Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 QUA SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM, HỒ DZẾNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.3 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THÙY

NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 QUA SÁNG TÁC
CỦA THẠCH LAM, HỒ DZẾNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM


Hà Nội -2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ THÙY

NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 QUA SÁNG TÁC
CỦA THẠCH LAM, HỒ DZẾNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21


Hà Nội -2018


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................................2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:.........................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:..........................................................................5
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:...........................................5
5. Bố cục đề tài.................................................................................................6
Chương 1: TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930- 1945 VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM, HỒ DZẾNH.................7
1.1 Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930- 1945..........................................7
1.2. Hành trình sáng tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.................................15
1.2.1. Thạch Lam - cuộc đời và sự nghiệp....................................................15
1.2.2. Hồ Dzếnh - cuộc đời và sự nghiệp.......................................................19
Chương 2: NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN..................24
THẠCH LAM, HỒ DZẾNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG...24
2.1. Nhân vật phụ nữ là nạn nhân của xã hội.............................................24
2.2. Nhân vật phụ nữ chịu thương, chịu khó..............................................43
2.3. Nhân vật phụ nữ vượt lên hoàn cảnh, khao khát trong cuộc sống..........55
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN
VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM, HỒ DZẾNH 63
3.1. Tình huống truyện..................................................................................63
3.2. Miêu tả tâm lí nhân vật.........................................................................69
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu..............................................................................76
KẾT LUẬN....................................................................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................87

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào thấm
nhuần vào trong lòng người, đất nước của bàn tay người mẹ tảo tần, chịu
thương, chịu khó qua bao năm tháng…. Và từ trong cái nguồn mạch dạt dào
ấy, người phụ nữ là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của
người nghệ sĩ qua nhiều thời đại khác nhau. Đối với văn học việt Nam, nhân
vật phụ nữ chứa đựng nhiều vẻ đẹp không chỉ về hình thức mà còn cả vẻ đẹp
tâm hồn.
Văn học phản ảnh lại hiện thực cuộc sống theo tiến trình của lịch sử dân
tộc. Giai đoạn văn học 1930 – 1945 là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử
văn học Việt Nam với rất nhiều tác giả sáng tác ra những tác phẩm có giá trị
cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó, Thạch Lam, Hồ Dzếnh là hai nhà văn
có vị trí đáng kể trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 với
nhiều thiên truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật người phụ nữ bước ra từ những
trang văn của Thạch Lam, Hồ Dzếnh nhẹ nhàng, sâu lắng, đi sâu vào tâm trí
người đọc như nhắc nhở chúng ta luôn nhớ tới hình ảnh của một thời, một
kiếp người từng tồn tại.
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu về truyện ngắn Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Để góp một tiếng nói vào
việc khẳng định tài năng, nhân cách và những đóng góp của Thạch Lam, Hồ
Dzếnh vào sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, tôi xin
được lựa chọn đề tài: Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn giai đoạn 1930 –
1945 qua sáng tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.
Trong khuôn khổ một luận văn, tôi chưa có điều kiện và khả năng để
giải quyết hết mọi vấn đề của đề tài, mà chỉ đi vào một khía cạnh, một vài nét
về nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam, Hồ Dzếnh giai
2


đoạn 1930 – 1945 mà tôi cho rằng những đặc điểm ấy đã góp phần làm nên
nhà văn Thạch Lam và Hồ Dzếnh.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay, số lượng người nghiên cứu về Thạch Lam, Hồ Dzếnh khá
động đảo với nhiều công trình phong phú và đa dạng. Cùng với sự đổi mới
của xã hội, nhiều vấn đề của văn học quá khứ được xem xét và đánh giá lại
một cách thỏa đáng, công bằng và khoa học hơn. Văn chương Thạch Lam trở
thành điểm thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và độc giả.
Bằng chứng là nhiều tác phẩm của Thạch Lam được in lại, tái bản nhiều lần.
Trong nhiều công trình nghiên cứu lớn đã có tên của Thạch Lam: Sơ thảo lịch
sử văn học Việt Nam (Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn chủ biên, Viện Văn
học, NXB Giáo Dục, 1964), Lịch sử văn học Việt Nam (tập V, Phần II, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1978). Ông cũng có tên trong Chân dung các nhà văn Việt
Nam hiện đại (tập I, NXB Giáo dục, 2005). Bên cạnh đó còn có công trình
Thạch Lam về tác giả và tác phẩm (NXB Giáo dục, 2007) do Vũ Tuấn Anh và
Lê Dục Tú tuyển chọn và giới thiệu. Công trình nghiên cứu này đã tập hợp
những bài phê bình, nghiên cứu Thạch Lam từ cuối những năm ba mươi cho
đến nay, cung cấp những tư liệu cần thiết về cuộc đời và sự nghiệp văn
chương Thạch Lam. Đặc biệt, trong cuốn Văn học Việt Nam 1900 - 1945
(NXB Giáo dục, 1997), Thạch Lam được dành một chương do Hà Văn Đức
viết. Trong đó, tác giả không chỉ đi sâu tìm hiểu thế giới nhân vật, những nét
đặc sắc về nghệ thuật mà còn phần nào lý giải những yếu tố đã góp phần làm
nên tài năng văn học này. Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam của
Nguyễn Thành Thi (NXB Khoa học xã hội, 2006) cung cấp một cái nhìn tổng
quát về đặc trưng nghệ thuật văn xuôi Thạch Lam trên cơ sở phân tích, khảo
sát các bình diện biểu hiện phong cách nghệ thuật của ông, để từ đó thấy được
những đóng góp cụ thể của ông đối với sự phát triển của nghệ thuật văn xuôi
3


hiện đại nói chung và sự phát triển của truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút nói
riêng. Ngoài ra, còn rất nhiều báo cáo khoa học, cùng những luận án tìm hiểu

về đời văn của ông. Nguyễn Thị Thanh Thủy với đề tài luận văn thạc sĩ
Truyện ngắn trữ tình 1930 -1945: mấy vấn đề về thi pháp thể loại (qua các
truyện ngắn của Thạch Lam - Hồ Dzếnh - Thanh Tịnh) đã đi sâu, tìm hiểu thế
giới nhân vật trong truyện ngắn trữ tình, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời
gian, không gian nghệ thuật, tình huống, kết cấu và giọng điệu ngôn ngữ nghệ
thuật của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh. Tất cả các bài viết, bài nghiên
cứu về Thạch Lam đã đi vào nhiều vấn đề: thân thế và sự nghiệp, quan niệm
văn chương,… đặc biệt là thường đi vào đặc điểm tư duy và hình thức biểu
hiện nghệ thuật trong phong cách của Thạch Lam với nhiều cách nhìn, nhiều
điểm nhìn khác nhau.
Hồ Dzếnh được bạn đọc biết đến không chỉ với tư cách một nhà văn mà
còn là một nhà thơ khá nổi tiếng với tập thơ Quê Ngoại (NXB Nguyên Hà,
1943). Trong số các công trình nghiên cứu về Hồ Dzếnh có nhiều công trình
viết về Hồ Dzếnh thi sĩ. Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu
dành cho tập truyện đầu tay Chân trời cũ - tập truyện được coi là thành công
nhất trong sự nghiệp của Hồ Dzếnh. Tập truyện này được Thạch Lam đọc và
góp ý ngay từ khi còn ở dạng bản thảo. Ông đã có tên trong cuốn Văn học
Việt Nam hiện đại - Những gương mặt tiêu biểu do Nguyễn Đăng Mạnh chủ
biên (NXB Phụ nữ, 2012), Văn chương và cảm nhận của Tôn Phương Lan
(NXB Khoa học xã hội, 2005). Đặc biệt, công trình Hồ Dzếnh – Thơ văn
tuyển chọn (NXB Hội nhà văn, 2012) đã giới thiệu cho bạn đọc vài nét về tiểu
sử, sự nghiệp sáng tác với những tác phẩm thơ, văn hay và một số bài viết về
Hồ Dzếnh. Điểm lại hầu hết những bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh có thể nhận
thấy các tác giả rất chú trọng đến chất thơ trong văn Hồ Dzếnh, đến thế giới
nghệ thuật của Hồ Dzếnh.
4


Như vậy, Thạch Lam và Hồ Dzếnh ngày càng được giới nghiên cứu
đánh giá cao và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Đến nay, có thể

thấy việc nghiên cứu Thạch Lam, Hồ Dzếnh và sáng tác của hai nhà văn đã
tiến một bước khá dài. Tuy rằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về Thạch
Lam, Hồ Dzếnh và các tác phẩm của hai nhà văn nhưng nhìn chung về đề tài:
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945 qua sáng tác của
Thạch Lam, Hồ Dzếnh chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể. Thạch Lam,
Hồ Dzếnh viết nhiều và viết hay, cho ta cách nhìn sâu sắc và cụ thể về hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu gần đây lại
không đi cụ thể vào đề tài này. Với thời lượng hạn hẹp của một luận văn, trên
cơ sở kế thừa, tổng hợp những thành quả của các công trình nghiên cứu trước
đó, tôi hy vọng đề tài này mang đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể về
Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945 qua sáng
tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu trước,
dựa trên những hiểu biết của bản thân, trong phạm vi một đề tài nghiên cứu
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh: nhằm làm rõ những
luận điểm, luận cứ đã được liệt kê.
- Phương pháp loại hình: nhằm làm rõ những đặc điểm của truyện ngắn.
- Phương pháp so sánh: so sánh giữa hai nhà văn Thạch Lam, Hồ Dzếnh
trong văn chương nghệ thuật
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Về mục đích nghiên cứu đề tài, trước hết tôi muốn tìm ra những đặc
điểm về nhân vật người phụ nữ trong các truyện ngắn của nhà văn Thạch

5


Lam, Hồ Dzếnh – đó là một vấn đề mang tính nhân văn và cần thiết mà bất
cứ cây bút nào cũng hướng đến.

Nghiên cứu đề tài này, cũng là để là tự trang bị cho bản thân những
kiến thức mở rộng để trợ giúp cho quá trình giảng dạy. Thêm nữa tôi mong
muốn góp thêm một tiếng nói nhỏ để từ đó giúp người đọc nhận diện thêm
những thành công của Thạch Lam, Hồ Dzếnh trên trang viết. Thành công đó
không chỉ ở nghệ thuật tả nội tâm nhân vật, ở giọng văn thủ thỉ tâm tình mà
còn ở cả quan niệm rất nhân văn về con người của hai nhà văn.
Đối tượng nghiên nghiên cứu của đề tài Nhân vật người phụ nữ trong
truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945 qua sáng tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.
Để làm tiền đề lí luận cho đề tài, chúng tôi đi tìm hiểu thêm về truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 và hành trình sáng tác của Thạch Lam, Hồ
Dzếnh, từ đó soi vào các tác phẩm cụ thể để khảo sát và tìm ra các đặc điểm
về nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.
Với thời lượng của một luận văn và kiến thức hạn chế của bản thân,
phạm vi nghiên cứu của đề tài gói gọn trong một số tác phẩm truyện ngắn của
Thạch Lam, Hồ Dzếnh giai đoạn 1930 – 1945, từ đó đi sâu vào tìm hiểu nhân
vật phụ nữ trong các tác phẩm trên.
5. Bố cục đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 và hành trình
sáng tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh.
Chương 2: Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam, Hồ Dzếnh
nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ trong
truyện ngắn Thạch Lam, Hồ Dzếnh

6


Chương 1: TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930- 1945 VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM, HỒ DZẾNH

1.1 Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930- 1945
Văn học Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục có tính kế thừa và
phát huy cao độ. Trải qua nhiều thời kì, mỗi thời kì có một đặc trưng riêng,
tuy nhiên vẫn có những giá trị mang tính truyền thống. Hoàn cành lịch sử của
giai đoạn 1930- 1945 có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp lúc bấy giờ ra

sức đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, cơ cấu xã hội Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc, các tầng lớp nhân dân bị phân hóa rõ rệt. Những
biến động lịch sử quyết định sự phát triển của dân tộc đó đã tác động vào đ ời

sống văn học. Cho nên, văn học thời kì này vô cùng đa dạng, phong phú, có
ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 phát triển một cách mạnh mẽ và
đạt được những thành tựu to lớn ở hầu hết mọi lĩnh vực. Những thành tựu đó
đã làm thay đổi hẳn diện mạo của văn học dân tộc theo hướng hiện đại hóa.
Văn học giai đoạn này xuất hiện cùng một lúc xen kẽ, song song ba trào lưu
lớn: văn học hiện thực phê phán với những cây bút tiêu biểu như: Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng; Văn học lãng mạn có Xuân
Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,…; Văn học cách mạng có: Hồ Chí Minh, Tố Hữu,….
Sự phát triển của những trào lưu ấy đã đem lại bộ mặt mới cho văn học nước
nhà trên nhiều lĩnh vực. Thơ ca thời kì này phát triển nhanh chóng, đặc biệt là
phong trào Thơ mới. Bên cạnh đó là sự phát triển cũng mạnh mẽ không kém
cả về số lượng lẫn chất lượng của các thể loại văn xuôi nghệ thuật như: tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tuỳ bút, nghiên cứu phê bình,…. Do sự phức
tạp của diện mạo văn học giai đoạn này cùng những yêu cầu cấp thiết của việc
đổi mới, hiện đại hoá văn học, nhiều tác giả có thể sáng tác rất nhiều thể loại
khác nhau, mà ở mỗi thể loại lại đều có những thành công nhất định. Qua đó,
7



ta có thể thấy được sự phát triển mạnh của văn học giai đoạn này không chỉ
về số lượng, chất lượng tác phẩm mà còn cả về đội ngũ tác giả. Điều này cũng
được thể hiện rõ ở mảng sáng tác về truyện ngắn.

Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, “truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ
nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện

của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn.
Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không
nghỉ” [32, tr. 370]. “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống
trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới
việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Vì thế trong truyện ngắn
thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu
thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới
ấy” [32, tr. 371].
Văn học giai đoạn 1930- 1945 vừa gắn liền với những sự kiện lịch sử
dân tộc, vừa có sự chuyển mình với những bước tiến vượt bậc. Truyện ngắn
trong giai đoạn này phong phú, đặc sắc và đa dạng trên các lĩnh vực. Đa dạng,
phong phú về khuynh hướng thẩm mĩ, về phong cách nghệ thuật, đề tài và bút
pháp. Các nhà văn đã đưa ra một bức tranh hiện thực cuộc sống trong truyện
ngắn của mình với một tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Bức tranh
đó hiện lên chân thực và cảm động với những cảnh sắc, phong vị riêng, về số
phận và tâm hồn con người Việt Nam trong thời kì đầy khó khăn nhưng vẫn
tràn ngập tình yêu thương, yêu đời, một sức sống bất diệt, hướng về tương lai.
Quá trình phát triển của truyện ngắn gắn liền với quá trình chuyển mình
để hiện đại hóa mạnh mẽ của toàn bộ văn học dân tộc khởi động từ đầu thế kỉ
XX. Các thế hệ cầm bút đã liên tục nối tiếp nhau viết những tác phẩm hay và
đặc sắc để góp phần vào sự chuyển mình của thể loại này trong nền văn học
8



dân tộc. Và để đáp ứng được yêu cầu của thời đại cũng như lực lượng sáng tác
mới thì bộ mặt văn học cũng luôn đổi mới. Nền văn học của dân tộc đã làm
một cuộc vươn lên phát triển chưa từng có trong lịch sử. Trong giai đoạn 1930
- 1945, quá trình hiện đại hóa diễn ra trong hoàn cảnh đất nước là thuộc địa
của Pháp. Diện mạo của văn học hiện đại được hình thành và ngày một hoàn
thiện. Trong sự phát triển bùng nổ của văn học, truyện ngắn đã trưởng thành
vượt bậc và sớm trở thành một thể loại mạnh với những đại diện tiêu biểu
như: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Kim Lân,... Mỗi tác giả là một quan điểm, một phong cách riêng,
nhưng đều có những đóng góp vào thành công của thể loại này trong nền văn
học chung.
Truyện ngắn giai đoạn này đã phản ánh một cách toàn vẹn, sâu sắc đời
sống xã hội đương thời. Văn học hiện thực đã hướng ngòi bút vào sự thật đời
sống xã hội nhằm vạch trần bộ mặt thật của giai cấp cầm quyền; đồng thời nói
lên số phận của người dân nô lệ. Nhiều cây bút nổi tiếng với những tác phẩm
giá trị như: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,…. Đứng bên nhau mà họ không
hòa lẫn vào nhau, bởi lẽ tất cả những cây bút này đều thống nhất về quan
điểm nghệ thuật đó là viết về sự thật. Đặc biệt, Nam Cao là nhà văn đưa văn
học hiện thực lên đến đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu đó. Những tác
phẩm truyện ngắn của Nam Cao thực sự là những bức tranh chân thực về hiện
thực xã hội đương thời. Tác phẩm của ông vừa là lời kết tội đanh thép về bè lũ
tay sai, thống trị, vừa là lời xót thương, cảm thông cho số phận người dân khi
sống trong xã hội bất công, đen tối.
Bên cạnh những tác phẩm phê phán, phản ánh, tố cáo mặt trái của hiện
thực xã hội với tất cả những thối nát, lỗi thời, áp bức, bất công, lừa lọc của
giai cấp thống trị đối với người dân lao động như trong các truyện của Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Bùi Hiển,... là những tác phẩm
9



đi sâu vào khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, phát hiện vẻ đẹp đời sống nội
tâm của con người với ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu hình ảnh, thấm đượm
chất trữ tình và chan chứa chất thơ trong truyện của các nhà văn Thạch Lam,
Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Thanh Châu,... Họ gần nhau ở tấm lòng nhân hậu,
giàu tình yêu thương. Những tác phẩm đó thuộc khuynh hướng truyện ngắn
trữ tình. Truyện ngắn trữ tình đã đi sâu vào thế giới nội tâm, thế giới tình cảm
của con người. Việc khám phá thế giới bên trong của con người chứng tỏ các
nhà văn viết truyện ngắn trữ tình đã có những bước đi chắc chắn, đầy dự cảm
và đúng hướng vào tiến trình văn học hiện đại của đất nước và của nhân loại.
Truyện ngắn trữ tình đã khơi dậy lòng yêu quý, trân trọng, pha chút tiếc nuối
đối với những vẻ đẹp, những giá trị truyền thống của dân tộc. Truyện ngắn trữ
tình cũng hướng ngòi bút của mình về phía những người nhỏ bé, bất hạnh
trong xã hội bằng một niềm trắc ẩn chân thành. Mỗi truyện ngắn của Thanh
Tịnh là một bài thơ, mang chất thơ của cảnh vật và tâm hồn con người Việt
Nam bình dị mà đầy thương mến. Song ngòi bút ấy không chỉ khai thác
những gì thi vị, ngọt ngào, mà còn viết nên những trang văn đầy ám ảnh về số
phận của những người nghèo khổ trong đời sống. Những tác phẩm trữ tình
cũng có sức hấp dẫn riêng biệt của nó mà ẩn giấu dưới những lời văn nhẹ
nhàng, trong trẻo chính là hiện thực của nội tâm con người thật phong phú và
sâu sắc. Đặc điểm nổi bật của truyện ngắn trữ tình là thường không có cốt
truyện, hoặc nhà văn không chú ý nhiều đến cốt truyện như ở dạng truyện
ngắn hiện thực. Điều này đã được chứng minh rõ nét trong các tác phẩm của
nhà văn Thạch Lam. Truyện ngắn của ông thường không có cốt truyện. Trong
truyện ngắn trữ tình, trên mọi phương diện, từ tả cảnh, tả ngoại hình, đến tả
nội tâm nhân vật, vai trò chủ thể nhà văn thường rất đậm nét. Ý nghĩa của
truyện thường gắn với không gian, tâm trạng,… được gửi gắm trong tác
phẩm.
10



Trước năm 1936, nhiều nhà văn đã xác định được phong cách nghệ thuật
trên mảng truyện ngắn như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Thế Lữ. Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đã có những tác phẩm viết về thế giới tình cảm,
chủ yếu là tình yêu, tiêu biểu có tập Anh phải sống với các truyện: Tháng
ngày qua, Nắng mới rừng xuân, Nước chảy đôi dòng,… Nhưng đó là những
truyện ngắn lãng mạn, có chú ý đến yếu tố trữ tình ngoại đề hoặc tả cảnh rất
gợi chứ chưa tập trung thành khuynh hướng truyện ngắn trữ tình. Chỉ đến khi
văn chương Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới đạt đến thành tựu rực rỡ,
với sức ảnh hưởng lớn đó thì truyện ngắn trữ tình mới thực sự phát triển.
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh đã hướng ngòi bút vào khuynh hướng
truyện ngắn trữ tình, góp phần làm cho truyện ngắn trữ tình thành khuynh
hướng sáng giá trên văn đàn hiện đại. Truyện ngắn trữ tình đã có những đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển rực rỡ của nền văn học giai đoạn 1930- 1945,
trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật. Như vậy, ta có thể thấy rằng
truyện ngắn trữ tình có một vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam.
Một nền văn học được coi là phát triển mạnh, một thể loại văn học chỉ
được coi là thật sự trưởng thành nếu nền văn học đó có những nhà văn tài
năng với những tác phẩm có giá trị và có một sức sống lâu dài trong lòng
người đọc. Giai đoạn 1930 - 1945 đã có không ít những tác giả, những truyện
ngắn như thế. Trong giai đoạn 1930 - 1945, người đọc có thể tìm hiểu cụ thể
theo ba mốc thời gian: thời kì 1930 - 1935, thời kì 1936 - 1939, thời kì 1940 1945.
Thời kì 1930 - 1935, trong khi Tự Lực văn đoàn với những truyện ngắn
lãng mạn đang lôi cuốn công chúng tiểu tư sản mạnh mẽ, thì ngay từ đầu
Nguyễn Công Hoan đã tự vạch ra con đường riêng của mình. Đó là nhìn thẳng
vào hiện thực bằng tiếng cười trào phúng, làm hiện lên bộ mặt trái của xã hội
đầy bất công. Nguyễn Công Hoan - một sức bút thật dồi dào, đầy cá tính, sáng
11



tạo mạnh mẽ, độc đáo ở mảng truyện ngắn. Bước vào thế giới truyện ngắn của
ông, ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển lãm phong phú, nhiều màu
về những cảnh ngộ, những con người trong chế độ cũ. Đó là bức tranh muôn
màu về những chuyện xấu xa, những chuyện độc ác, tàn nhẫn, những chuyện
thương tâm, ai oán cùng những chuyện nực cười lố lăng trong cái xã hội thực
dân phong kiến đầy những ngang trái bất công. Bên cạnh đó là phác thảo chân
dung của nhiều kẻ hách dịch, đầy quyền thế đang sống trong giới thượng lưu
lúc bấy giờ. Tập Kép Tư Bền có tiếng vang lớn trong đời sống văn học khi đó.
Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan trở thành một trong những người mở
màn, đồng thời còn là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho khuynh hướng văn
học hiện thực.
Văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện như một trào lưu trong thời kì
1930 - 1945. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi nội
cảm, đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hòa, bất lực trước hiện
thực tầm thường, tù túng, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân. Nhân vật
chính trong các tác phẩm văn xuôi là những công tử, tiểu thư con nhà quyền
quý ở thành thị. Họ sống xa lạ với những ràng buộc của trật tự, lễ giáo phong
kiến mà họ xem là cổ hủ, lỗi thời. Họ đấu tranh cho các quyền tự do cá nhân
như tình yêu, hôn nhân, sinh hoạt. Bên cạnh đó vẫn có những nhân vật là
người bình dân, người lao động thành thị. Nhất Linh và Khái Hưng là hai cây
bút trụ cột trong nhóm Tự Lực văn đoàn được coi là những người mở ra một
thời đại mới của tiểu thuyết Việt nam, cũng là những tác giả của nhiều tập
truyện ngắn. Tập truyện ngắn đầu tiên Anh phải sống do hai nhà văn viết
chung vào năm 1932 đã gây một tiếng vang lớn, mô tả những cảnh sống cùng
khốn của người dân quê Việt nam đang cố gắng đấu tranh vô vọng với cái
nghèo túng mà không lối thoát. Đây là truyện ngắn thể hiện cái nhìn thiện

12



cảm đối với người lao động nghèo khổ. Tính nhân bản trong tác phẩm ngắn
này đã gây xúc động bao thế hệ người đọc.
Thời kì 1936 - 1939 là thời kì mà văn học hiện thực phê phán phát triển
mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tự xuất sắc. Thời kỳ này, Nguyên Hồng
cũng chính thức bước vào văn đàn với truyện ngắn đầu tay Linh hồn, in trên
Tiểu thuyết Thứ bảy. Nguyên Hồng bắt đầu được báo chí nhắc tới, tuy chỉ là
những nhận xét vắn tắt nhưng cũng báo hiệu sự xuất hiện của một cây bút
hiện thực mới trên văn đàn. Nguyên Hồng bước vào nghề văn từ rất trẻ, và
ngay từ những sáng tác đầu tay, nhà văn đã tự vạch con đường riêng, con
đường mà ông sẽ thủy chung trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Đó là trở
thành nhà văn của những người lao động cùng khổ. Ông là một cây bút truyện
ngắn dồi dào và đặc sắc thể hiện rõ chất người, chất văn Nguyên Hồng.
Vũ Trọng Phụng cũng là một nhà văn hiện thực tiêu biểu. Những tác
phẩm của ông thể hiện rõ đồng tiền, danh lợi, địa vị đã tác động đến lương
tâm, đạo đức con người khiến họ bị tha hóa về lối sống, đạo đức. Truyện ngắn
Bộ răng vàng của nhà văn Vũ Trọng Phụng đã chứng minh rõ điều đó bằng
việc nhà văn đã vạch rõ ý định, tâm địa của hai người con đối với bố. Trước
cái chết của bố, hai người con không đau đớn, xót thương mà trong đầu chỉ
nghĩ đến tài sản được kế thừa và tìm mọi cách lấy được bộ răng vàng trong
miệng người bố mới chết.
Trong giai đoạn này, viết về truyện ngắn còn có Nhất Linh với tập truyện
Tối tăm (1936) và Hai buổi chiều vàng (1937). Bên cạnh những truyện vui,
truyện phiếm khiến cho người đọc quên đi những nỗi ưu phiền hằng ngày như
Số đào hoa (1937), Tiếng suối reo (1937), thì Khái Hưng còn có những tập
truyện lấy nội dung từ những vấn đề xã hội, một kiểu tâm lý, một góc sinh
hoạt đời thường để khiến cho người đọc phải suy ngẫm, đồng cảm, xót thương
như Dọc đường gió bụi (1936), Hạnh (1938), Đợi chờ (1939).
13



Thời kì 1940 - 1945, văn học hiện thực có sự phân hóa. Các nhà văn
hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân như Chí
Phèo, Lão Hạc của Nam Cao. Truyện Nam Cao không thật phong phú về đề
tài. Ông thường viết về mảng đề tài quen thuộc: cuộc sống thống khổ của
người nông dân làng quê ông và cuộc sống mòn mỏi, buồn thảm của người trí
thức tiểu tư sản nghèo – khai thác từ chính bản thân ông. Tác phẩm tiêu biểu
là Trăng sáng. Dù viết về đề tài trí thức hay về người nông dân cùng khổ, điều
làm cho Nam Cao day dứt tới đau đớn là tình trạng con người bị xói mòn về
nhân phẩm, thậm trí bị huỷ diệt cả nhân tính trong cái xã hội phi nhân đạo
đương thời. Nhưng dù thế nào nhà văn vẫn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp
đang ở phía trước.
Ngoài ra, trong giai đoạn 1940 - 1945 còn có nhiều tác giả viết về truyện
ngắn rất thành công như: Tô Hoài, Bùi Hiển…. Tô Hoài cũng viết và nổi
tiếng từ rất sớm. Truyện loài vật của Tô Hoài vui, hóm hỉnh, vừa tâm lí sắc
sảo, vừa triết lí thâm trầm về cách sống ở đời hay về thế sự thăng trầm. Từ
tập truyện ngắn O chuột viết năm 1942, Tô Hoài đã cho thấy một cây bút độc
đáo trong văn xuôi khi đó. Nằm ăn vạ là tập truyện ngắn đầu tay của Bùi
Hiển. Tác phẩm được viết theo khuynh hướng tả chân thực rất giàu chất sống
và đặc sắc về chi tiết. Truyện của Bùi Hiển không chỉ phản ánh được cuộc
sống cơ cực, khó khăn của những người dân ở mảnh đất miền Trung mà còn
làm nổi rõ vẻ đẹp hồn nhiên, chất phác yêu đời của họ. Nhà văn luôn dành
cho những người lao động nghèo khổ của quê hương tấm lòng cảm thông,
thương mến. Trong giai đoạn này nổi lên một cây bút rất mực tài hoa, độc
đáo: Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở một thời
vang bóng. Ông nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời. Đây là tập
truyện có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về các phương

14



diện nghệ thuật khẳng định tài năng của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ
thuật.
Giai đoạn 1930 - 1945 đã xuất hiện nhiều tác giả tiêu biểu viết về thể
loại truyện ngắn. Tất cả như tô điểm thêm trong bầu trời văn chương Việt
Nam những vì sao sáng. Chỉ trong thời gian 15 năm, thể loại văn xuôi mới mẻ
này đã trưởng thành rất nhanh để đạt tới cao độ nghệ thuật, sự hoàn thiện.
Với ưu thế gọn, nhẹ, nắm bắt nhanh các vấn đề nóng hổi của đời sống, thể
loại truyện ngắn đã nhanh chóng khẳng định vị trí quan trọng của mình trong
nền văn học dân tộc. Truyện ngắn 1930 - 1945 đã để lại những cống hiến to
lớn về mặt phản ánh đời sống xã hội. Như vậy, ngày càng vươn lên mạnh mẽ
hướng về phía trước, văn học có được những giá trị thật sự và ngày càng bắt
rễ sâu vào đời sống nhân dân, thấm nhuần tính dân tộc. Đó là điều có tính quy
luật, rút ra từ thực tế phát triển tốt đẹp của truyện ngắn và cũng là của toàn bộ
văn học dân tộc thời kì 1930- 1945.
1.2. Hành trình sáng tác của Thạch Lam, Hồ Dzếnh
1.2.1. Thạch Lam - cuộc đời và sự nghiệp
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân, sinh ngày 7/ 7 /1910 tại Hà
Nội trong một gia đình công chức; mất ngày 28/6/1942 tại làng Yên Phụ cạnh
Hồ Tây. Bút hiệu khác của ông là Việt Sinh.
Thạch Lam là người con thứ sáu trong gia đình. Cha là Nguyễn Tường
Nhu. Quê nội ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại ở huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương. Tên khai sinh hồi nhỏ là Nguyễn Tường Vinh, năm 15
tuổi làm giấy khai sinh lại, đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Năm lên bảy, cha
qua đời. Thủa nhỏ học trường sơ học Cẩm Giàng tới 14 tuổi. Mười lăm tuổi,
đỗ bằng cơ thủy, xin tăng bốn tuổi để được vào học ban thành chung. Ðỗ bằng
Thành Chung năm16 tuổi, sau đó, vào học trường canh nông được một năm,
ông xin thôi và vào học trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất,
15



ông quyết định nghỉ học ở trường, ở nhà học các anh. Sau đó ông theo anh trai
là Hoàng Đạo vào Sài Gòn và bắt đầu viết văn, làm báo.
Năm 1933, Thạch Lam lập gia đình và về ở trong một căn nhà đơn sơ
nhưng ấm cúng tại làng Yên Phụ. Cũng trong năm này, anh trai Thạch Lam là
Nhất Linh thành lập nhóm Tự lực văn đoàn. Thạch Lam hoạt động văn học
trong nhóm Tự lực văn đoàn, tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa,
Ngày nay. Không giống với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam hướng ngòi
bút của mình về cuộc sống của những con người bình thường, nhỏ bé hay
những số phận nghèo khổ, khó khăn.
Thạch Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội.
Các sáng tác của Thạch Lam trước khi in thành sách hầu hết đều được
đăng báo. Tác phẩm của Thạch Lam gồm có:


Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1937)



Nắng trong vườn (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1938)



Ngày mới (truyện dài, Nhà xuất bản Đời nay, 1939)



Theo giòng (bình luận văn học, Nhà xuất bản Đời nay, 1941)




Sợi tóc (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1942)



Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, Nhà xuất bản Đời nay, 1943)



Hai quyển truyện viết cho thiếu nhi:Quyển sách, Hạt ngọc. Hai
truyện này đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940.

Trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước cách
mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: “Đối với tôi văn chương không phải là một
cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là
một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay
đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong
sạch và phong phú hơn” [21, tr. 6]. Có thể nói chỉ với một đoạn văn ngắn,
Thạch lam đã nêu rõ quan điểm sáng tác của ông trong việc sáng tác văn học.
16


Hầu như quan điểm đó đã trải dài, xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác của nhà
văn.
Là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, Thạch Lam được coi là một
trong những cây bút chính của nhóm. Ông tìm đến một phong cách giản dị và
trong trẻo. Những đóng góp về nghệ thuật ngôn ngữ của ông được nhắc đến
khá nhiều và có ảnh hưởng sâu đậm trong quá trình hiện đại hóa nền văn học
dân tộc. Thạch Lam viết về những người lao động nghèo khổ trong xã hội
đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những

làng quê, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa
phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng … Trong khung
cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, ảm đạm của số kiếp
lầm than. Đó là nhân vật mẹ Lê - một người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa
bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là hai chị em Liên trong một gian hàng nhỏ bé,
nghèo nàn nơi phố huyện,.… Tất cả những cảnh, những người nhỏ bé ấy qua
ngòi bút của nhà văn đều được mô tả bằng những nét đơn sơ nhưng vẫn hết
sức chân thực.
Thế giới nhân vật của Thạch Lam là những lớp người nghèo khổ cơ cực
bế tắc, nhỏ bé và tội nghiệp. Nhân vật của ông chủ yếu là con người thân
phận. Họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường
hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc
bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc
sống xung quanh, để bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ.
Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn bọc trong một không
gian trữ tình đầy mến thương toả ra một cách dịu dàng, ấm áp từ tấm lòng tác
giả. Bởi vậy, người đọc có thể nhận thấy cảm quan trong truyện của Thạch
Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là: niềm xót thương.

17


Số lượng tác phẩm Thạch Lam để lại cho đời không nhiều, không đồ sộ
nhưng đến nay vẫn được bạn đọc yêu thích. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một
minh chứng. Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, Nhà xuất bản Đời nay,
Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Thạch Lam, khai thác những số phận đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của
mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm. Nhà văn luôn nghĩ
đến “những người nghèo khổ đang lầm than trong cảnh đói rét cả một đời” [2,
tr. 25]. Vì vậy, tác phẩm của Thạch Lam cũng có nhiều yếu tố hiện thực. Ngòi

bút nhân đạo luôn hướng về cuộc đời, số phận khó khăn, nghèo khổ cùng với
tâm hồn tinh tế, nhạy cảm trong các tác phẩm đã tạo nên nét riêng, độc đáo
của nhà văn. Nhân vật trong truyện Thạch Lam dù ở hoàn cảnh khó khăn nào
vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam. Mẹ Lê nghèo khổ đến
cùng cực nhưng vẫn là một bà mẹ cần cù, chăm chỉ chịu thương chịu khó, hết
lòng vì đàn con. Thạch Lam đôi khi còn đặt nhân vật của mình vào vùng ranh
giới tranh chấp giữa cái thiện và cái ác, để rồi tự gọt rửa bản thân con người
bằng việc thức tỉnh của lương tri. Đó là trường hợp của nhân vật Thanh trong
truyện ngắn Một cơn giận hoặc Thành trong truyện ngắn Sợi tóc. Những trang
văn trong truyện ngắn Thạch Lam đã làm cho người đọc thấy yêu thương con
người, quý trọng những nhân phẩm cao quý, những tâm hồn đẹp sâu kín trong
con người hơn.
Nói đến Thạch Lam, chúng ta không thể phủ nhận rằng những sáng tác
của ông khá khiêm tốn về số lượng bởi cuộc đời của một nhà văn tài hoa quá
ngắn ngủi. Nhưng những gì ông để lại không phải là số lượng đồ sộ của
những tác phẩm lớn mà là một phong cách nghệ thuật độc đáo. Ngôn ngữ của
ông rất đặc biệt, giản dị mà làm say đắm lòng người. Mỗi truyện ngắn như
một bài thơ hàm súc, cô đọng nhưng có sức vang vọng lớn trong nền văn học

18


dân tộc. Qua đó, ta thấy được Thạch Lam có một tâm hồn thật tinh tế, nhạy
cảm. Điều đó nên một phong cách ngôn ngữ rất riêng, độc đáo và đặc sắc.
Thạch Lam cho in tập truyện ngắn đầu tay năm 1937. Ông qua đời năm
1942. Sự nghiệp sáng tác của ông chỉ kéo dài khoảng năm, sáu năm nhưng
vẫn để lại trong tâm trí của người một ấn tượng sâu đậm. Trong số những lí
do tạo nên hiệu quả như vậy, có một điều quan trọng đó là Thạch Lam đã gây
dựng được cái thế giới của riêng mình, một thế giới nhỏ bé, hạn hẹp, thậm chí
nghèo nàn, tù túng, nhưng đó lại là một thế giới độc đáo, không lẫn với ai.

Thế giới ấy lặp đi lặp lại từ truyện nọ sang truyện kia, thế giới ấy có cái vẻ
riêng với những âm thanh riêng và nhất là cái nhịp điệu riêng của nó. Thạch
Lam là cây bút có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của thể loại văn xuôi
trong văn học Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.2.2. Hồ Dzếnh - cuộc đời và sự nghiệp
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916 ở Thanh Hóa. Cha là
người Quảng Đông sang Việt Nam cuối thế kỉ XIX, lấy vợ là một cô lái đò
ngang ở Thanh Hóa. Ông học tiểu học ở Thanh Hóa. Thuở nhỏ sống với mẹ,
Hồ Dzếnh lớn lên trong tình yêu thương của người mẹ. Người mẹ Việt Nam
đó đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn thơ ông sau này. Chính bà đã truyền sang
cho ông đức tính vị tha và lòng trắc ẩn để rồi sau này Hồ Dzếnh biết nghiêng
xuống trước những số phận bất hạnh cũng như lặng lẽ chịu đựng những rủi ro
của cuộc đời mình một cách âm thầm lặng lẽ. Khi sáng tác, ông đã viết những
câu thơ, trang văn trân trọng, tràn đầy cảm mến về mẹ của mình. Trước cách
mạng tháng Tám, Hồ Dzếnh học trung học tại Hà Nội rồi làm gia sư, làm thơ,
viết truyện ngắn.
Những tác phẩm đã in của Hồ Dzếnh gồm có:


Dĩ vãng (truyện vừa, 1940)



Quê ngoại (tập thơ, 1943)
19




Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, 1942)




Tiếng kêu trong máu (tiểu thuyết, 1942)



Một chuyện tình 15 năm về trước (tiểu thuyết, 1943)



Chân trời cũ (tập truyện ngắn, 1942)



Hoa Xuân Đất Việt (tập thơ,1946)



Cô gái Bình Xuyên (tiểu thuyết, 1946)



Cuốn sách không tên (truyện ngắn, 1993)

Năm 1954, ông tham gia Ban chấp hành Hội Liên hiệp văn học nghệ
thuật Việt Nam khóa I. Ngày 13/8/1991, ông qua đời tại nhà riêng ở Hà Nội
trong sự tiếc thương vô hạn của đông đảo văn nghệ sĩ, thân nhân và bạn đọc
yêu mến ông.
Năm 2007, Hồ Dzếnh được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ

thuật . Sáng tác của ông để lại không nhiều nhưng cũng đủ để khẳng định vị
trí của ông trong đời sống văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Nhà thơ, nhà văn Hồ Dzếnh là cây bút toàn diện. Những tác phẩm của
ông luôn được người đọc yêu thích. Nhà thơ Vũ Quần Phương - người từng
có nhiều bài viết nghiên cứu về Hồ Dzếnh chia sẻ: “Với tập văn Chân trời cũ
và tập thơ Quê ngoại, Hồ Dzếnh đã có một vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt
Nam trước cách mạng” [30, tr. 503]. Thơ là tiếng nói xuất phát từ trái tim.
Mang trong mình hai dòng máu Việt – Hoa nhưng hồn thơ Hồ Dzếnh bắt
nguồn từ những cảm xúc về quê ngoại Việt Nam. Hồ Dzếnh đã trao trọn tình
yêu cho người Việt nam, đất nước Việt Nam. Bởi vậy, Hồ Dzếnh là nhà thơ
của Quê ngoại, được bạn đọc biết đến không chỉ với tư cách một nhà văn mà
ông còn là một nhà thơ nổi tiếng. Quê ngoại là tập thơ Hồ Dzếnh viết về
người phụ nữ, người con gái Việt Nam, người mẹ, người chị, viết về quê
hương với những tình cảm yêu thương sâu sắc. Võ Văn Trực đã có những chia
sẻ sau khi đọc xong Quê ngoại: “Đêm ấy, tại một ngôi nhà bên dòng sông
20


Công Lý đen ngòm và tươi xanh, tôi đọc xong Quê ngoại. Sửng sốt và bần
thần. Có một Hồ Dzếnh thi sĩ! Một thi sĩ có tài!” [30, tr. 525]. Giọng thơ của
Hồ Dzếnh nhẹ nhàng, thanh thoát như mang nỗi buồn cố hữu nhưng chất thơ
từ những số phận và niềm tin vào thế giới tốt đẹp luôn giữ cho trang viết của
ông sức sống dồi dào.
Phảng phất dư vị của Thạch Lam, Thanh Tịnh, văn xuôi đầy chất thơ của
Hồ Dzếnh lấy đề tài từ cuộc sống xung quanh, những con người đi qua cuộc
đời ông, thể hiện bằng bút pháp độc đáo, nhìn hiện thực bằng trái tim đa cảm.
Tập truyện ngắn Chân trời cũ năm 1942 là tác phẩm tiêu biểu nhất của cây
bút văn xuôi giàu chất trữ tình và cảm thương đó. Thạch Lam chính là người
đã viết lời tựa đầu tiên cho tập Chân trời cũ của Hồ Dzếnh. Những ngày đầu
cầm bút, Hồ Dzếnh không có ý định thành nhà văn. Ông viết như giãi bày,

như tự thú, như sám hối về những câu chuyện của gia đình: “Tôi là kẻ ít tin
nhất loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên được mang danh là nhà
văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh xô xát với
cõi đời, chúng ta, để cố gắng nói ra nỗi lòng u uất, đã nghiêng về cuộc sống
bên trong. Nhưng trên cả tình và tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi
rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh từ ngàn thu, một “Triều thiên” mà
thế kỉ nào cũng ao ước, thèm khát, đó là tấm lòng” [19, tr. 302]. Lời tự sự này
Hồ Dzếnh viết năm 1946, khi tập truyện ngắn Chân trời cũ được tái bản, đã
cho chúng ta hiểu thêm về động cơ cầm bút, để hôm nay khi thời gian đi qua,
vẫn còn lại trên những trang viết của ông - Hồ Dzếnh - tư chất đích thực của
một thi sĩ. Theo nhà thơ Vũ Quần Phương: “Vào thời ấy, Hồ Dzếnh chưa có
được nhân sinh quan vô sản, nhưng chỉ bằng trái tim lương thiện và đa cảm
ông đã đứng về phía những người nghèo khổ, dù là Hoa hay Việt. Ông thấy ở
họ tình cảm tốt đẹp, lòng vị tha cao cả, sự rộng lượng và tình thương người”
[30, tr. 507].
21


Truyện ngắn Hồ Dzếnh là truyện ngắn trữ tình, với nhân vật xuyên suốt
chính là tác giả. Trong lời tựa Chân trời cũ, Thạch Lam viết: “Tác giả đã ít
nói đến mình, để làm trội những nhân vật khác, tuy rằng lúc nào tác giả cũng
là vai chủ động trong các truyện” [27, tr. 303]. Nhưng có những lúc những
dòng cảm xúc chân thành của tác giả lại được bộc lộ một cách trực tiếp. Đó là
những đoạn ông ca ngợi người mẹ, người chị hoặc ca ngợi mảnh đất Việt
Nam, quê mẹ của mình. Lòng yêu nước Việt Nam của Hồ Dzếnh bắt nguồn từ
tình yêu những người khó khăn, thiệt thòi trong cuộc sống, có sự gắn bó chặt
chẽ với tình yêu từ những người thân, đặc biệt là người mẹ. Tình yêu chân
thực xót đau ấy đã tạo nên cái âm hưởng đầy chất thơ, trữ tình của văn ông.
Văn xuôi Hồ Dzếnh không lạ bởi nó chỉ là những dòng kể chân thực về cuộc
đời, nhưng nó không mòn cũ với thời gian vì nó đánh thức lòng yêu thương,

trắc ẩn của con người. Bởi vậy, ngòi bút của Hồ Dzếnh như mang nỗi buồn cố
hữu nhưng chất thơ từ những số phận và niềm tin vào thế giới tốt đẹp luôn giữ
cho trang viết của ông chất nhựa sống dồi dào.
Để khẳng định tài năng của Hồ Dzếnh, Vương Trí Nhàn đã nói: “Với tập
thơ Quê Ngoại, nhất là với tập truyện ngắn Chân trời cũ, Hồ Dzếnh đã tạo
được một vị trí vững vàng trong đời sống văn học trước 1945. Từ góc độ tâm
lý sáng tác mà xét, sản phẩm của ông có vẻ như một minh chứng xác thực cho
cái điều thỉnh thoảng các nhà văn vẫn nói: viết văn - ấy là phương tiện duy
nhất để con người thoát khỏi sự đơn độc” [30, tr. 543].
Ở cả thơ lẫn truyện, ta có thể thấy ở Hồ Dzếnh là một tâm hồn giàu cảm
xúc, tràn ngập yêu thương, trắc ẩn, gắn bó với những số phận hẩm hiu, nghèo
khổ trong xã hội cũ. Hồ Dzếnh viết không nhiều nhưng văn chương ông có
sức hút mãnh liệt. Với người đọc, sức hấp dẫn đó chính là do chất tâm hồn
ông tạo nên. Với bút pháp nghệ thuật trữ tình, tinh tế cùng số phận, nhân thân

22


×