Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học môn kinh tế chính trị - Kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.53 KB, 31 trang )

I. Mở Đầu
Từ đầu những thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ
của cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu…làm cho nền kinh tế thế giới biến đổi sâu
sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động; lực lượng sản
xuất xã hội chuyển dần từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh
của loài người đang chuyển đến nền văn minh trí tuệ . Đây là một bước ngoặt có ý
nghĩa lịch sử quan trọng.
Kinh tế tri thức là cơ sở cho các nước đang phát triển tiếp cận để rút ngắn
khoảng cách kinh tế với các nước phát triển . Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo
ra thách thức không nhỏ đối với những nước này, điều đó đòi hỏi chúng phải thực
hiện những bước đi đúng đắn, cần thiết.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã thấy được việc phát triển kinh tế tri
thức là cần thiết cho một nước mà vốn được coi là có nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, kém phát triển. Điều này đã được khẳng định tại các Báo cáo Chính trị của
Đảng lần thứ X, XI. Nhưng muốn phát triển được kinh tế tri thức, thì đòi hỏi
chúng ta phải có một nền tảng kinh tế quốc dân vững chãi, vì vậy chúng ta phải
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rồi từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
II. Nội Dung
1. Kinh Tế Tri Thức
1.1. Một số khái niệm liên quan đến kinh tế tri thức
1.1.1. Tri thức
- Là những hiểu biết của con người về các đối tượng (sự vật, hiện tượng, quá
trình...), về quy luật vận động và tương tác của đối tượng đó với thế giới vật chất
xung quanh.
- Đặc điểm của tri thức:


Thứ nhất, tri thức là sản phẩm của lao động
Thứ hai, tri thức không phải là vật chất nhưng tồn tại dưới cái vỏ vật chất


(giá đựng, vật mang).
Thứ ba, tri thức dưới dạng sản phẩm khi đem sử dụng đòi hỏi phải có cả
một quá trình học hỏi và nghiên cứu.
Thứ tư, tri thức dưới dạng sản phẩm trong nền kinh tế thị trường trở thành
một loại hàng hóa có tính phổ cập.
Thứ năm, tri thức là một trong các yếu tố quan trọng nhất của sản xuất và
đời sống xã hội.
Thứ sáu, tri thức có tốc độ thay đổi nhanh chóng.
1.1.2. Thông tin
- Là sự phản ánh về một vật, một hiện tượng, một sự kiện hay quá trình nào
đó của thế giới tự nhiên, xã hội và con người thông qua khảo sát trực tiếp hoặc lý
giải gián tiếp.
- Giữa tri thức và thông tin có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông tin
sau khi đã được thu thập, xử lý để nhận thức sẽ trở thành tri thức.
1.1.3. Kinh tế tri thức
- Theo Tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát
triển ) (1995) thì kinh tế tri thức là nền kinh tế mà ở đó “sự sản sinh, phổ cập và sử
dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”.
- Theo Ngân hàng thế giới(WB), kinh tế tri thức là nền kinh tế mà sự phát
triển của nó dựa chủ yếu vào tri thức, trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỷ trọng
lớn trong giá trị sản phẩm xã hội. Sự phát triển nền kinh tế tri thức dựa trên bốn trụ
cột chính:
+ Lực lượng lao động chất lượng cao
+ Hệ thống sáng tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả


+ Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, tin học hiện đại
+ Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại.
- Năm 2000, tổ chức OECD cùng với Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó

sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của tăng trưởng,
tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế"
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức là nguồn lực quan trọng nhất, quyết
định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Khác với các nền kinh tế khác, nền kinh kinh tế tri thức, chủ thể là công
nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức.
- Nền kinh tế tri thức được xác định dựa trên bốn tiêu trí cơ bản sau:
+ Đóng góp của các ngành kinh tế tri thức vào tăng trưởng GDP từ 70% trở
lên.
+ Giá trị gia tăng do lao động trí óc mang lại từ 70% trở lên.
+ Từ 70% trở lên lực lượng lao động xã hội là lao động trí óc.
+ Từ 70% trở lên vốn sản xuất là vốn nhân lực.
Tuy đến nay đã có nhiều quan niệm và giải thích khác nhau về kinh tế tri
thức, song nhìn chung các nhà khoa học đều có sự thống nhất trong nhận thức về
bản chất của nó, đó là tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Thuật ngữ kinh tế tri thức được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI
của Đảng ta và được hiểu: Các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri thức
chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được dựa
trên bốn trụ cột:
• Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao
• Hệ thống sáng tạo và ứng dụng CN có hiệu quả


• Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại;
• Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại
1.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Một là, tri thức là yếu tố quyết định nhất của sản xuất.
Trong kinh tế tri thức, việc mua bí quyết công nghệ, bí quyết sản xuất mới

và khả năng tạo ra sản phẩm từ những bí quyết mới đó là một chiến lược đầu tư
trọng yếu, chứ không phải mua máy móc thiết bị mới. Giá trị tăng thêm ngày càng
được tạo ra bởi những yếu tố vô hình như sáng chế, dịch vụ tài chính, quản lý kinh
doanh…
Trong tương lai, việc khai thác tri thức để phục vụ cho sản xuất và đời sống
sẽ thay thế dần cho khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền sở hữu đối với tri thức
sẽ quan trọng hơn quyền sở hữu đối với vốn, đất đai và tài nguyên thiên nhiên.
Vì vậy, việc sở hữu nhân tài và tri thức sẽ quan trọng hơn nhiều so với sở
hữu các nguồn lực khác. Điển hình nhất mà chúng ta thấy hiện nay là Nhật Bản.
Việt Nam cần có những hệ thống chính sách, luật pháp cần thiết đảm bảo
cho phát triển kinh tế tri thức, chẳng hạn như : trọng dụng nhân tài.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển đổi nhanh chóng
Trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế dựa vào tri thức, các thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ chiếm đa số, so với các ngành kinh tế khác.
Ngành kinh tế và nền kinh tế được coi là ngành hoặc nền kinh tế tri thức
phải có tỷ lệ đóng góp của yếu tố tri thức trong tăng trưởng kinh tế, trong sản xuất
các sản phẩm, dịch vụ khoảng từ 70% trở lên.
Trong nền kinh tế tri thức, các công ty mới ra đời rất nhanh và kèm theo
những sáng chế, công nghệ mới. Các khu công nghệ cao sẽ hình thành và phát triển
rất nhanh, chúng sẽ chuyển sang thu hút tri thức, công nghệ cao và công nghệ
quản lý hiện đại, để tạo ra hiệu quả cao gấp nhiều lần so với các nền kinh tế hiện
vật.


Ba là, công nghệ thông tin và viễn thông được ứng dụng rộng rãi trong mọi
lĩnh

vực đời sống xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất.


Mọi hoạt động trong xã hội đều có sự tác động của công nghệ thông tin. Trong nền
kinh tế xuất hiện những ngành và lĩnh vực hoạt động mới như: Thương mại điện
tử, ngân hàng điện tử, công nghệ phần mềm, quản lý trực tuyến, chữa bệnh từ xa...
Để ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
phải tăng nhanh đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin, bao gồm đầu tư cho
phát triển phần cứng, phần mềm và công nghệ viễn thông.
Ngay từ cuối thế kỷ XX, đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin ở các
nước phát triển đã chiếm tỷ lệ đáng kể trong GDP.
Bốn là, hệ thống giáo dục thay đổi, chuyển sang hệ thống học tập suốt đời,
xã hội học tập.
Để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế tri thức, con người phải học tập
suốt đời, vừa học vừa làm việc hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người, bất
cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có thể học tập được. “ Học, học nữa, học mãi”.
Năm là, sáng tạo là tiêu chí quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức
Trong nền kinh tế tri thức cái mới liên tục thay thế cái cũ. Sáng tạo trở thành
yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của công ty, quốc gia.
Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế cần coi trọng các lĩnh vực sáng tạo sau:
- Đưa ra loại sản phẩm, dịch vụ mới.
- Áp dụng một phương pháp sản xuất mới.
- Mở ra thị trường mới.
- Tạo ra một loại nguyên vật liệu mới hoặc bán thành phẩm mới.
- Hình thành một hình thức tổ chức xí nghệp mới.
1.3. Vai trò của tri thức và kinh tế tri thức
Thứ nhất, tri thức trở thành yếu tố trực tiếp của sản xuất


Ngày nay, ngoài các nguồn vốn, lao động, đất đai thì tri thức ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu các nguồn lực của sản xuất.
Hiện nay, các nền kinh tế công nghiệp trên thế giới ngày càng chú trọng tới
những kỹ năng tri thức, phát triển các sáng kiến và tham gia vào các mạng lưới

quốc tế trao đổi sản phẩm, vốn và tri thức. Đi cùng với sự xuất hiện của kinh tế tri
thức là những thay đổi trong các hoạt động kinh tế và cơ cấu kinh tế.
Thứ hai, tri thức là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội
Cho đến nay, những giải pháp tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang
phát triển vẫn thường được áp dụng là:
- Khai thác những vùng đất chưa khai phá
- Tích lũy vốn vật chất để phát triển đường xá, công xưởng, mạng lưới điện,
điện thoại...
- Tăng thêm lực lượng lao động và tăng cường giáo dục – đào tạo lực lượng
đó.
Ở các nước này hầu như đất đai, tài nguyên thiên nhiên rất ít nhưng họ đã
tập trung đầu tư nguồn vốn vật chất .Vai trò chủ chốt của tri thức thể hiện dưới mọi
hình thức trong quá trình phát triển kinh tế. Điển hình như Singapore.
1.4. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế hậu công nghiệp
Thứ hai, công nghệ cao, công nghệ thông tin và truyền thông được ứng
dụng rộng rãi và đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng nhanh các ngành
có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Thứ tư, tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là
lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định.
Thứ năm, có cấu trúc mạng lưới toàn cầu


Thứ sáu, tốc độ biến đổi rất nhanh của công nghệ và nhanh chóng ứng
dụng trong các ngành sản xuất
Thứ bẩy, đầu tư mạo hiểm có xu hướng gia tăng mạnh trong nền kinh tế tri
thức
Thứ tám, đặc tính, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế
tri thức thay đổi căn bản.

1.5. Phát triển kinh tế tri thức
1.5.1. Tính tất yếu cần phải phát triển kinh tế tri thức
Phát triển kinh tế tri thức là một xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay.
Một là, trong xu hướng này, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và
toàn diện cả về trình độ công nghệ, ngành sản xuất lẫn cơ cấu sản phẩm. Tri thức,
khoa học và công nghệ, kỹ năng của con người trở thành những yếu tố quyết định
nhất của sản xuất và trở thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế
công nghiệp lên nền kinh tế tri thức.
Hai là, trong nền kinh tế tri thức, vai trò của con người trong lực lượng sản
xuất tuy không thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp
dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nhưng tính chất hoạt động
và yêu cầu đặt ra đối với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động trong
hai nền
kinh tế trước. Trong nền kinh tế tri thức, người lao động là người lao động
trí óc, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh được
ứng dụng ngay vào sản xuất. Tri thức, khoa học- công nghệ là yêu cầu hàng đầu
đối với người lao động.
Ba là, phát triển kinh tế tri thức đã và đang được diễn ra ngày càng mạnh
mẽ ở các nước công nghiệp phát triển. Nhưng do sức hấp dẫn của nó đối với sự


phát triển kinh tế - xã hội, mà kinh tế tri thức đã và đang cuốn hút ngày càng nhiều
nước đang phát triển.
Đã có một số nước đang phát triển thành công nhờ phát triển kinh tế tri
thức.
1.5.2. Đo lường mức độ phát triển kinh tế tri thức
Việc đo lường mức độ phát triển kinh tế không có sự thống nhất giữa các tổ
chức, nhưng hiện nay thường tuân theo các hệ thống sau:
- Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới.

- Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của APEC.
- Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của các nước OECD.
- Theo bảng chỉ số Gifford
1.5.3. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế tri thức
Để đánh giá chung trình độ phát triển của kinh tế tri thức, APEC đã đưa ra
một hệ thống gồm rất nhiều chỉ tiêu liên quan đến việc tiếp thu tri thức, tạo ra tri
thức, phổ biến và sử dụng tri thức. Các chỉ tiêu đó có thể phân thành năm nhóm:
- Về cơ cấu kinh tế
- Về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
- Về nền tảng tri thức
- Về đổi mới doanh nghiệp
- Về khung khổ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô
1.5.3.1. Về cơ cấu nền kinh tế
- Để phát triển kinh tế tri thức, một tỷ lệ đầu tư tương đối ổn định phải được
bố trí vào lĩnh vực hoạt động nhằm củng cố nền tảng tri thức và cơ sở vật chất kỹ
thuật đảm bảo cho nền tảng tri thức đó phát huy hiệu quả. Gồm đầu tư tư nhân và
đầu tư nhà nước.


+ Trong sự đầu tư đó có chứa chi phí cơ hội - là một phần tiêu dùng hiện tại,
mà các nền kinh tế phải bỏ ra để phát triển kinh tế tri thức, đó là sự đầu tư cho giáo
dục cơ bản, không có nó thì nền kinh tế tri thức không thể bền vững được.
- Tốc độ phát triển nền tảng tri thức của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào
khả năng phổ biến các hoạt động sáng tạo từ bên ngoài vào và phải tạo dựng văn
hóa chấp nhận sáng tạo từ bên ngoài vào. Do đó, phát triển cơ cấu kinh tế mở là
điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế tri thức.
+ Để hoạt động sáng tạo thực sự phổ biến và phát huy hiệu quả, việc mở cửa
đón những người nhập cư có kỹ năng, tay nghề cao, là sự thể hiện khả năng hỗ trợ
môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế tri thức.
- Các ngành kinh tế dựa vào tri thức ngày càng phát triển nhanh và chúng

phải tăng cường tri thức bằng cách luôn dành một phần trong tổng số chi phí của
mình để đầu tư cho nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ.
- Dấu hiệu của xu hướng đi tới kinh tế tri thức là ở trình độ kỹ năng và vị trí
nghề nghiệp của lực lượng lao động.
+ Trong nền kinh tế tri thức thì lực lượng lao động là công nhân tri thức,
phải chiếm ưu thế, đa số.
- Để phản ánh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế tri thức có
thể sử dụng các chỉ tiêu cụ thể sau:
+ Tỷ trọng các ngành kinh tế tri thức trong nền kinh tế quốc dân, biểu thị
bằng giá trị các ngành kinh tế tri thức trên tổng GDP.
+ Lượng xuất khẩu dịch vụ tính theo tỷ lệ % trên GDP.
+ Lượng xuất khẩu công nghệ cao và sản phẩm công nghệ cao tính theo tỷ lệ
% trên GDP.
+ Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tính theo tỷ lệ % trên GDP.
1.5.3.2. Về kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông


- Điều kiện của kinh tế tri thức là một cơ sở vật chất truyền thông có hiệu
quả, để mọi người dân có thể sử dụng với mức giá hợp lý.
+ Hệ thống thông tin và viễn thông tiên tiến làm giảm chi phí thông tin và
tạo điều kiện thuận lợi truy cập thông tin một cách phổ biến hơn và thúc đẩy phát
triển sáng kiến.
+ Khả năng có mạng lưới truyền thông tiên tiến và khung luật pháp, chính
sách hỗ trợ cho việc sử dụng và phát triển phần mềm thông tin, là một chỉ số về
mức độ phát triển kinh tế tri thức. Các chỉ số phản ánh trình độ phát triền của cơ
sở vật chất công nghệ thông tin và viễn thông là:
• Số điện thoại di động tính bình quân trên 1000 người.
• Số máy tính bình quân trên đầu người.
• Số người sử dụng Internet.
• Số người nối mạng Internet tính bình quân trên 10.000 người.

• Doanh thu từ thương mại điện tử / năm.
+ Cơ sở vật chất công nghệ thông tin và viễn thông tiến bộ vượt bậc là điều
kiện để một nền kinh tế thực sự trở thành kinh tế tri thức.
• Nó là phần chủ yếu trong quá trình hoạt động của kinh tế tri thức, nhưng
chi phí đầu tư cho nó không phải là nhỏ. Vì vậy, Chính phủ nên đảm bảo cho
khoản đầu tư đem lại cơ sở vật chất đáp ứng được nhu cầu của mọi người dân với
mức giá cả hợp lý.
1.5.3.3. Chỉ tiêu nền tảng tri thức quốc gia
- Nền tảng tri thức quốc gia thể hiện ở khả năng tiếp thu và ứng dụng tri
thức, khả năng phổ biến công nghệ và hệ thống giáo dục, học tập suốt đời.
+ Về khả năng tiếp thu và vận dụng tri thức:
• Phải có những người có khả năng tạo ra tri thức hoặc tiếp thu và vận dụng
tri thức.


• Việc tiếp thu và vận dụng tri thức vừa có một mức độ hữu ích phổ biến trên
toàn cầu, vừa có khía cạnh giá trị được cho từng vùng, từng địa phương.
+ Về khả năng phổ biến công nghệ:
• Nếu tri thức chỉ được giữ và ứng dụng ở một nơi tách biệt thì lợi ích của
nó đối với nền kinh tế rất hạn chế. Vì thế, tri thức phải được phổ biến rộng rãi giữa
các địa điểm khác nhau.
• Phổ biến tri thức thành công nghĩa là người nhận tiếp thu được tri thức.
• Việc phổ biến tri thức có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau
như in thành sách báo, văn bản hay đưa lên mạng… Những thông tin như vậy có
thể lấy từ kết quả các chương trình nghiên cứu và triển khai do nhà nước tài trợ.
+ Khả năng giáo dục và học tập suốt đời:
• Đây là thước đo khả năng tiếp cận tri thức mới, khả năng học hỏi của một
xã hội.
• Trong thời đại khoa học công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão thì
thông tin và tri thức nhanh chóng bị lạc hậu. Điều này cho thấy sự cần thiết phải

học tập suốt đời.
• Tri thức mang nhiều hình thái khác nhau trong nền kinh tế tri thức, tùy
thuộc vào cách tiếp cận những thông tin mà một người cần cho nhiệm vụ cụ thể
của mình. Người đó biết lấy nó ở đâu, biết làm như thế nào và biết cách tiếp cận
thông tin khi tìm thấy nó.
• Trong kinh tế tri thức, có nhiều cách thức học tập như : Vừa làm vừa học,
học từ xa, tự học từ hoạt động thực tế...và cơ chế học tập suốt đời được xem như
khoản đầu tư quốc gia quan trọng. Khoản đầu tư vào vốn trí tuệ này là một tài sản
quốc gia ổn định và luôn đóng vai trò chủ chốt trong bộ não của con người cho nên
càng nhiều người được đào tạo tới trình độ cao thì càng tốt.
• Để đánh giá nền tảng tri thức quốc gia thường dựa trên các chỉ tiêu sau:
Số người có trình độ phổ thông cơ sở, số lượng nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên


cứu và triển khai, chi phí của chính phủ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
tính trên GDP, tỷ lệ công nhân tri thức trên tổng số công nhân, số lượng báo chí
bình quân trên 1000 dân.
1.5.3.4. Khả năng đổi mới doanh nghiệp
- Đổi mới, hay sáng tạo kinh tế là áp dụng những tri thức mới vào bất kỳ một
tổ chức nào của tổ chức kinh tế, để thay đổi tổ chức đó.
- Đổi mới thường là kết quả của những khả năng có được từ việc kết hợp tri
thức theo những quy tắc khác nhau và các ngành nghề khác nhau.
+ Do vậy, có thể có những lợi ích quan trọng từ việc sắp xếp lại để thúc đẩy
hợp tác và phát triển cả ở trong nội bộ cũng như giữa các tổ chức.
+ Điều này cũng cho thấy, trong kinh tế tri thức, những cố gắng nỗ lực sẽ
trực tiếp hướng tới việc khuyến khích các loại hình tác động lẫn nhau giữa các tổ
chức, các nhà nghiên cứu và các nhà kỹ thuật, để có thể đem lại những kết quả
mới.
- Để đánh giá khả năng đổi mới của doanh nghiệp có thể dùng những chỉ
tiêu cụ thể sau:

+ Chi phí của doanh nghiệp cho nghiên cứu và triển khai/ trên GDP.
+ Sự hợp tác trong nội bộ công ty.
+ Sự hợp tác giữa các trường đại học và các công ty.
1.5.3.5. Khung pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô
Mô hình kinh tế tri thức chỉ có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả nếu
hệ thống pháp luật, thể chế chính trị và các chính sách kinh tế - xã hội tạo ra điều
kiện thông thoáng và có lợi cho phát triển kinh tế tri thức.
Khả năng của một nền kinh tế trong việc tiếp nhận sự chuyển giao kiến
thức quốc tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của nguồn nhân lực và phụ thuộc
vào môi trường tạo ra tri thức và môi trường thu hút vốn đầu tư.


Trong mô hình kinh tế tri thức, người ta thấy rằng: Những nơi nào mà thiếu
về cơ sở hạ tầng , cấu trúc của thị trường vốn thì đều làm hạn chế đầu tư, và những
thay đổi công nghệ có thể có những tác dụng ngược lại.
Do vậy, muốn phát triển kinh tế tri thức rất cần có vai trò của chính phủ.
Các chỉ tiêu đánh giá môi trường kinh tế vĩ mô cho phát triển kinh tế tri
thức gồm các chỉ tiêu:
- Chỉ số phát triển con người (HDI).
- Mức độ trong sạch của chính phủ (chỉ số tham nhũng).
- Minh bạch về tài chính.
- Chính sách cạnh tranh.
- Chính sách mở cửa nền kinh tế.
1.5.4. Các nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế tri thức
Việc chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức là sự chuyển từ
nền kinh tế dựa vào tài nguyên sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào trí lực của con
người. Sự chuyển đổi này do tác động của các nhân tố chủ yếu sau:
- Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã dẫn đến hàng loạt những
thay đổi mới.
+ Sản phẩm và dịch vụ mới.

+ Làm thay đổi cơ bản cách thức tiến hành sản xuất và các hoạt động của
con người.
+ Làm thay đổi cách thức hoạt động của doanh nghiệp, thay đổi cách thức
quan hệ của doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh.
+ Giúp con người tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, nhờ đó mà có
thể nâng cao tri thức và trình độ vận dụng tri thức vào cuộc sống.
- Tốc độ phát triển nhanh của tiến bộ khoa học – công nghệ và sự phổ biến
của chúng đã gây áp lực đối với các chủ thể kinh tế trong việc phát hiện cơ hội
cũng như thách thức do sự thay đổi của khoa học công nghệ đem lại.


+ Muốn nắm bắt cơ hội để tận dụng và phát hiện thách thức để có giải pháp
ứng phó, buộc con người phải có năng lực tư duy nhanh nhạy, có khả năng xử lý
thông tin và đưa ra quyết định kịp thời.
- Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế trở thành tất yếu.
+ Toàn cầu hóa làm cho các mối quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, lan sang phạm vi toàn thế giới.
• Sự ra đời của các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia
đòi hỏi phải có mạng lưới thông tin kết nối toàn cầu.
+ Toàn cầu hóa làm tăng áp lực cạnh tranh giữa các công ty cũng như giữa
các quốc gia. Thực tế đó buộc các công ty và các quốc gia phải tính toán, xem xét
lại các chiến lược phát triển của mình để phát huy các lợi thế, gia tăng sức cạnh
tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.5.5. Động lực cho phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về kinh tế tri thức
Xuất phát từ lập luận: Yếu tố cốt lõi của kinh tế tri thức là tri thức và tri
thức chỉ có được từ con người, cho nên hầu hết các nước phát triển đều tích cực
nhìn nhận lại chính sách phát triển con người và đổi mới hệ thống giáo dục.
Nhận biết bản chất của kinh tế tri thức rồi từ đó đầu tư vào vốn vô hình là
chính, các nước đang cấp bách đẩy mạnh giáo dục, làm sao cho các trường học là

cái nôi của nhân tài, là nguồn sáng tạo ra tri thức, là nguồn lực cho tăng trưởng
kinh tế.

Như vậy, vấn đề chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào

tạo nhân tài, hướng tới một xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người học tập
suốt đời là rất quan trọng.
Tri thức trở nên quan trọng, ngày càng là nguồn lực chủ yếu tạo ra lợi thế
cạnh tranh, tạo ra sự phồn vinh và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ở các nước chậm phát triển, người ta không dễ nhận thức ra vấn đề này, kể
cả từ phía Chính phủ cho đến người dân.


Ở Việt Nam, Đảng đề ra nhiệm vụ chiến lược: “Càng khó khăn về kinh tế
thì càng phải tập trung đầu tư cho khoa học và công nghệ”. Đây chính là một yếu
tố tăng cường cho phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, tạo cơ chế phát huy dân chủ, sáng tạo và nâng cao sức cạnh tranh.
Tri thức chịu khống chế hoàn toàn của người tạo ra nó, người khác không
thể làm cho nó chuyển rời hoặc xuất ra ngoài một cách tùy tiện. Do vậy, cần phải
có chế độ sở hữu tài sản tri thức phù hợp, đảm bảo nguyên tắc lợi ích cùng hưởng,
rủi ro cùng chịu để gắn bó chặt chẽ các nhân tài với sự phát triển của tổ chức có
nhân tài đó.
Mặt khác, tri thức chỉ sản sinh trong môi trường tự do cá nhân, nó không
chịu sự gò bó bởi những áp chế về thời gian, không gian làm việc. Bởi vậy, các cơ
quan, tổ chức cần tạo ra môi trường làm việc tương đối tự do cho nhà khoa học.
Đây là yếu tố kích thích sáng tạo, động lực quan trọng trong kinh tế tri thức.
Thứ ba, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
Trong nền kinh tế tri thức, năng lực sáng tạo, phổ biến, triển khai tri thức
ngày càng được chú trọng như những lợi thế cạnh tranh quốc gia để tạo ra sự giàu
có và cải thiện chất lượng cuộc sống. Để nâng cao năng lực khoa học công nghệ

quốc gia, tất yếu phải chú trọng tới việc nâng cao nguồn vốn đầu tư cho giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ. Nguồn vốn đầu tư từ nhà nước và các doanh
nghiệp. Doanh nghiệp cần phải tích cực, chủ động đầu tư vào lĩnh vực này để trước
hết là mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, sau đó là góp phần nâng cao năng lực
khoa học và công nghệ quốc gia.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin.
- Công nghệ thông tin có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống,
kinh tế, xã hội.
+ Nó làm thu nhỏ thế giới, xóa nhòa khoảng cách về không gian và thời
gian.


+ Nó gây ra những thay đổi sâu sắc trong cách thức hoạt động của mọi đối
tượng từ cá thể đến từng khối liên minh, là động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh
tế tri thức.
- Để ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội phải phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin.
+ Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia là một hệ thống thống nhất các mạng
truyền thông tốc độ cao, giải băng rộng, các máy tính, các cơ sở dữ liệu và các
phương tiện điện tử dân dụng sẵn sàng để mọi người có thể truy cập tới những
lượng thông tin lớn dưới mọi hình thức (âm thanh, văn bản, hình ảnh...), vào bất
cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu.
Cùng với đó, tin học hóa sẽ làm cho loài người chuyển từ hoạt động lấy
vật chất và năng lượng làm cơ sở như trước đây sang hoạt động mới lấy mạng làm
cơ sở. Trong đó, thông tin vừa là tri thức, vừa là nguyên liệu, sản phẩm của nền
sản xuất mới.
Sự phát triển lớn mạnh của các xí nghiệp ngày nay chủ yếu nhờ vào đổi
mới công nghệ, mà đổi mới lại chủ yếu dựa vào thông tin và tri thức. Thông tin và
tri thức trở thành đòn bẩy cho phát triển kinh tế. Trong xã hội công nghiệp, đầu tư
tập trung vào nhà xưởng, thiết bị, máy móc. Ngày nay, phần lớn đầu tư của xí

nghiệp được tập trung vào phát triển công nghệ thông tin và đội ngũ trí thức, vì nó
là động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế tri thức.
1.5.6. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế tri thức.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng tác động của kinh tế tri thức đến đời
sống văn hóa- xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ đến cơ cấu lao động xã hội
nhất là tầng lớp công nhân tri thức.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến sự thay đổi tư duy phát triển- tư duy
hướng kinh tế tri thức.


- Kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh
mẽ đến quan hệ sản xuất.
- Hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức
cũng làm sâu sắc hơn các mâu thuẫn của thời đại.
- Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở các nước đang phát triển, dẫn đến tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức.
1.5.7. Chủ trương, giải pháp tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
1.5.7.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tri thức
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách để phát triển nhanh đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng, phát
huy vai trò của họ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết
chuyên đề về giáo dục và đào tạo, về khoa học và công nghệ, về văn hóa, về chính
sách thu hút chuyên gia từ nước ngoài...Các chủ trương đó nhằm vào mục tiêu sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, cơ bản trở thành
nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Để đạt mục tiêu đó phải chọn con
đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng
trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.

Tại các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần X, lần XI Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra các chủ trương:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ theo những bước vừa tuần tự,
vừa nhảy vọt.
- Phát triển có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao.
1.5.7.2. Giải pháp tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức


Để từng bước tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, cần áp
dụng đồng bộ các giải pháp sau:
- Phát triển mạnh mẽ đội ngũ trí thức.
- Đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phát triển
kinh tế tri thức.
- Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin.
2. Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức của Việt Nam hiện nay.
Sự thành công của công nghiệp hóa- hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là
nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn. Vì thế, công nghiệp hóa- hiện đại hóa được coi là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển mới- giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền
công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công
nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó không chỉ đơn
thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã
hội.

2.1.2. Quan niệm về hiện đại hóa
Hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên
xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và
trình độ của thời đại ngày nay.


Đây không chỉ là hiện đại hóa trong lĩnh vực kinh tế, mà nó còn bao hàm
phạm vi rộng lớn hơn, đó là hiện đại hóa toàn bộ đời sống xã hội. Đối với các nước
phát triển,
Hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch của xã hội dựa trên nền kinh tế công
nghiệp đi lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. Hiện đại hóa là quá trình tăng tốc,
rút ngắn lộ trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hóa và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, là một nước
đi
sau đang trong quá trình phát triển, Đảng ta tại Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy BCH trung ương khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng
con đường công nghiệp hóa- hiện đại hóa và nêu quan niệm: Công nghiệp hóahiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2.2. Tính tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam.
Từ việc xem xét công nghiệp hóa- hiện đại hóa và bối cảnh bùng nổ của
cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới, Đại hội IX của Đảng nhận định: “
Trong thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt . Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ’’
Trong văn kiện đại hội X, XI nêu: “ Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện,

mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”.


Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt
Nam phải trải qua nhằm cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở
vật chất- kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ; trang
bị và tái trang bị công nghệ mới nhất cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân; chuyển
từ lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng lao động với công nghệ tiên tiến, hiện
đại, có hàm lượng trí tuệ cao; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường
sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người; bảo vệ nền kinh tế độc lập
tự chủ và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc.
2.3. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế có những biến đổi mới, xu hướng toàn cầu hóa và cách
mạng khoa học- công nghệ phát triển mạnh mẽ, một số nước công nghiệp phát
triển đang chuyển lên nền kinh tế tri thức; để khắc phục nguy cơ tụt hậu khá xa về
công nghệ và kinh tế thì nước ta phải tranh thủ áp dụng những thành tựu mới về
khoa học –công nghệ để phát triển. Do vậy quá trình công nghiệp hóa ở nước ta
hiện nay phải gắn với hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức như Đại
hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, chúng ta phải tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
Như vậy công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta hiện nay là hai quá trình có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, là con
đường, cách thức của nước đi sau nhằm rút ngắn quá trình phát triển để sớm trở
thành một nền kinh tế hiện đại.



Từ quan niệm chung về công nghiệp hóa- hiện đại hóa , kinh tế tri thức có
thể hiểu một cách khái quát công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức: Là quá trình sử dụng một cách phổ biến trí lực của con người, công
nghệ luôn được đổi mới sáng tạo vào tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế tạo
ra những ngành mới, sản phẩm có giá trị gia tăng cao, nâng cao năng suất lao động,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
hiện nay được thể hiện ở các nội dung sau:
- Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công
nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Coi trọng việc gắn giữa nghiên cứu và triển khai.
- Coi trọng phát triển công nghệ thông tin.
- Kết hợp phát triển công nghệ nội sinh và ngoại sinh.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
là con đường, cách thức lựa chọn phát triển trong bối cảnh mới khi nhân loại bước
vào thế kỷ 21. Trong đó, điểm nổi bật là phải gắn kết công nghệ truyền thống với
công nghệ hiện đại trên cơ sở coi trọng yếu tố tri thức; phát huy lợi thế của đất
nước, địa phương, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp có tính
nền tảng; đồng thời phát triển mạnh các ngành kinh tế dựa vào tri thức, công nghệ
cao, công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, vật liệu, năng lượng… tạo ra
nhiều công nghệ mới, sản phẩm mới, việc làm mới đạt tốc độ tăng trưởng cao, hội
nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
2.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.



Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một
phương thức công nghiệp hóa mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Chỉ có đẩy
mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mới có thể
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ nhất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là cách thức để nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu.
Công nghiệp hóa được bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ
XVIII đây là con đường tất yếu của mọi quốc gia muốn phát triển, thoát khỏi đói
nghèo, lạc hậu.
Công nghiệp hóa tạo lập một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất, hiệu quả, chất
lượng cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Còn hiện đại hóa chỉ
mới bắt đầu thực hiện và gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa
thế kỷ XX đến nay. Hiện đại hóa là quá trình sử dụng những thành tựu khoa học
và công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới
về chất làm cho nó trở nên hiện đại hơn, tiên tiến hơn.
Nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất kém phát triển .
Trước xu thế có tính tất yếu của thời đại chuyển sang kinh tế tri thức, trước
đòi hỏi bức thiết của sản xuất và đời sống, nước ta không còn sự lựa chọn nào khác
nếu không chịu tụt hậu.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin và truyền thông đóng vai
trò chủ chốt trong mọi lĩnh vực; các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng tri thức
cao chiếm đa số; đầu tư vô hình cho con người giáo dục, khoa học và văn hóa lớn


hơn đầu tư hữu hình cho cơ sở vật chất, công nghệ đổi mới rất nhanh vì thế vòng

đời công nghệ được rút ngắn, tương lai trong thế kỷ XXI không còn công nhân trực
tiếp lao động chân tay vì nền sản xuất hoàn toàn tự động hóa, thì việc áp dụng
những thành tựu khoa học – công nghệ vào quá trình công nghiệp hóa- hiện đại
hóa là điều mà không một quốc gia nào được bỏ lỡ.
Đối với Việt Nam để tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa sâu rộng như hiện
nay phải biết nắm lấy thời cơ, tranh thủ nắm bắt tri thức khoa học và công nghệ
mới, những thành quả của kinh tế tri thức chắc chắn sẽ giúp chúng ta từ một nước
phát triển trung bình vươn lên thành nước phát triển sánh vai với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội hiện thực.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững
chắc trên nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Bất cứ quốc gia đang phát
triển nào muốn trở thành nền kinh tế hiện đại đều phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của một nền sản xuất hiện đại.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật
chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng
lao động xã hội sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm sản xuất ra của
cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ khoa học- công
nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội thì phải
tiên hành công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, đây là giải pháp bắt buộc nhất là


đối với nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản như ở Việt
Nam.

Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đang diễn ra mạnh
mẽ, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh
sang kinh tế tri thức. Lực lượng sản xuất của xã hội loài người bước lên một thang
bậc mới, với sự tăng vọt về năng suất, chất lượng, hiệu quả, các nước không đủ khả
năng sẽ bị tụt hậu. Vì vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã ở nước ta hiện nay
thì phải đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Theo đó có thể nói, công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam không chỉ khác với
các nước đã tiến hành công nghiệp về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến
hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù
của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến hành.
Thứ ba, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.
Nói tới hội nhập kinh tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế
khu vực và thế giới.
Hiện nay nước ta có quan hệ ngoại giao với nhiều nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, đồng thời tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
Cũng chính từ môi trường hòa bình, hợp tác, liên kết quốc tế và những xu
thế tích cực trên thế giới đã tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực, lợi
thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý
mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Hội nhập
vào nền kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu, ngày nay không một nền kinh tế nào
có thể đứng cô lập mà phát triển được, Việt Nam không thể nằm ngoài dòng chảy
đó.
Quá trình hội nhập kinh tế sẽ mang lại những cơ hội to lớn mà nếu biết


tranh thủ sẽ có tác động tích cực đến việc rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước, song cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Chủ
động hội nhập vào kinh tế thế giới là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế

tri thức góp phần tác động tích cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Nó là con đường thoát khỏi tụt nguy cơ tụt hậu xa so với các nước xung
quanh, giữ được ổn định chính trị-xã hội , bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định
hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa- hiện đại hóa tạo ra lực lượng
sản xuất mới, làm tiền đề cho việc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới xã
họi chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật cho việc củng cố, tăng cường vai trò
của nhà nước, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất,
tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do, toàn diện
của con người trong mọi hoạt động kinh tế-xã hội; tạo lực lượng kỹ thuật vật chất
cho việc đảm bảo quốc phòng -an ninh, đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị ,xã hội;
tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập-tự chủ, tích
cực tham gia phân công và hợp tác quốc tế.
2.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Tiềm năng trí tuệ của nhân lực
- Năng lực tạo lập nguồn vốn đầu tư phát triển
- Trình độ phát triển khoa học và công nghệ
- Độ mở của nền kinh tế với thế giới bên ngoài
- Hiệu lực quản lý của nhà nước
2.6. Nội dung cơ bản của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.


×