các bên đang khai thác.
ii.

Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại

Những lợi thế nhất định của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong
khi giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể được xem xét dưới góc độ
hành vi của một doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh, đối với một doanh nghiệp
khác theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Hơn nữa, sự kết hợp của bên nhận
quyền và nhượng quyền trong một nỗ lực chung là gạt bỏ các tác nhân có khả năng
gây hại tới hệ thống nhượng quyền thương mại cũng có thể cấu thành hành vi của
các doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh trên thị trường đối với các doanh nghiệp
khác. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường chỉ có thể được thực hiện bởi
một hoặc một số chủ thể kinh doanh nắm trong tay quyền lực thị trường và phải
cùng kinh doanh trên một thị trường liên quan. Tính chất đặc biệt về chủ thể thực
hiện này làm cho hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường tỏ ra rất có hiệu quả
trong việc hạn chế cạnh tranh. Nếu việc sử dụng quyền lực thị trường vượt qua
giới hạn hợp lý, hành vi của các thương nhân nói trên sẽ trở thành hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh và có thể
bị cấm theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Căn cứ vào đối tượng chịu tác động, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể được nhận diện ở hai

dạng, gồm đối tượng của hành vi là bên nhận quyền và đối tượng của hành vi là
bên thứ ba. Thứ nhất, đối tượng bị ảnh hưởng của hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thống lĩnh là bên nhận quyền. Đối tượng thực hiện hành vi lạm dụng chính là
bên nhượng quyền. Để có thể kết luận được về việc bên nhượng quyền có vi phạm
pháp luật cạnh tranh hay không phụ thuộc vào việc xem xét các lợi thế của bên
nhượng quyền và việc bên nhượng quyền sử dụng những lợi thế đó như thế nào
trong quan hệ với bên nhận quyền, thị phần mà bên này nắm giữ, và quan trọng
hơn cả, đó là xem xét liệu có tồn tại hay không tính chất cạnh tranh giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền. Thứ hai, đối tượng bị ảnh hưởng của hành vi
Trang 20


lạm dụng vị trí thống lĩnh là các bên thứ ba. Đối tượng thực hiện hành vi lạm dụng
chính là bên nhận quyền và bên nhượng quyền. Trong trường hợp này, sự kết hợp
hành vi giữa bên nhượng quyền thương mại và các bên nhận quyền sẽ cấu thành
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với mục đích loại bỏ các bên thứ ba khỏi thị
trường hoặc ngăn cản các bên thứ ba tham gia thị trường. Tuy nhiên, cũng giống
như trường hợp trên, pháp luật cạnh tranh chỉ có thể can thiệp nếu thị phần kết hợp
của bên nhận quyền và bên nhượng quyền đủ lớn để tạo ra cho các bên này một vị
trí thống lĩnh thị trường và việc các bên này cùng thực hiện các thỏa thuận của hợp
đồng nhượng quyền thương mại phải được coi là cùng nhau thực hiện hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh.
b)

Vấn đề cung cấp thông tin trước khi kí kết hợp đồng của bên
nhượng quyền

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 287, Luật Thương mại 2005; Điều 8,
Nghị định 35/2006/NĐ-CP: Bên nhượng quyền có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu,
thông tin cho bên nhận quyền trong thời hạn ít nhất là 15 ngày làm việc trước khi

ký kết HĐ NQTM nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Các nội dung bắt buộc của bản giới thiệu về NQTM được quy định tại Phụ
lục III, ban hành kèm theo Thông tư số 09/2006/TT-BTM, bao gồm một số thông
tin cần thiết để bên dự kiến nhận quyền nghiên cứu trước khi kí kết HĐ sau:
- Thông tin chung về bên nhượng quyền;
- Thông tin vế nhãn hiệu hàng hóa dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ:
- Thông tin về bên nhượng quyền;
- Chi phí ban đầu mà bên nhượng quyền phải trả;
- Các nghĩa vụ tài chính khác của bên nhận quyền;
- Đầu tư ban đầu của bên nhận quyền;
- Nghĩa vụ của bên nhượng quyền phải thuê hoặc mua những trang thiết bị
để phù hợp với hệ thống kinh doanh do bên nhượng quyền quy định;
- Mô tả thị trường hàng hóa dịch vụ kinh doanh theo phương thức NQTM;
- Thông tin về hệ thống NQTM;
- Nghĩa vụ của bên nhượng quyền;
Trang 21


- Báo cáo tài chính của bên nhượng quyền.
Ngoài ra, nếu QTM là quyền chung, có nghĩa là bên nhượng quyền cấp cho
bên nhận quyền và cho phép bên nhận quyền tiếp tục cấp cho bên thứ ba (gọi là
bên nhận quyền thứ cấp). Trường hợp này, ngoài việc cung cấp thông tin nói trên,
bên nhượng quyền thứ cấp còn phải cung cấp cho bên dự kiến nhận quyền văn bản
với các nội dung như: Thông tin cho bên nhượng quyền đã cấp QTM cho mình;
nội dung của HĐ NQTM chung; cách xử lý các HĐ NQTM thứ cấp trong trường
hợp chấm dứt HĐ NQTM.
Để đảm bảo nghĩa vụ này được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh bởi bên
nhượng quyền, Nghị định 06/2008/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
16/01/2008 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, tại Khoản
2 - Điều 50 đã quy định phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với

một trong các hành vi sau:
- Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung trong hồ sơ đề nghị
đăng ký hoạt động NQTM;
- Không cung cấp, cung cấp không đầy đủ, không chính xác các thông tin
trong hoạt động NQTM theo quy định;
- Cung cấp thông tin không trung thực, không đầy đủ các nội dung bắt buộc
trong bản giới thiệu về NQTM;
- Ngôn ngữ, nội dung chủ yếu của HĐ NQTM không đúng quy định;
- Kinh doanh NQTM khi chưa đủ điều kiện theo quy định;
- Không thực hiện báo cáo, cung cấp tài liệu hoặc hoặc báo cáo không trung
thực, đầy đủ những vấn đề có liên quan đến hoạt động NQTM theo yêu
cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Nhận xét.
Việc cung cấp thông tin là nghĩa vụ và bên nhượng quyền phải thực hiện trên
nguyên tắc “thiện chí và trung thực”. Thực tế chỉ có bản thân bên nhượng quyền
là hiểu rõ nhất các thông tin tài chính, những thuận lợi, khó khăn trong công việc
kinh doanh của mình. Còn bên nhận quyền - ở một vị thế thấp hơn so với bên
Trang 22


nhượng quyền, ngoài việc nhận được một phần thông tin do bên này cung cấp và
một phần căn cứ dựa trên sự tự tìm hiểu thì để có được các thông tin triệt để và
trung thực về đối tượng nhượng quyền là hết sức khó khăn. Mặt khác, để đảm bảo
tính đồng bộ trong toàn hệ thống, bên nhượng quyền thường chuẩn bị sẵn HĐ
NQTM mẫu áp dụng chung cho tất cả các bên nhận quyền. Trong quá trình đàm
phán, giao kết HĐ, bên nhận quyền hầu như chỉ có thể lựa chọn hoặc gia nhập hoặc
không gia nhập hệ thống NQTM. Sự thỏa thuận lại về một số điều khoản bên nhận
quyền rất hiếm khi thành công. Từ các quy định trên của pháp luật Việt Nam về
vấn đề cung cấp thông tin, có thể thấy:
Để nghĩa vụ này được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh bởi bên nhượng

quyền, Nghị định số 06/2008/NĐ-CP quy định mức tiền phạt từ 3.000.000 đồng
đến 5.000.000 đồng. Tuy nhiên mức phạt như trên là quá ít, không đủ mạnh để hạn
chế hành vi vi phạm của bên nhượng quyền, đặc biệt trong trường hợp bên nhượng
quyền là một DN nước ngoài lớn với khả năng tài chính mạnh.
Về thời hạn cung cấp, pháp luật Việt Nam yêu cầu bên nhượng quyền phải
cung cấp bản sao HĐ NQTM mẫu và bản giới thiệu về NQTM với các thông tin
theo quy định là ít nhất 15 ngày làm việc trước ngày ký kết HĐ. Tuy vậy, trước
khi ký kết HĐ, bên nhượng quyền còn có thể yêu cầu bên nhận quyền ký một HĐ
khác liên quan đến việc NQTM hoặc thanh toán bất cứ một khoản tiền nào nhằm
mục đích đảm bảo việc giao kết HĐ. Do vậy, sẽ hợp lý hơn nếu quy định khoảng
thời hạn này được tính trên cơ sở trước khi ký kết bất cứ HĐ nào hoặc trước khi
thanh toán một khoản tiền nhất định liên quan đến việc giao kết HĐ.
Về thông tin về tài chính của bên nhượng quyền, pháp luật Việt Nam chỉ yêu
cầu bên nhượng quyền cung cấp bản sao báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong
01 năm trước ngày cung cấp thông tin (Điều 5, Nghị định 35/2006/NĐ-CP). Với
sự giới hạn này thì việc cung cấp bản sao báo cáo tài chính khó có thể phản ánh
đầy đủ và chính xác triển vọng phát triển của bên nhượng quyền. Vì thế, gây khó
khăn cho bên nhận quyền khi đưa ra được quyết định về việc ký HĐ NQTM.
Như vậy, về cơ bản các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên
nhượng quyền trước khi ký kết HĐ NQTM theo pháp luật Việt Nam khá bao quát,
Trang 23


quy định rõ các loại thông tin cần cung cấp, thời hạn cung cấp,… Tuy nhiên, trong
số các loại thông tin đó lại chưa hề có thông tin nào cho phép bên nhận quyền nắm
bắt được chiến lược kinh doanh của bên nhượng quyền. Đây sẽ là một khoảng
trống, bởi vì các thông tin này sẽ giúp bên nhận quyền định hướng đúng hoạt động
kinh doanh của mình cũng như hạn chế sự kiểm soát quá chặt chẽ của bên nhượng
quyền. Do đó, cần bổ sung các thông tin cần thiết để giúp bên nhận quyền có thể
đưa ra quyết định sáng suốt trong việc ký hay không ký HĐ NQTM.

c)

Độc quyền cung cấp trang thiết bị

Ở Việt Nam, việc bên nhượng quyền áp đặt cho bên nhận quyền phải mua
hoặc thuê các thiết bị của mình hoặc của người thứ ba do mình chỉ định không mặc
nhiên bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm. Thật vậy, thông tư số 09
ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM quy định rằng bên nhượng
quyền phải nêu rõ trong bản giới thiệu về NQTM những trang thiết bị mà bên nhận
quyền phải thuê hoặc mua. Điều này có nghĩa là bên nhượng quyền được phép yêu
cầu bên nhận quyền mua các thiết bị của mình hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ
định. Trong trường hợp như vậy, bên nhượng quyền phải ghi rõ vào trong bản giới
thiệu về hệ thống NQTM.
d)

Độc quyền cung cấp sản phẩm

Trong hầu như tất cả các hợp đồng NQTM ở VN đều có điều khoản độc
quyền cung cấp sản phẩm, dịch vụ, theo đó bên nhượng quyền buộc bên nhận
quyền phải mua sản phẩm của mình hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ định. Điều
khoản độc quyền có thể được tăng cường khi bên nhượng quyền áp đặt cho bên
nhận quyền phải đạt được một doanh thu tối thiểu. Trong trường hợp đó, bên nhận
quyền không những chỉ được mua sản phẩm của bên nhượng quyền, mà còn phải
thực hiện chỉ tiêu mà bên nhượng quyền áp đặt, nếu không sẽ có nguy cơ bị chấm
dứt hợp đồng.
Trong thực tế, để tránh các quy định của pháp luật cạnh tranh, bên nhượng
quyền thường không đặt tên cho các điều khoản của mình là “độc quyền cung cấp”,
mà thường sử dụng các tên như “điều khoản quota”, “điều khoản khối lượng mua
Trang 24



tối thiểu”, hoặc “điều khoản chỉ tiêu”. Thông qua các điều khoản này, bên nhượng
quyền áp đặt cho bên nhận quyền phải mua một lượng hàng nhất định của mình
hoặc của nhà cung cấp do mình chỉ định. Các điều khoản này thường đi kèm với
các điều khoản độc quyền, nhưng chúng cũng có thể tồn tại mà không có các điều
khoản độc quyền. Bên nhận quyền tự do mua và bán lại các sản phẩm cạnh tranh.
Tuy nhiên, sự tự do này trên thực tế chỉ là hình thức. Số lượng hàng hóa bị áp đặt
càng nhiều thì tự do của bên nhận quyền càng ít.
e)

Thỏa thuận độc quyền lãnh thổ

Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho cả hệ thống, bên nhượng quyền thường
quyết định số lượng cửa hàng nhượng quyền trên một khu vực địa lý nhất định
bằng việc phân chia khu vực kinh doanh cụ thể cho mỗi bên nhận quyền. Quy định
này giúp tránh được sự cạnh tranh giữa các bên nhận quyền với nhau và giữa các
bên nhận quyền với chính bên nhượng quyền. Khi đó, mỗi đơn vị nhận quyền sẽ
có thể có hiệu suất khai thác cao nhất để từ đó cạnh tranh tốt hơn với các hệ thống
khác.
Độc quyền lãnh thổ có thể bao gồm độc quyền khai thác mô hình nhượng
quyền, độc quyền nhãn hiệu (độc quyền tương đối) và độc quyền phân phối (độc
quyền tuyệt đối) trong một phạm vi địa lý nhất định.
Độc quyền khai thác mô hình kinh doanh là thỏa thuận theo đó bên nhượng
quyền cam kết sẽ không mở thêm bất kỳ cửa hàng nhượng quyền nào tại khu vực
địa lý đã trao cho bên nhận quyền. Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là bên nhận
quyền cũng không được mở thêm các cửa hàng bên ngoài phạm vi đã được trao.
Loại độc quyền này được coi là tương đối nếu hợp đồng NQTM không có quy định
buộc bên nhận quyền phải mua sản phẩm của bên nhượng quyền, và như vậy bên
nhận quyền được tự do bán các sản phẩm của các nhà cung cấp khác.
Độc quyền nhãn hiệu và các dấu hiệu thu hút khách hàng là thỏa thuận theo

đó bên nhận quyền cam kết không cho phép bất kỳ đối tác khác nào của bên nhượng
quyền treo biển hiệu và bán sản phẩm mang nhãn của bên nhượng quyền trong

Trang 25


×