Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái tại Trại Lộc Ninh 2 của công ty TNHH thực phẩm CJ VINA và đánh giá hiệu quả của phát đồ điều trị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.07 KB, 73 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề

Chăn nuôi lợn có vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi trong nước ta và cả
trên thế giới. Ngành chăn nuôi lợn có ý nghĩa rất quan trọng trong chăn nuôi gia
súc, cung cấp thực phẩm có giá trị cao cho con người, cung cấp phân bón cho trồng
trọt, cung cấp sản phẩm phụ cho công nghiệp chế biến. Nước ta từ ngày hội nhập
với nền kinh tế thế giới chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đang có tốc
độ tăng trưởng rất nhanh, số đầu lợn năm 2002 là 23,17 triệu con đứng thứ 7 trên
thế giới, đến năm 2004 tổng đàn lợn cả nước là 26,14 triệu con. Trong chiến lược
phát triển chăn nuôi đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày
16 tháng 1 năm 2008, trong đó có chiến lược phát triển chăn nuôi lợn. Đến năm
2020 tổng đàn lợn nước ta ước đạt khoảng 35 triệu con, bình quân tăng 2% trên năm.
Sản lượng thịt các loại đạt 5500 ngàn tấn, trong đó thịt lợn chiếm 65%, sản lượng thịt
xẻ trung bình đạt 56 kg trên đầu người [36]. Để đạt được các chỉ tiêu trên, trong
những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn
phát triển, như nâng cao chất lượng con giống, thức ăn, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng
và phòng trừ dịch bệnh.
Vài năm gần đây, năng suất sinh sản tạo con giống ở nước ta đã có nhiều tiến
bộ vượt bậc, tạo ra được những đàn con có chất lượng cao. Đáng kể nhất đó là
ngành chăn nuôi lợn nái sinh sản đã cho ra những lợn con đáp ứng đầy đủ các chỉ
tiêu như: ngoại hình, trọng lượng và sức đề kháng với mầm bệnh. Ngoài ra số lứa
đẻ của nái cũng tăng lên rõ rệt qua các năm 1,7 – 2 lứa/nái/năm tăng lên 2 – 2,5
lứa/nái/năm.
Hiện nay, để nâng cao chất lượng năng suất cũng như hạn chế ít nhất về dịch
bệch cho lợn nái thì có nhiều loại vaccine phòng bệnh được sản xuất và các phương
pháp điều trị đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, bệnh về đường sinh sản vẫn đang mối đe
dọa lớn đối với các trang trại và người chăn nuôi lợn nái. Bệnh xảy ra gây tổn thất
lớn về mặt kinh tế. Trong đó, bệnh viêm tử cung là bệnh khá phổ biến gây ảnh


hưởng xấu đến khả năng thụ thai và sinh sản của lợn nái sinh sản.
Bệnh viêm tử cung do một số lọai vi khuẩn gây ra như Salmonella, E.coli,
Brucella, Streptococcus kết hợp với điều kiện vệ sinh chăn nuôi kém, quá trình
chăm sóc nuôi dưỡng không đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh càng phát
triển. Bệnh viêm tử cung làm giảm khả năng sinh sản của lợn nái ở các lứa đẻ tiếp
1


theo, lợn mẹ không đủ lượng sữa cho bú, giảm sinh trưởng và tăng tỷ lệ lợn con
chết ở giai đoạn theo mẹ. Khi lợn nái bị viêm tử cung, trong đường sinh dục có sự
hiện diện của vi khuẩn như Salmonella, E.coli, Brucella, Streptococcus tiết ra nội
độc tố làm ức chế sự phân tiết Prolactin – kích tố tạo sữa từ tuyến yên dẫn đến
lượng sữa trong lợn nái giảm hoặc mất hẳn, thành phần sữa cũng thay đổi. Đặc biệt
bệnh viêm tử cung là nguyên nhân chính dẫn đến lợn con thường tiêu chảy, còi
cọc. Ngoài ra, khả năng động dục trở lại sau khi sinh của lợn nái bị giảm sút vì sự
phân tiết PGF2α giảm, thể vàng tồng tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone, ức chế thùy
trước tuyến yên tiết LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn nang trong buồng
trứng dẫn đến lợn nái không thể động dục trở lại và không rụng trứng được [7], [5].
Tuy bệnh không xảy ra ồ ạt như các bệnh truyền nhiễm nhưng cũng dẫn tới
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi lợn nái sinh sản như: sẩy thai, bào thai phát
triển kém hoặc thai chết lưu, giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của lợn
con theo mẹ, ảnh hưởng đến khả năng động dục trở lại.
Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự hướng dẫn của giáo viên, sự chỉ đạo của
khoa chăn nuôi thú y, trường Đại học Nông Lâm Huế, cùng sự hỗ trợ của các anh
chị trong trại Lộc Ninh 2, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát tình hình
mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái tại Trại Lộc Ninh 2 của công ty TNHH
thực phẩm CJ VINA và đánh giá hiệu quả của phát đồ điều trị.”
1.2.

Mục tiêu của đề tài

- Đánh giá thực trạng bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái tại trại Lộc Ninh 2.
- Đánh giá sự ảnh hưởng của lứa đẻ đến bệnh viêm tử cung trên lợn nái.

- Đánh giá ảnh hưởng bệnh viêm tử cung của lợn nái đối với bệnh tiêu chảy ở
lợn con theo mẹ.
- Đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị.
1.3.

Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài xác định một số thông tin có giá trị khoa học bổ sung thêm những hiểu
biết về bệnh viêm tử cung ở lợn nái, là cơ sở khoa học cho những biện pháp phòng
trị bệnh có hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa thực tế
2


- Xác định được một số thuốc có hiệu lực và độ an toàn cao trong điều trị bệnh
viêm tử cung ở lợn nái.
- Từ kết quả của đề tài đưa ra những giải pháp giúp cho người chăn nuôi hạn
chế được những thiệt hại do bệnh gây ra.

Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.

Sơ lược về trại
3



2.1.1. Giới thiệu sơ lược về trại Lộc Ninh 2
Vị trí địa lý
- Địa chỉ: Trại heo Lộc Ninh 2 SF- Công ty TNHH Thực phẩm CJ VINA nằm
ở ấp Tà Thiết, xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.
Vùng tiếp giáp xung quanh: Vườn cao su
- Tổng diện tích đất tự nhiên: 5,75 ha
- Điều kiện vị trí địa lý: xa khu dân cư, trường học, xa chợ, thuận đường giao
thông tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển chăn nuôi. Trại được xây dựng
với quy mô xử lý rác thải hợp lí, có biogas, đảm bảo an toàn về phòng dịch và vệ
sinh thú y.




Quy mô trang trại:
Trang trại gồm:
- 12 nhà đẻ chia làm 2 khu: khu đẻ và khu cai sữa, mỗi nhà đẻ có 52 ô nái,

diện tích mỗi ô là (2 2,5)

.

- 1 khu chuồng bầu chia làm 4 nhà mang thai, mỗi nhà mang thai có 550 ô mỗi
ô có diện tích là (0,6

.

- 3 khu chuồng cách ly.



Phương thức chăn nuôi:

Chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, quy mô khép kín (đầu chuồng hệ
thống làm mát, cuối là hệ thống quạt, bên trong là hệ thống điện chiếu sáng và đèn
sưởi. Phía sau cùng khuôn viên trại là hệ thống ao hồ để làm bể biogas và hệ thống
xử lý rác thải).
2.1.2. Hướng sản xuất, chức năng, nhiệm vụ của trại
Trại có nhiệm vụ cung cấp heo con cai sữa, sản lượng hằng năm đối với mỗi
loại sản phẩm là 60000 heo con cai sữa.
Cung cấp tinh lợn cho công tác thụ tinh nhân tạo của trại cùng một số trại
khác.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại
Tổng nhân sự tại trại Lộc Ninh 2 có 56 người. Được trình bày theo bảng sau:
4


Bảng 2.1. Cơ cấu tổ chức nhân sự trại Lộc Ninh 2
STT

Chức vụ

Số lượng

1

Trưởng trại ( quản lý)

1

2


Văn phòng

2

3

Chuồng mang thai

16 ( 4 kỹ thuật, 12 công nhân)

4

Chuồng đẻ + chuồng cai sữa

24( 6 kỹ thuật, 18 công nhân)

5

Chuồng cách ly

2 kỹ thuật

6

Chuồng nọc

2 ( 1 kỹ thuật, 1 công nhân)

7


Bếp + tạp vụ

4 công nhân

8

Bảo trì

2

9

Bảo vệ

3
“Nguồn: Phòng kỹ thuật trại, 2017”

2.1.4. Cơ cấu đàn
Cơ cấu đàn lợn bao gồm :
- Lợn nái: 2307 con bao gồm cả lợn nái đẻ, nái mang thai, nái nuôi con, nái
chờ phối.
- Lợn đực giống: 44 con.
- Heo hậu bị: 447 con.
- Lợn con cai sữa: >= 3500.
- Lợn con theo mẹ: >= 3500.
2.1.5. Con giống
Lợn Nái giống F1 (Landrace x Yorkshire), lợn đực giống Duroc. Lợn giống
được nhập từ trại heo giống của Công ty TNHH thực phẩm CJ VINA.
2.1.6. Quy trình vệ sinh phòng dịch

- Trước khi vào khuôn viên trại ai cũng phải qua sát trùng kỹ càng tại bể sát
trùng ở ngay cổng vào. Và trước khi vào chuồng tiếp xúc với đàn lợn phải qua sát
trùng một lần nữa hoặc tắm sạch bằng xà phòng và phải thay quần áo bảo hộ, đi
ủng.
- Nguồn nước được đảm bảo qua xử lý và đủ lượng nước uống cho cả đàn và
nước tắm cho lợn vào mùa hè nhờ hệ thống bồn chứa.
5


- Vệ sinh thức ăn: Thức ăn bảo trong kho cám đảm bảo không ẩm mốc, sau
khi cho ăn xong máng ăn được phụt rửa sạch sẽ không cho điều kiện để nấm mốc
và vi khuẩn phát triển.
- Có hệ thống quạt gió và hệ thống nước chảy và phun sương làm mát vào mùa
hè nhằm điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm.
- Phun sát trùng định kỳ toàn trại: Chuồng bầu tháng phun một lần, chuồng đẻ
thì một tuần phun một lần, thuốc sát trùng được dùng trong trại là NAVETKON.
Vào những tháng dịch bệnh xảy ra ở vùng lân cận phun định kỳ quanh chuồng trại
hàng ngày, rắc vôi bột vào các lối đi tránh sự xâm nhập của dịch bệnh.
- Vào những thời điểm dịch bệnh bùng phát ở các địa phương các vùng quanh
trại, ban quản lý trại ban hành cấm trại cấm ra vào trại hạn chế tiếp xúc bên ngoài
một cách tối thiểu nhất.
- Sau một lứa đẻ chuồng nuôi được vệ sinh phụt rửa bằng nuớc vôi và chất sát
trùng.
- Trại có hệ thống ao, hồ, bể chứa biogas để xử lý rác thải tạo môi trường sạch
sẽ, có tường rào che chắn bao quanh trại hạn chế nguồn bệnh từ ngoài vào.
- Thuốc sát trùng đã sử dụng: Navetkon- S 500g : Diệt vi trùng và vi vi khuẩn,
nhằm kiểm soát dịch bệnh.
Chương trình vaccine
Chương trình vaccine thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2. Bảng chương trình vaccine cho heo nái hậu bị và heo đực giống hậu bị

Tuần

Vaccine

Tên thương mại

Cty sản xuất

2 tuần sk nhập

Dịch tả

Coglapest

Ceva

3 tuần sk nhập

FMD

Aptopor

Merial

4 tuần sk nhập

Aujeszky 1

Begonia


MSD

5 tuần sk nhập

Parvo 1

PPV-VAC

CHOONGANG

6 tuần sk nhập

Mycoplasma
(2ml)

Porcilis

Intervet

7 tuần sk nhập

Circo (2ml)

Porcilis PCV

MSD

8 tuần sk nhập

Parvo 2


PPV-VAC

CHOONGANG
6


9 tuần sk nhập

PRRS 1

Porcilis PRRS

Intervet

12 tuần sk nhập

PRRS 2

Porcilis PRRS

Intervet

2 tuần trước khi
phối

Dịch tả

Coglapest


Ceva

“Nguồn : Phòng kỹ thuật trại,2017”

Bảng 2.3. Bảng chương trình vaccine cho heo con
Tuần tuổi

Vaccine

Tên thương mại

Cty sản xuất

3

Circo(2ml)

Circumvent
PCV

MSD

Mycoplasma(2ml)

Myco-Pac

MSD

Dịch tả 1


Coglapest

Ceva

5

“Nguồn: Phòng kỹ thuật trại, 2017”
Vaccin được bảo quản lạnh từ 2 – 80C .
Khi sử dụng cần lưu ý:
- Đối với vaccine sống (nhược độc) như vaccine phòng bệnh PRRS sau khi
pha phải bảo quản lạnh, tránh ánh sáng trực tiếp, sử dụng ngay trong vòng 1 giờ.
- Đối với vaccin chết (vô hoạt) như Mycoplasma, Parvo – Lepto, Circo…
trước khi sử dụng phải lắc nhẹ, bảo quản mát, sử dụng 2 giờ khi lấy ra khỏi tủ lạnh.
- Ống tiêm và kim tiêm phải chuyên dụng, vệ sinh sạch sẽ, chỉ sử dụng nước
đun sôi để vô trùng, khi tiêm không được có bọt khí.
Qua công tác điều tra tình hình tiêm phòng vaccine cho đàn lợn trong trại, so
sánh với dịch tể và tình hình dịch bệnh ở trại thì có thể nói công tác tiêm phòng
vaccine trong trại khá chu đáo. Tuy nhiên, quá trình tiêm phòng còn để sót khá
nhiều bệnh nguy hiểm như vaccine bệnh đống dấu lợn, tụ huyết trùng, tai xanh cần
phải được chú trọng hơn.
7


2.2.

Cấu tạo cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý của lợn cái

Hình 2.1. Bộ máy sinh dục của lợn nái[32]
2.2.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản của lợn cái
Cơ quan sinh dục của lợn nái gồm :

Bộ phận sinh dục của lợn nái được chia thành bộ phận sinh dục bên trong
(buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo).
Bộ phận sinh dục bên ngoài (âm môn, âm vật, tiền đình).
2.2.1.1.

Bộ phận sinh dục bên trong

Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng là tuyến sinh dục của con cái gồm một đôi treo ở trước dây chằng
rộng và nằm trong xoang chậu. Hình dạng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần
lớn có hình bầu, dẹt hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng [2].
Cấu tạo của buồng trứng gồm: bên ngoài là một lớp màng liên kết sợi chắc
như màng dịch hoàn, bên trong buồng trứng được chia làm hai miền là miền vỏ và
miền tủy. Miền tủy có nhiều mạch máu, tổ chức liên kết dày đặc đảm bảo nhiệm vụ
nuôi dưỡng và bảo vệ. Miền vỏ đảm bảo quá trình phát triển của trứng đến khi
trứng chín và rụng. Miền vỏ bao gồm ba phần: nang trứng nguyên thủy, thể vàng và
tế bào hình hạt. Nang trứng nguyên thủy hay còn gọi là noãn bao (primary follicle)
nằm dưới lớp màng của buồng trứng. Khi noãn bao chín các tế bào nang bao quanh
tế bào trứng và phân chia thành nhiều phần tế bào có hình hạt. Noãn bao ngày càng
8


phát triển thì các tế bào nang tiêu tan tạo ra xoang có chứa dịch. Các tầng tế bào
còn lại phát triển lồi lên tạo thành một lớp màng bao bọc, ở ngoài có chỗ dầy lên để
trứng [11].
Buồng trứng có 2 chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết ra các hormone:
Oestrogen, Progesterone, Oxytoxin, Relaxin và Inhibin. Các hormone này tham gia
vào điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Oestrogen cần thiết cho sự phát triển
của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng tiết ra duy
trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng thai, ức

chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang sữa tuyến vú. Oxytoxin được tiết chủ
yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng được tiết bởi thể vàng đối với lợn gần
sinh nó làm co thắt tử cung khi lợn gần đẻ và làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải
sữa. Ở lợn, Relaxin do thể vàng tiết ra để gây giãn nở xương chậu, làm giãn nở và
mềm cổ tử cung do đó mở rộng cơ quan sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng
ức chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) của tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển
noãn nang theo chu kỳ [5].
Ống dẫn trứng (Oviductus)
Ống dẫn trứng được treo bởi màng treo ống dẫn trứng, đó là một nếp gấp
màng bụng bắt nguồn từ lớp bên trong của dây chằng rộng. Một đầu của ống dẫn
trứng thông với xoang bụng, gần sát buồng trứng có hình loa kèn, trên loa kèn hình
thành một cái tán rộng và lô nhô không đều. Đầu kia thông với mút sừng tử cung là
một cái ống nhỏ ngoằn nghèo. Cấu tạo gồm 3 lớp: lớp ngoài là lớp sợi liên kết, lớp
giữa là lớp cơ, lớp trong là lớp niêm mạc. Lớp niêm mạc gồm các tế bào thượng bì
có nhung mao, khi tế bào trứng rụng và rơi vào loa kèn theo ống dẫn trứng đi
xuống là nhờ sự rung động của các nhung mao và sự co bóp của các lớp cơ. Căn cứ
vào chức năng có thể chia ống dẫn trứng thành bốn đoạn:
Tua diềm: Có hình giống như tua diềm.
Phễu: Có hình phễu, miệng phễu nằm gần buồng trứng.
Phồng ống dẫn trứng: Đoạn ống giãn rộng xa tâm.
Eo: Đoạn ống hẹp gần tâm, nối ống dẫn trứng với xoang tử cung.

9


Ống dẫn trứng có một chức năng duy nhất là vận chuyển trứng và tinh trùng
theo hướng ngược chiều nhau, hầu hết là đồng thời. Cấu tạo của ống dẫn trứng
được thích ứng tốt với chức năng phức tạp của nó. Bộ phận giống như tua diềm vận
chuyển trứng đã rụng từ bề mặt buồng trứng đến phễu. Trứng được chuyển qua
những nếp nhầy đi đến phồng ống dẫn trứng nơi xảy ra sự thụ tinh và được lưu lại

trong ống dẫn trứng khoảng ba ngày trước khi chúng được chuyển đến tử cung.
Ống dẫn trứng cung cấp điều kiện ngoại cảnh thuận lợi nhất cho sự hợp nhất của
các giao tử và cho sự phát triển ban đầu của phôi.
Tử cung (Uterus)
Tử cung có cấu tao phù hợp với chức năng phát triển và dinh dưỡng bào thai.
Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở đây hợp tử phát
triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử cung cung
cấp. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình sinh đẻ nhờ vào các
lớp cơ. Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu
đạo trong xoang chậu. Tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử
cung và được giữ bởi dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm hai sừng thông với một thân và
cổ tử cung. Sừng tử cung dài như một đoạn ruột (50 – 100 cm) thông với ống dẫn
trứng.
Thân của tử cung rất ngắn (3 – 5 cm).
Cổ tử cung dài (10 – 18 cm) có thành dày, có những u thịt xen kẽ xếp lại với
nhau theo lối cài răng lược [2].
Vách tử cung gồm ba lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ trơn, lớp
nội mạc.
Lớp tương mạc là lớp màng sợi, dai chắc, phủ mặt ngoài tử cung và nối tiếp
vào hệ thống các dây chằng.
Lớp cơ trơn có chức phận chủ yếu trong việc đảm bảo sự phát triển và dinh
dưỡng bào thai. Đây là một lớp cơ trơn dày và rất khỏe trong cơ thể, có cấu tạo
phức tạp. Bên trong là một khung liên kết với nhiều sợi đàn hồi có nhiều mạch máu

10


đặc biệt là những nhánh tĩnh mạch lớn. Ngoài ra là các bó sợi cơ trơn đan vào nhau
theo mọi hướng làm thành một mạng vừa chắc vừa dày.

Theo Trần Thị Dân (2004) [5], trương lực co càng cao (tử cung trở nên cứng)
khi có nhiều Oestrogen trong máu và trương lực cơ càng giảm (tử cung trở nên
mềm) khi có nhiều Progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần vào
sự di chuyển của tinh trùng và chất nhầy trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài
khi đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng
Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
Lớp nội mạc là lớp niêm mạc màu hồng phủ lên trên bằng một tế bào biểu mô
hình trụ xen với những tuyến tiết chất nhầy tử cung. Nhiều tế bào biểu mô kéo dài
thành lông rung, khi lông rung động thì gạt những chất nhầy về phía tử cung. Trên
niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi
thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển đến ống
dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của Oestrogen, các tuyến tử cung phát triển từ lớp
màng nhầy, xâm nhập vào lớp giữa màng nhầy và cuộn lại.
Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng
của Progesterone. Sự phân tiết của tử cung thay đổi tùy theo giai đoạn của chu kỳ
lên giống.
Âm đạo (Vagina)
Âm đạo là ống đi từ cổ tử cung đến âm hộ, đầu trước âm đạo dính vào cổ tử
cung, ống sau thông ra tiền đình, có màng trinh (Hymen) đậy lỗ âm đạo [2]. Âm
đạo là một ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối đồng thời là bộ phận
cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ, và là ống thải các chất dịch từ tử cung.
Âm đạo có cấu tạo như một ống cơ có thành dầy, gồm ba lớp:
- Lớp liên kết: Ở ngoài.
- Lớp cơ trơn: Cơ dọc ở ngoài và cơ vòng ở trong. Các lớp cơ liên kết với các
lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc: Có nhiều tế bào thượng bì, niêm mạc gấp nếp dọc, gấp nếp
dọc hai bên nhiều hơn ở chính giữa.
11



Theo Đặng Đình Tín (1986) [30], âm đạo lợn dài 10 - 12 cm.
2.2.1.2.

Bộ phận sinh dục bên ngoài

Tiền đình (Vestibulum)
Tiền đình là một hõm ở giữa âm môn. Qua tiền đình mới vào âm đạo, hay nói
cách khác là giới hạn giữa âm đạo và âm môn, trong tiền đình có màng trinh [2].
Màng trinh là một nếp gấp gồm hai lá niêm mạc. Ở giữa có sợi đàn hồi, ở
trước nhìn vào âm đạo, ở sau liên quan với âm môn.
- Lỗ niệu đạo: Ở sau và ở giữa màng trinh.
- Hành tiền đình (Bulbus vestibulum) là hai tạng cương ở hai bên lỗ niệu đạo,
cấu tạo giống thể hổng ở bao dương vật của con đực. Hai hành tiền đình này được
nối thông với nhau ở phía trước lỗ niệu đạo bởi các tĩnh mạch. Mỗi hành có một cơ
hành bọc quanh và cơ khít âm hộ ở phía trong. Cơ khít được coi như một bó cơ tròn
quanh âm đạo.
Ngoài ra tiền đình còn có một ít tuyến tiền đình ở phần bụng. Tuyến này sắp
thành hai hàng chéo hướng về âm vật
Âm vật (Clitoris)
Âm vật nằm ở góc dưới phía hai mép của âm môn. Âm vật giống như dương
vật con đực được thu nhỏ lại. Về cấu tạo, âm vật cũng có các thể hồng như dương
vật. Trên âm vật có nếp da tạo ra mũ âm vật, giữa âm vật bẻ gấp xuống dưới. Trong
thực tế sau khi dẫn tinh cho gia súc cái, các dẫn tinh viên thường xoa bóp nhẹ vào
âm vật kích thích con cái hưng phấn để tử cung trở lại co thắt và vận động bình
thường [2].
Âm môn (Vulva)
Âm môn hay còn gọi là âm hộ nằm dưới hậu môn. Phía ngoài âm môn có hai
môi (labia pudendi). Hai môi được nối với nhau bằng hai mép.
Trên hai môi của âm môn có sắc tố màu đen và có nhiều tuyến tiết (như tuyến

tiết chất nhờn trắng và tuyến tiết mồ hôi) [11].
2.2.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái
12


2.2.2.1.

Sự thành thục về tính

Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái đặc biệt là cơ quan sinh dục
đã phát triển cơ bản hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết, con vật xuất
hiện các phản xạ về sinh dục, khi đó trên buồng trứng có khả năng thụ thai, tử cung
cũng sẵn sàng cho thai làm tổ, biểu hiện của con vật là lông mượt, tai thính, thường
xuyên chạy nhảy và nô đùa với con khác [6].
Tuy nhiên, thành thục sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt và các
điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng.
Giống
Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau.
Những giống có thể vóc nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn những giống
có thể vóc lớn.
Theo Phạm Hữu Danh (1995) [4], tuổi thành thục về tính cũng khác nhau: tuổi
thành thục về tính của lợn cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn các loại nội thuần
chủng (Ỉ, Móng cái…). Các giống lợn này thường có tuổi thành thục về tính vào 4 5 tháng tuổi, lợn lai F1 (ngoại × nội) thường động dục vào lần đầu vào lúc 6 tháng
tuổi.
Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái.
Cùng một giống những nếu mức độ dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia súc phát
triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn và ngược lại.
Điều kiện ngoại cảnh
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.

Những giống lợn nuôi ở vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính
sớm.
Trong điều kiện chăn thả giữa gia súc đực và gia súc cái cũng ảnh hưởng tới
tính thành thục sớm của gia súc cái. Theo Paul Highes và Tilton (1996) [41], nếu
cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn đực 2 lần/ ngày với thời gian 15 - 20 phút thì
83% lợn cái ngoài 90 kg động dục là 165 ngày tuổi.
13


Lợn nái hậu bị nếu bị nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn lợn
chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng hợp
được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực nên có tuổi động dục lần đầu sớm hơn.
Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là tuổi thành thục về tính thường sớm hơn
tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình
thường của lợn mẹ và đảm bảo những phẩm chất giống của thế hệ sau nên cho gia
súc phối giống khi đã đạt một khối lượng nhất định tùy theo giống. Ngược lại, cũng
không nên cho gia súc phối giống quá muộn vì ảnh hưởng tới năng suất sinh sản
của một đời nái đồng thời ảnh hưởng tới thế hệ sau của chúng [7].
2.2.2.2.

Chu kỳ động dục của lợn cái

Chu kỳ tính
Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra liên
tục và có tính chu kỳ. Các noãn bao trên buồng trứng phát triển, lớn dần, chín và
nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ, trứng rụng
gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện ra ngoài gọi là
động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ [6].
Theo Lê Hồng Mận (2006) [14], sau khi thành thục về tính lợn nái bắt đầu có
biểu hiện động dục nhưng lần thứ nhất biểu hiện không rõ ràng, 15 – 16 ngày sau

đó lại động dục và lần này mọi biểu hiện rõ ràng hơn và trở thành quy luật chu kỳ
động dục.
Chu kỳ động dục của lợn bình quân 21 ngày (18 – 21), ở lợn cái tơ thì ngắn
hơn. Một chu kỳ tính của lợn nái thường chia làm 4 giai đoạn: trước động dục,
động dục, sau động dục và yên tĩnh.
Giai đoạn trước động dục kéo dài 1 – 2 ngày và tính từ khi thể vàng của lần
động dục trước tiêu biến đến lần động dục tiếp theo, giai đoạn này chuẩn bị cho
đường sinh dục cái tiếp nhận tinh trùng, đón trứng rụng và thụ tinh.
Giai đoạn động dục kéo dài từ ngày thứ 2 đến thứ 3 tiếp theo gồm 3 thời kỳ
nhỏ là hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Tùy từng giống lợn có giai đoạn này
dài hay ngắn, lợn nội thường 3 – 4 ngày, lợn ngoại và lai kéo dài 4 – 5 ngày.

14


Giai đoạn sau động dục là ngày thứ 3 – 4 tiếp theo của giai đoạn động dục, lúc
này dấu hiệu hoạt động sinh dục bên ngoài giảm dần, âm hộ teo lại, lợn nái không
muốn gần đực giống, ăn uống vẫn tốt hơn.
Cơ chế động dục của lợn nái
Lợn nái đến tuổi thành thục sinh dục, các yếu tố kích thích bên ngoài như
nhiệt độ, ánh sáng, thức ăn và các yếu tố kích thích nội tiết theo dây thần kinh ly
tâm đi đến vỏ đại não qua vùng dưới đồi (Hypothalamus) tiết ra kích tố FRF
(Folliculin releasin factors) kích thích tuyến yên tiết ra FSH làm cho bao noãn phát
dục nhanh. Khi noãn bao phát triển và thành thục tế bào hạt trong thượng bì bao
noãn tiết ra Oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn làm cho lợn nái thể hiện
động dục ra bên ngoài. Cuối kỳ động dục tuyến yên tiết ra LH làm cho trứng chín
và rụng. Sau khi trứng rụng sẽ hình thành thể vàng buồng trứng, thể vàng tiết ra
Progesterone kích thích sự tăng trưởng của màng nhầy tử cung chuẩn bị cho hợp tử
làm tổ làm tổ trong sừng tử cung, đồng thời ức chế tuyến yên sinh ra FSH ức chế sự
thành thục của bao noãn trong buồng trứng, làm cho bao noãn không phát dục,

đồng thời kích thích tuyến yên tiết prolactin kích thích tuyến vú phát triển [14].
Sau khi phối giống lợn nái có chửa thì thể vàng sẽ thoái hóa sau khi lợn đẻ và
nuôi con và tuyến yên không bị Progesteron ức chế nên lại sản sinh FSH, bao noãn
mới lại bắt đầu phát dục với một chu kỳ mới. Trường hợp sau khi phối lợn nái không
có chửa thể vàng sẽ tồn tại khoảng trên dưới 17 ngày sẽ thoái hóa và bao noãn mới lại
phát dục và đến 21 ngày lại xuất hiện một chu kỳ động dục mới [14].
Các giai đoạn động dục và thời điểm phối giống, phát hiện động dục rất quyết
định cho việc phối giống nhất là thụ tinh nhân tạo. Hàng ngày kiểm tra lợn nái hai
lần là ít nhất, thời gian cách nhau là 12 giờ vào 6 giờ sáng và 6 giờ chiều là thời
điểm có động dục rõ nhất [14].
Kiểm tra bằng cách dắt đực giống đi ngang qua lợn nái, kết hợp quan sát âm
hộ có độ sưng, màu dịch tiết…, tốt nhất là cưỡi lên lợn nái để kiểm tra phản xạ mê ì
[7].
Biểu hiện động dục của lợn nái tùy theo giống, tuổi và từng con nái, như lợn
nái nội thời gian động dục 3 – 4 ngày, lợn nái ngoại 4 – 5 ngày, nái ngoại hậu bị
thường dài hơn 5 – 7 ngày [14].
15


Động dục chia 3 giai đoạn
Giai đoạn trước khi chịu đực
Lợn nái thay đổi tính tình: kêu rít nhỏ, kém ăn hoặc bỏ ăn, cắn phá chuồng, ủi
nền, bồn chồn, đuôi tai ve vẩy, thích gần đực giống, nhảy chồm lên lưng lợn khác,
âm hộ sưng mọng đỏ tươi, có nước nhờn chảy ra, nhưng chưa chịu cho đực giống
nhảy. Ở lợn nái ngoại chỉ thụ thai sau khi có hiện tượng trên 35 – 40 giờ, lợn nội sớm
hơn 25 – 30 giờ cho nên không cho phối giống vào giai đoạn này.
Giai đoạn chịu đực
Ở giai đoạn này, lợn thích gần đực, khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng
chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, 2 chân sau dạng ra và hơi khụy
xuống sẵn sàng chịu đực [35].

Lợn nái ăn kém, mê ì, sờ ấn trên lưng gần mông lợn đứng im, lưng võng
xuống, có hiện tượng đái són, âm hộ giảm sưng, giảm mọng, có nếp nhăn chuyển
màu sẫm hoặc màu mận chín, nước nhờn chảy dịch đục. Lợn đực lại gần thì đứng
im cho phối. Thời gian này khoảng đến 2 ngày, lợn nội ngắn hơn khoảng 28 – 30
giờ, cho phối giống sẽ thụ thai cao.
Giai đoạn sau chịu đực
Lợn nái trở lại bình thường ăn uống, đi lại tự nhiên, âm hộ giảm độ mở, se nhỏ
thâm lại, đuôi cụp, không cho lợn đực nhảy.
2.2.2.3.

Thời điểm phối giống thích hợp

Để xác định thời điểm phối giống thích hợp cần nắm vững quy luật động dục,
rụng trứng của lợn nái, thời điểm tế bào trứng và tinh trùng gặp nhau có khả năng
thụ thai để quyết định thời gian phối giống thích hợp cho lợn nái.
Lợn nái thường sau động dục 39 – 40 giờ trứng mới rụng và rụng trong 10 –
15 giờ hoặc hơn, trong ống dẫn trứng có khả năng thụ thai chỉ 8 – 10 giờ. Mỗi lần
động dục rụng trên 20 trứng, nhưng lợn đẻ thường trên dưới 10 con [14].
Thời gian tinh trùng lợn sống trong tử cung lợn nái khoảng 45 – 48 giờ, thời
gian có khả năng thụ tinh chỉ 20 – 24 giờ. Nhưng thời gian tồn tại của trứng và thụ
thai có hiệu quả rất ngắn (8 – 10 giờ) cho nên phải cho phối giống đúng lúc [14].
16


Thời điểm phối giống đúng lúc nhất là vào giữa giai đoạn chịu đực. Ở nái
ngoại, nái lai còn tơ cho phối giống ngay sau khi chịu đực và lặp lại sau lần đầu 12
giờ, nái đã sinh sản khi chịu đực 12 giờ cho phối lần 1 và sau 12 giờ cho phối lần 2.
Ở nái nội thời điểm phối giống sớm hơn nái ngoại, nái lai 1 ngày là vào cuối ngày
thứ 2 và sáng ngày thứ 3 vì thời gian động dục ngắn hơn.
Thụ tinh nhân tạo cho phối vào buổi chiều khi thấy lợn chịu đực vào buổi

sáng. Nếu lợn nái chịu đực vào buổi chiều thì sáng hôm sau cho phối. Cho chắc
chắn thường phối tinh 2 lần ở giai đoạn chịu đực “chặn đầu khóa đuôi” của thời kỳ
rụng trứng. Nên phối giống 2 lần nếu cho thụ tinh nhân tạo (lúc sáng sớm và chiều
tối cho mát), cho phối trực tiếp thì một lần (buổi sáng trời mát) [11].
2.2.2.4.

Khoảng cách giữa các lứa đẻ

Theo Lê Hồng Mận (2006) [14], khoảng cách giữa các lứa đẻ là chỉ tiêu quan
trọng đánh giá khả năng sinh sản của gia súc cái. Đây là tính trạng tổng hợp bao
gồm thời gian có chửa, thời gian bú sữa, thời gian từ cai sữa đến thụ thai lứa sau,
do vậy khoảng cách giữa lứa đẻ ảnh hưởng đến số con cai sữa/nái/năm, số lứa đẻ
của nái/năm. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy thời gian mang thai của các
giống lợn giao động không đáng kể trong khoảng 113 - 115 ngày, đây là những yếu
tố ít biến đổi, không chịu ảnh hưởng bởi các kích thích bên ngoài cũng như kích
thích của thai.
Để rút ngắn khoảng cách lứa đẻ ta chỉ có thể tác động bằng cách rút ngắn thời
gian bú sữa và cai sữa sớm ở lợn con. Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận: để
rút ngắn thời gian sau đẻ đến phối giống lại có kết quả thì phải chăm sóc nuôi
dưỡng tốt và đặc biệt phải cai sữa sớm lợn con, điều đó làm tăng số con cai
sữa/nái/năm, tăng số lứa đẻ của nái/năm. Để rút ngắn thời gian cai sữa, phải tập cho
lợn con ăn sớm từ 5 - 7 ngày tuổi đến khi lợn con có thể sống bằng thức ăn được
cung cấp, không cần sữa mẹ [2].
Theo Trần Thị Dân (2004) [5], hiện nay tại các trang trại, thời gian cai sữa ở
lợn con là 21 ngày, sau cai sữa trại hiện nay trung bình là 140 ngày, một năm nái
mẹ sản xuất được 2,5 lứa.
2.2.2.5.

Sinh lý quá trình mang thai


Khái niệm mang thai
17


Mang thai là hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt đầu từ khi
trứng được thụ tinh cho đến khi sinh đẻ xong.
Thời gian có thai
Trong thực tế sự có thai của gia súc được tính từ ngày phối giống lần cuối.
Thời gian có thai phụ thuộc vào những điều kiện và yếu tố khác nhau. Nó dài hay
ngắn tùy theo loài, giống gia súc, tuổi gia súc, lứa sinh sản, trạng thái dinh dưỡng,
sức khỏe,…
Theo Đặng Đình Tín (1986) [30], Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [7], ở lợn
thời gian có thai xê dịch từ 110 - 118 ngày, thời gian có thai trung bình là 114 ngày.
Quá trình phát triển của phôi thai
Chia làm ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất - thời kỳ trứng: Bắt đầu từ khi tế bào trứng được thụ tinh đến
khi hình thành nang phôi - túi phôi.
Thời kỳ thứ hai - thời kỳ phôi thai: Là thời kỳ hình thành nhau thai, hình
thành các tế bào và các cơ quan hệ thống của cơ thể. Ở gia súc lớn từ 11 - 40 ngày.
Thời kỳ thứ ba - thời kỳ bào thai: Là thời kỳ cuối phôi thai cho đến khi sinh
đẻ. Là giai đoạn phân hóa những kết cấu cực tiểu của tế bào và cơ quan, là thời kỳ
bào thai phát triển nhanh.
Sự điều hòa thần kinh thể dịch ở thời kì mang thai
Điều hòa sự phát triển của bào thai và đảm bảo sự thống nhất trong các hoạt
động chức năng giữa cơ thể mẹ và bào thai là một quá trình phức tạp do sự điều tiết
thần kinh - thể dịch.
Điều tiết thần kinh : Bắt đầu từ lúc thụ thai thì trong võ não xuất hiện vùng
hưng phấn trội để tiếp nhận những biến đổi hóa học và cơ học từ các điểm thụ cảm
ở tử cung, do đó đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của phôi
thai như: niêm mạc tử cung phát triển, mạch máu đến nhiều, tiết dịch tăng… Hưng

phấn tăng cương mạnh nhất ở tháng thứ 2, là một trong những yếu tố dễ gây sẩy
thai ở thời điểm này.
18


Điều tiết thể dịch: Có sự tham gia tích cực của hệ nội tiết, progesteron là
hoocmon an thai, duy trì quá trình mang thai, được sản sinh ở thể vàng và nhau
thai. Ở lợn progesteron chủ yếu do thể vàng cung cấp vai trò của nhau thai là thứ
yếu (Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự, 1996) [31].
Những biến đổi sinh lý chủ yếu khi có thai
Sự biến đổi toàn thân của cơ thể mẹ khi có thai
Khi gia súc thai kích tố của hoàng thể và nhau thai làm thay đổi cơ năng hoạt
động một số tuyến nội tiết khác. Vì vậy hiện tượng ăn uống, trạng thái dinh dưỡng,
quá trình trao đổi chất…của con mẹ được nâng cao cho nên thời kỳ đầu gia súc có
thai thường béo hơn khi chưa có thai.
Theo Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [10], trong thời kỳ có chữa lợn nái
tăng từ 15 - 25 kg (không kể các sản phẩm thai, trong đó khoảng 3 - 4 kg là
protein). Nói chung trong thời kỳ có chữa lợn mẹ tăng 1,2 - 1,3 lần so với trước khi
phối giống. Bào thai ngày càng phát triển, áp lực xoang chậu và xoang bụng thay
đổi nên ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp. Nhu cầu cung cấp
oxy của bào thai dần nâng cao ở thời gian có thai kỳ cuối nên tần số hô hấp của mẹ
tăng lên và có khi còn thể hiện trạng thái thở dốc. Dưới tác dụng chèn ép cơ học
của bào thai kỳ cuối làm thay đổi tuần hoàn vùng xoang chậu nên gây hiện tượng
phù thủng ở hai chân sau. Mặt khác số lần đại tiểu tiện của gia súc mẹ tăng lên
nhưng số lượng mỗi lần ít.
Sự thay đổi của cơ quan sinh dục
Buồng trứng
Khi gia súc có thai, hai buồng trứng to nhỏ không đều nhau. Buồng trứng
phía sừng tử cung có thai thường lớn hơn. Trên mặt ngoài buồng trứng xuất hiện
thể vàng.

Tử cung
Khi gia súc có thai, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về cấu tạo,
tính chất, vị trí, khối lượng, thể tích,… dây chằng tử cung dài ra nên đầu mút sừng
tử cung và buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới, xa vị trí cũ. Hệ tuần
hoàn ở cơ quan sinh dục được tăng cường lượng máu đến cung cấp cho niêm mạc
19


tử cung rất nhiều nên niêm mạc được phát triển và dày lên. Các tuyến tử cung cũng
được phát triển mạnh và tăng cường tiết niêm dịch. Niêm mạc tử cung hình thành
nhau.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [7] lợn mức độ phát triển và tăng sinh
của tử cung phụ thuộc vào số lượng của bào thai và thường là phát triển ở hai sừng
tử cung. Cuối thời kỳ có thai, khối lượng tử cung (không kể thai) nặng tới 2,5 - 6
kg còn tử cung bình thường không có thai nặng 0,2 - 0,5 kg. Theo Vũ Duy Giảng
và cộng sự 2002 [10], tử cung bình thường nặng 0,2 - 0,3 kg, khi có thai nặng 3 - 4
kg.
Sự thay đổi hoocmon sinh dục
Bào thai được phát triển bình thường dưới tác dụng điều hòa của các hoocmon
buồng trứng, nhau thai, tuyến yên.
Nữa thời kỳ đầu có thai: Nhau thai được hình thành và phát triển tiết ra
ProlanB. Chất này có tính chất giống như LH của thùy trước tuyến yên. Nó kích
thích thể vàng phát triển và tăng tiết Progesteron làm cho niêm mạc tử cung phát
triển và dày thêm. Nhau thai ngoài việc tiết ra Prolan B còn tiết ra Progesteron và
Folliculin.
Nữa thời kỳ sau có thai: Hàm lượng Progesteron giảm dần trong máu ngược
lại Folliculin tăng dần tới mức tối đa.
Cuối thời kỳ có thai Progesteron giảm rất thấp trong máu. Progesteron có tác
dụng ức chế tử cung co bóp và Folliculin kích thích co thắt tử cung, thuận lợi cho
quá trình sinh đẻ. Trong thời kỳ có thai nhau thai đã dần thay thế chức năng nội tiết

của thùy trước tuyến yên, tiết ra Prolan A và Prolan B. Mặt khác nó còn thay thế
buồng trứng tiết Oprogesteron trong nữa thời kỳ đầu, Folliculin được tiết liên tục
càng về sau càng nhiều.
Sinh lý đẻ
Khái niệm
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], gia súc cái mang thai trong một thời
gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động
của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào
20


thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là quá trình
sinh đẻ.
Học thuyết áp lực
Khi thai của tử cung mẹ phát triển đầy đủ ở thời kỳ cuối, bào thai áp sát vào tử
cung và cổ tử cung làm cho áp lực của đường sinh dục cái thay đổi. Đồng thời bào
thai là một dị vật với sự máy động của thai nhi gây kích thích mạnh làm cho đường
sinh dục của con mẹ tăng cường quá trình hưng phấn. Khi áp lực và kích thích cơ
giới của bào thai đạt đến một mức độ nhất định gây cho gia súc xuất hiện co bóp ở
tử cung làm cho cổ tử cung mở ra xuất hiện quá trình sinh đẻ.
Học thuyết kích tố
Kích tố từ con mẹ
Vào thời kỳ trước khi đẻ có sự thay đổi về hàm lượng hai kích tố trong máu và
nước tiểu, đó là sự tăng tiết của Oestrogen và ngược lại hàm lượng Progesteron lại
giảm thấp. Sự thay đổi này làm cho tăng sự hưng phấn của cơ mạc và làm cho cơ
mạc trở nên nhạy cảm với kích thích bên ngoài, đặc biệt là sự có mặt của Oestrogen
làm tăng co bóp tử cung.
Một loại hormone khác là Oxytoxin do thuỳ sau tuyến yên tiết ra vào thời kỳ
cuối có chửa làm tăng cường co cơ tử cung. Sự hạ thấp nồng độ Progesteron trong
máu cho phép sự kích thích của Oxytoxin lên cơ mạc. Có ý kiến cho răng men

Oxytoxinaza làm mất hoạt tính của Oxytoxin để bảo vệ cơ mạc tử cung. Sự hạ thấp
nồng độ Oxytoxinaza về giai đoạn có chửa về sau đã làm cho tử cung co bóp gây
nên hiện tượng đẻ .
Kích tố từ con (thai)
Các xung động thần kinh từ Hypothalamus của bào thai đã kích thích tuyến
yên bào thai giải phóng ACTH (Adromo-corticotrophic Hormone). Điều đó đã tác
động thúc đẩy sự sản xuất ra Corticosteroid từ tuyến thượng thận của bào thai.
Corticosteroid tác động lên nhau thai và tử cung, kích thích sự sản xuất
Prostaglandin làm cho sự phân giải thể vàng xảy ra nhanh chóng, dẫn đến hàm
lượng Progesteron không còn. Sự co rút của cơ tử cung không bị kìm hãm, các cơ
nội mạc tử cung co rút theo nhịp điệu dẫn đến hiện tượng đẻ.
21


Nói chung, nguyên nhân gây ra hiện tượng đẻ còn có nhiều điều chưa được
giải thích đầy đủ và chính xác và có thể có sự khác nhau giữa các loài nên còn đang
được nghiên cứu.
Thời gian đẻ
Thời gian đẻ của gia súc được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi thai
ra khỏi cơ thể mẹ và số lượng thai ra hết ở những loài gia suc đa thai.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [7], thời gian đẻ của lợn từ 2 – 6 h.
Những biểu hiện của cơ thể mẹ trong thời gian gần sinh đẻ
Quá trình đẻ của gia súc là quá trình sinh lý bình thường. Cuối thời kỳ mang
thai gia súc cái có những biểu hiện của quá trình sinh đẻ, chủ yếu là đường sinh dục
và bầu vú.
Triệu chứng ở thời kỳ sắp đẻ
Trước khi đẻ 1 - 2 tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh
dính và chảy ra ngoài.
Trước khi đẻ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay
đổi: âm môn phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu vú căng to, sữa

bắt đầu tiết, nhiệt độ cơ thể thay đổi, trước khi đẻ thì nhiệt độ cơ thể tăng lên cao
hơn bình thường. Bên ngoài cơ thể có biểu hiện sụt mông.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ:
Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong.
Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
Trước khi lợn đẻ 2 – 3 h, hàng vú sau vắt được sữa đầu.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [7], lợn trước lúc đẻ 10 - 15 ngày bầu
vú căng. Giữa bầu vú và thành bụng đã phân chia ranh giới rõ ràng.
Triệu chứng rặn đẻ
Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng các khí quan trong đường sinh
dục để đưa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử cung, sự co bóp
22


này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung, kết quả là mở rộng
cổ tử cung.
Nhưng chỉ nhờ vào sức co bóp của tử cung thì không đủ đẩy thai ra ngoài mà
phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô và toàn thân. Đó mới là rặn
đẻ, mặt khác còn dựa vào sự co bóp của cơ âm đạo, chậu, hông, sức. Khi có triệu
chứng đẻ thì tử cung bắt đầu co bóp, ban đầu yếu sau mạnh dần.
Quá trình sinh đẻ
Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục. Chia làm bốn
quá trình:
Thời kỳ mở cổ tử cung
Là thời kỳ đầu tiên của quá trình sinh đẻ được tính từ cơn co bóp đầu tiên đến
lúc cổ tử cung mở ra hoàn toàn. Mỗi lần tử cung co bóp khoảng 1 - 2 giây và khoảng
cách giữa mỗi lần co bóp khoảng 20 - 30 giây. Đối động vật đa thai như lợn thì sự co
bóp bắt đầu từ bọc thai gần cổ tử cung nhất, còn những bọc thai khác ở xa vẫn ở
trong trạng thái yên tĩnh. Thai và bọc thai đi dần vào cổ tử cung thì một phân của
nhau tách ra. Màng niệu và màng ối căng phồng đè lên và kích thích cổ tử cung và

khung xương chậu mở ra tạo điều kiện cho thai ra ngoài.
Kết thúc giai đoạn này, cổ tử cung và khung xương chậu đã mở hoàn toàn tạo
thành một đường thông suốt. Nước ối chảy ra từ bọc ối bị vỡ. Giai đoạn mở tử cung
ở lợn khoảng 3 - 6 giờ. Con vật thường rất đau, kêu la vật vã.
Giai đoạn đẩy thai
Giai đoạn tiếp theo từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn cho đến khi thai được ra
ngoài. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình sinh đẻ. Giai đoạn này co bóp
của tử cung đặc biệt mạnh. Nếu như tư thế, chiều hướng của thai bình thường, cơ
quan sinh dục không có hiện tượng bệnh lý, hệ thống nội tiết hoạt động bình
thường thì thai dần dần lọt ra ngoài, ngược lại chuyển sang hiện tượng đẻ khó. Đối
với lợn, thời gian này có thể kéo dài 1 - 4h, bình thường con nọ xổ cách con kia 5 10 phút, nếu quá 4 giờ mà thai không xổ, hoặc xổ không hết thì phải can thiệp. Con

23


vật rặn đẻ để đẩy thai ra ngoài với các hiện tượng như đứng ngồi không yên, 2 chân
cào đất, kêu la, trạng thái đau đớn cong lưng rặn, con đuôi, nghiến răng, nín thở…
Giai đoạn bong nhau
Con vật trở lại trạng thái yên tĩnh nhưng tử cung vẫn co bóp, những cơn rặn
chấm dứt hoặc yếu. Khi bong nhau, sự co bóp tử cung bắt đầu từ đầu mút sừng tử
cung do vậy nhau thường lộn ngược. Thời gian bong nhau lợn là 10 - 60 phút. Đối
với lợn, nếu nhau không được đẩy ra hết, bất kì nhiều hay ít còn tồn lại sẽ gây ra
viêm tử cung, một vài trường hợp dẫn đến viêm vú.
Võ não
Giai đoạn hồi phục tử cung
Đối với lợn thì sản dịch ít, lúc đầu hơi đỏ, 2 - 3 ngày thì ngừng chảy. Thời gian
hồi phục tử cung sau khi đẻ phụ thuộc lớn vào 3 giai đoạn trên của quá trinh đẻ
Hypothalamus
[23].
Cơ chế quá trình đẻ


Tuyến yên
Theo Phan Vũ Hải và cs (2013) [11]

Oxytoxin

ACTH

Võ trên thận

Corticosteroi
d

Tăng độ mẫn
cảm với
Oxytoxin

Nhau thai

PGase

Relaxin

Tử cung

Nhau thai

Phá
thể
vàng


Ức chế
tiếtProgester

Giãn dây
chằng xương
chậu, mở cổ tử
cung

Thai thành
thục


giới
áp
24
lực
Đẻ


Sơ đồ 2.1. Cơ chế thần kinh thể dịch điều khiển quá trình đẻ

Sinh lý tiết sữa của lợn nái
Cấu tạo tuyến sữa
Tuyến sữa của lợn gồm 2 phần: phần phân tiết và phần dẫn sữa [32].
Phần phân tiết: Gồm vô số các tuyến bào tạo thành từng chùm như các chùm
nho các tế bào phân tiểt nằm mặt trong của các tuyến bào, tổng hợp sữa và phân tiết
vào xoang tuyến bào.
Phần dẫn sữa: Gồm hệ thống ống dẫn sữa nhỏ xuất phát từ các xoang tuyến
bào. Các ống dẫn sữa nhỏ được tập trung lại thành ống dẫn trung bình rồi thành ống

dẫn sữa lớn, để cuối cùng đổ vào bể sữa. Bể sữa được thông ra ngoài bởi ống tiết
sữa (ống thông sữa).
Quá trình hình thành sữa
Sự hình thành sữa là một quá trình tổng hợp phức tạp xảy ra trong các tế bào
tuyến, chọn lọc dinh dưỡng từ huyết tương để tổng hợp nên những thành phần đặc
trưng của sữa. Thành phần của sữa và huyết tương rất khác nhau, hàm lượng đường
25


×