Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Tiểu luận tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.34 KB, 50 trang )

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Từ lâu quyền sở hữu tài sản đã được xem là một trong những quyền cơ bản
nhất đối với mỗi người. Qua từng giai đoạn kinh tế xã hội khác nhau, Nhà nước sẽ
có những biện pháp cụ thể khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu của công dân. Tuy
nhiên trong bất kì giai đoạn nào thì quyền sở hữu của công dân vẫn luôn được xem
trọng, thể hiện qua việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm trái phép đến
quyền sở hữu của công dân. Thông qua những chế tài nghiêm khắc đối với hành vi
này, Nhà nước luôn thể hiện được một thái độ nghiêm khắc, không khoan nhượng
đối với những hành vi xâm phạm trái phép đến quyền sở hữu của công dân.
Ở Việt Nam, ngay trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và các văn bản pháp
luật khác của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước ta đã khẳng định công
dân có quyền sở hữu tài sản và được bảo vệ1. Trong đó, pháp luật hình sự với những
chế tài nghiêm khắc nhằm răn đe, hạn chế những hành vi xâm phạm quyền sở hữu
của công dân trở thành công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong việc phòng
chống tội phạm xâm phạm sở hữu.
Qua thống kê thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây trên địa bàn cả
nước nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói
riêng diễn biến khá phức tạp. Không những gây thiệt hại về tài sản của công dân mà
còn làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế, làm giảm đi tính nghiêm minh của pháp luật. Trong nhóm tội phạm xâm
phạm sở hữu thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội có tỷ lệ xảy ra
cao, không ngừng tăng nhanh về số lượng cũng như thủ đoạn ngày một tinh vi, xảo
quyệt. Không nằm ngoài xu thế diễn biến tội phạm trên cả nước trong những năm
vừa qua từ thực tế điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng cho thấy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm một tỉ lệ đáng kể trong cơ
cấu tội phạm và có diễn biến khá phức tạp. Việc đấu tranh với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là một vấn đề cấp thiết trong toàn xã hội. Đây là nhiệm vụ của toàn thể
1 Điều 12 Hiến pháp năm 1946



GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

1

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

người dân mà nòng cốt là Cơ quan điều tra, Tòa án và Viện kiểm sát. Những năm
vừa qua trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, việc áp dụng pháp luật về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản vào thực tế tuy đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ nhưng cũng gặp
không ít bất cập, vướng mắc.
Từ những lý do nêu trên người viết quyết định chọn đề tài “Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng” để làm
đề tài cho bài tiểu luận tốt nghiệp cử nhân luật.

2. MỤC TIÊU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tiểu luận là tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích dấu hiệu pháp lý
và hình phạt cụ thể cho từng hành vi. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
một số tội khác tương tự được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Sóc Trăng, đề tài nghiên cứu sẽ
giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam vào thực tế. Những
bất cập, vướng mắc và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự Việt Nam. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống loại tội
phạm, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự.


2.2 Phạm vi nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu về những quy định của pháp
luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Sóc Trăng. Vì vậy người viết chỉ tập trung nghiên cứu quá trình phát triển của pháp
luật hình sự Việt Nam nói chung và các quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nói riêng trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Ngoài ra người viết chỉ tập trung
nghiên cứu thực tiễn áp dụng cũng như những thiếu sót, bất cập trong việc áp dụng
các quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Từ đó, có
thể đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng cũng như hoàn thiện
hơn những quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2.3 Ý nghĩa của đề tài
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

2

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

Thông qua những kết quả nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần hoàn thiện hơn
những quy định của pháp luật hình sự nói chung và pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng. Những đề xuất và giải pháp của đề tài sẽ có tính chất
tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng
củng như trên địa bàn cả nước nói chung. Góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nâng cao
tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.


3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lenin về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
duy vật biện chứng, phân tích, so sánh, tổng hợp ngoài ra đề tài tiểu luận còn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu tội phạm học như: Phương pháp thống kê
hình sự, phương pháp quan sát,…

4. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm có 02 chương chính như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2. Thực tiễn áp dụng luận hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng – Giải pháp hoàn thiện.

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

3

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để tìm hiểu khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước tiên cần phải làm rõ
khái niệm tội phạm. Bộ luật hình sự hiện hành định nghĩa về tội phạm như sau: Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự.2 Nhìn chung khái niệm tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam không
có nhiều thay đổi qua các thời kì. So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì khái niệm tội
phạm ở Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 ( sau đây gọi tắt là Bộ
luật hình sự năm 2015 ) có một số sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với tình hình
diễn biến tội phạm củng như phù hợp hơn với pháp luật quốc tế, cụ thể bổ sung
thêm chủ thể “ pháp nhân thương mại ”, thay cụm từ “ xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do ” thành cụm từ “ xâm phạm quyền con người ”,
thay cụm từ “tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân” thành cụm từ
“ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân ”, đồng thời bổ sung thêm cụm từ “ mà theo
2 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

4

SVTH: Phạm Vũ Khoa



Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự ”.
Như vậy, một hành vi được xem là tội phạm khi thỏa mãn các yếu tố sau:
Hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự,
người thực hiện hành vi phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, người thực
hiện hành vi phải là người có lỗi, xâm phạm đến quan hệ xã hội cụ thể được pháp
luật hình sự bảo vệ.
Đến thời điểm hiện tại trong những quy định của Bộ luật hình sự củng như các
văn bản quy phạm pháp luật khác của Nhà nước vẫn chưa có khái niệm cụ thể về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu các khái niệm này trong một
số tài liệu khoa học pháp lý. Do nằm trong nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu nên
trước hết tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn các đặc điểm chung của
nhóm tội xâm phạm sở hữu như sau: “ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và cá
nhân”3. Ngoài những đặc điểm chung nêu trên vì là một tội phạm độc lập nên tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn có một số đặc điểm riêng để phân biệt với các tội
khác trong Bộ luật hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự
năm 2015: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm 4. Từ đó có thể hiểu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng
thủ đoạn gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Người phạm
tội đã dùng thủ đoạn gian dối, có thể bằng lời nói hay hành động sai sự thật nhằm
mục đích khiến người có tài sản hoặc người trông giữ tài sản tin là sự thật và giao
tài sản cho người phạm tội.
Qua những phân tích, viện dẫn nêu trên người viết định nghĩa khái niệm tội


3 Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp.Hồ Chí Minh
4 Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

5

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm
nằm trong nhóm tội xâm phạm sỡ hữu được quy định trong Bộ luật hình sự, người
phạm tội dùng thủ đoạn gian dối, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác
có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm do người có
năng lực pháp luật hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu về
tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân”.

1.1.2. Đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Vì là một tội phạm độc lập được quy định trong Bộ luật hình sự tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có một số đặc điểm riêng để phân biệt với các tội khác trong Bộ
luật hình sự, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hành vi của người thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội, nghĩa là
người phạm tội xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ đoạn

gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Người phạm tội đã
dùng thủ đoạn gian dối, có thể bằng lời nói hay hành động sai sự thật nhằm mục
đích khiến người có tài sản hoặc người trông giữ tài sản tin là thật và giao tài sản
cho người phạm tội. Tuy nhiên cần lưu ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam ngoài tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có một số tội phạm khác củng có tình tiết dùng thủ
đoạn gian dối. Nếu hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt thì tùy từng
trường hợp cụ thể, mà người có hành vi gian dối bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội khác tương ứng nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội đó hoặc chỉ là quan hệ pháp luật
dân sự, hành chính, thương mại.
Thứ hai, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là người có năng lực
trách nhiệm hình sự. Tức là, người thực hiện hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản của người khác bắt buộc phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Bộ luật
hình sự cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật
Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự, mà chỉ
quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Cụ thể, Bộ luật hình sự
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

6

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

quy định về người không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự5”. Theo đó, một người hực hiện hành vi lừa
đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự khi người đó có năng lực trách nhiệm hình sự. Tức là người đó phải đủ tuổi

theo quy định Bộ luật hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi
của mình.
Thứ ba, Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên. Đây là tội
phạm cấu thành vật chất, vì vậy một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi
người đó lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên. Tuy nhiên
nếu người phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm thì mặc dù giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì
người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ tư, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có lỗi cố ý trực tiếp.
Theo Bộ luật hình sự năm 2015 lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hậu quả xảy ra 6. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người
phạm tội phải ý thức được rằng những thông tin mà mình đưa ra là hoàn toàn không
có thật, người phạm tội dùng những thủ đoạn cụ thể để khiến người khác tin vào
những thông tin mình đưa ra là sự thật, nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người
đó, ý định chiếm đoạt tài sản phải nảy sinh trước khi thực hiện hành vi lừa đảo.
Người phạm tội ý thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội
nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra. Đây chính là đặc điểm để phân biệt Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự.
Thứ năm, Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xâm phạm đến quyền sở
hữu của công dân. Như đã nói ở trên quyền tài sản của công dân là một trong những
quyền quan trọng nhất của công dân được pháp luật bảo vệ, được quy định tại Điều
5 Điều 21 Bộ luật hình sự 2015
6 Điều 10 Bộ luật hình sự 2015

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

7


SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

32 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015. Mọi hành vi xâm
phạm trái phép quyền sở hữu của công dân đều bị pháp luật nghiêm cấm, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015. Pháp luật
hình sự Việt Nam quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm, ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản
nào khác quy định tội phạm.

1.2. LỊCH SỬ LẬP PHÁP CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ
1.2.1. Giai đoạn trước Bộ luật hình sự năm 1985
Trong giai đoạn này nhiệm vụ chính của luật hình sự là trừng trị bọn Việt gian
phản động, góp phần vào công cuộc khán chiến chống giặc ngoại xâm và bảo vệ
thành quả cách mạng. Vì vậy ngay sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm
1945, Nhà nước ta đã có một số văn bản nhằm trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa. Đặc biệt là Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính
phủ về mộ số tội phạm trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của thông tư này là chỉ nêu được tội danh nhưng chưa
miêu tả một cách cụ thể hành vi phạm tội, gây khó khăn khi áp dụng vào thực tế. Để
khắc phục những thiếu sót đó, Nhà nước ta tiếp tục ban hành một số văn bản mới cụ
thể ngày 21/10/1970 Nhà nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới quy định về tội
xâm phạm sở hữu.
- Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa số 149-LCT ngày 23/10/1970
- Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân số 150 - LCT ngày 23/10/1970

Trong hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định với
hai tội danh cụ thể, tương ứng với hai hình thức sở hữu được quy định lúc đó là sở
hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản riêng của công dân. Về cơ bản hai tội
trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đang do
người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể bằng cách dùng mọi thủ đoạn như:
Giả mạo giấy tờ, giả danh cán bộ, tổ chức,...Làm cho người có tài sản hoặc người
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

8

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

quản lý tài sản tin là thật mà giao tài sản đó cho người phạm tội. Tuy nhiên vì những
hành vi trên có cùng tính chất nhưng lại tác động đến hai loại tài sản khác nhau đó
là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai
pháp lệnh khác nhau. Ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa được hiểu là một số hành vi gian dối cụ thể trong khi giao dịch, mua bán
với các cơ quan nhà nước hay hợp tác xã như dùng mánh khóe gian lận khi cân, đo,
đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà
nước hoặc hợp tác xã một cách bất hợp pháp. Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ quy định tôi phạm một cách khá chung
chung đó là: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản riêng của công
dân…" 7 trong khi những hành vi gian lận bằng cách: cân, đo, đong, đếm, đánh tráo
hàng…được tách ra để quy định thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh này là
"Tội gian lận để chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng"8.
Sau ngày 30/4/1975, ở miền Nam lúc này Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp tục ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày

15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Lúc này xảy ra một bất cập là ở hai miền Nam, Bắc tồn tại nhiều văn bản khác
nhau cùng điều chỉnh về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là hai Pháp lệnh
ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/2/1976. Tuy nhiên nếu xét về nội
dung thì Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/2/1976 còn rất nhiều thiếu xót khi chỉ nêu tội
danh mà không nêu cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm. Để thống nhất áp dụng
hai văn bản trên Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày
6/7/1977 hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật
đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với nội dung như sau: Ở miền
Bắc pháp lệnh ngày 21/10/1970 vẫn được áp dụng bình thường, ở miền Nam ngoài
việc áp dụng Sắc luật số 03 là chính thì có tham khảo thêm khoản tương ứng tại
Pháp lệnh ngày 21/10/1970 nhằm mục đích nắm rõ hơn các dấu hiệu tội phạm củng
như áp dụng các hình phạt hợp lý hơn9.
Như vậy, từ sau năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu
7 Khoản 1 Điều 9 pháp lệnh số 150-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970
8 Điều 10 pháp lệnh số 150-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970
9 Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối cao

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

9

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

lực, pháp luật hình sự Việt Nam đã có những quy định về tội phạm lừa đảo để chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên do có nhiều văn bản được ban hành và áp dụng ở hai miền
Nam, Bắc khác nhau nên không tránh khỏi những bất cập vướng mắc, nguyên tắc

pháp chế khó được thực hiện. Ngoài ra do đất nước mới thống nhất hệ thống chính
quyền còn non trẻ, khả năng lập pháp còn hạn chế nên các văn bản pháp lý còn
nhiều thiếu xót, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật khi áp dụng
vào thực tế. Vì vậy nhu cầu đặt ra là cần hoàn thiện hơn hệ thống văn bản pháp luật,
pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để đảm bảo tính thống
nhất, nâng cao hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm ở nước ta.

1.2.2. Giai đoạn từ Bộ luật hình sự năm 1985 đến năm 1999
Ngày 27/6/1985 Bộ luật hình sự được quốc hội khóa VI thông qua và có hiệu
lực vào ngày 1/1/1986 đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp Việt Nam,
lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta có một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh. Xét
về mặt nội dung, có thể xem Bộ luật hình sự 1985 là sự pháp điển hóa các văn bản
pháp lý được ban hành trước đó. Đồng thời mức độ hình phạt củng tăng nặng hơn
để phù hợp với tình hình diễn biến tội phạm củng như mức độ hành vi của tội phạm
ngày càng nghiêm trọng, các tình tiết định khung cũng được quy định hoàn thiện
hơn. Do trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta chủ yếu là nền kinh tế quốc doanh
và hợp tác xã, được quản lý theo hướng kế hoạch hóa tập trung từ trung ương đến
địa phương, vì vậy Bộ luật hình sự 1985 vẫn đề cao sở hữu nhà Nước và tập thể,
chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân. Hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn
được coi là nghiêm trọng hơn xâm hại sở hữu tư nhân nên được quy định ở một
chương riêng. Vì vậy Bộ luật này vẫn giữ nguyên sự phân chia giữa sở hữu xã hội
chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân, cụ thể tại chương IV là chương các tội xâm
phạm sở hữu Nhà nước và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Trên cơ
sở kế thừa và hoàn thiện các quy định của những văn bản trước đó Bộ luật hình sự
1985 vẫn chia lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành hai tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản xã hội chủ nghĩa tại Điều 134 và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân tại
Điều 157.
So với những văn bản pháp luật trước đó đặc biệt là hai pháp lệnh ngày
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu


10

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

21/10/1970, Bộ luật hình sự 1985 đã đạt được một bước tiến rõ rệt là đưa ra được
các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quy định rõ ràng hơn dấu
hiệu khách quan của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra Bộ luật hình sự năm 1985 còn trãi qua bốn lần sửa đổi bổ sung vào các
năm 1989, 1991, 1993 và 1997 nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp lý, đáp ứng
nhu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng. Cụ thể như sau: Lần sửa đổi thứ nhất năm 1989 Bộ luật
hình sự bổ sung vào Điều 134 và Điều 157 tình tiết "có tính chất chuyên nghiệp".
Ngoài ra trong quá trình áp dụng thực tiễn cho thấy có nhiều đối tượng khi phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã có hành vi phạm tội thông qua việc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan, tổ chức để dễ dàng tạo được niềm tin đối với nạn nhân, cùng với đó
là hậu quả của hành vi phạm tội gây ra ngày càng nghiêm trọng vượt xa những dự
liệu ban đầu của các nhà lập pháp. Do đó ở lần sữa đổi bổ sung năm 1993 đã có
những sửa đổi ở khoản 2 Điều 134 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa bằng việc thêm hai tình tiết định khung tăng nặng là Lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức và gây hậu quả nghiêm trọng. Trong lần sửa đổi năm 1997, Bộ luật
hình sự đã bổ sung thêm Điều 134a quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa
đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự bổ sung cho Bộ luật hình sự,
nhằm cá thể hóa tội phạm khi mà trong giai đoạn này xuất hiện nhiều tội phạm là
người có chức vụ lợi dụng quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của xã hội chủ
nghĩa.
Ngoài ra, điểm đáng chú ý trong giai đoạn này chính là việc mức hình phạt đã
được tăng lên. Ở lần sửa đổi năm 1991 Bộ luật hình sự Việt Nam đã nâng mức hình

phạt tối đa đối với tội phạm này lên mức tử hình. Cụ thể ở cả hai Điều 134 và Điều
157 đều tăng mức hình phạt tối đa ở khoản 3 từ tù có thời hạn lên mức chung thân
hoặc tử hình. Điều này xuất phát từ việc giai đoạn giữa những năm 80 của thế kỷ
trước, nước ta có những bước phát triển lớn trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình chuyển
đổi từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường cũng kéo theo nhiều hệ
lụy, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì vậy mà có những diễn biến khá phức tạp.

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

11

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

Việc tăng mức độ hình phạt để tội phạm phải trả giá tương ứng với những hành vi
mình gây ra và nhằm mục đích răn đe, hạn chế tội phạm.

1.2.3. Giai đoạn từ Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
Do chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới những tác động tích cực
của công cuộc cải cách, nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc, xuất hiện nhiều
hình thức sở hữu khác nhau bên cạnh sở hữu nhà nước. Vấn đề đặt ra lúc này là đòi
hỏi pháp luật phải có sự đối xử công bằng giữa các nền kinh tế, củng như các hình
thức sở hữu, do đó việc chia tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm tỏ ra không còn
phù hợp với tính chất của nền kinh tế thị trường. Bộ luật hình sự năm 1985 tuy đã
qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn duy trì hai chương về tội xâm phạm sở
hữu với hai hình thức sỡ hữu khác nhau là chương về các tội xâm phạm sở hữu xã

hội chủ nghĩa và chương về các tội xâm phạm sở hữu công dân. Việc phân chia
thành hai nhóm khác nhau dẫn đến một số bất cập nhất định vì khi phạm tội người
phạm tội thường chỉ quan tâm đến giá trị tài sản mà không quan tâm đến nguồn gốc
tài sản thuộc sở hữu nào, việc xác định tội danh trên cở sở ý thức chủ quan của
người phạm tội không mang tính khoa học, dễ gây oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm 10.
Do đó để phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta, củng như xu thế tội
phạm trong thời kì đổi mới nền kinh tế đất nước, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời
đã gộp hai chương lại với nhau thành một chương là “chương các tội xâm phạm sở
hữu” được quy định ở chương XIV Bộ luật này. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản củng được được quy định thống nhất ở một Điều luật duy nhất là Điều 139 với
bốn khung hình phạt chính và một khung hình phạt bổ sung.
Ngoài ra ở Bộ luật hình sự năm 1999 Yếu tố định lượng đã được sử dụng để
phân biệt giữa hành vi phạm tội lừa đảo và hành vi lừa đảo khác nhưng không cấu
thành tội phạm. Theo đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được lấy mức khởi điểm là
từ 500.000 đồng trở lên để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy theo giá trị
tài sản mà mức hình phạt có thể thay đổi theo các khung hình phạt khác nhau. Như
10 Bùi Tiến Dũng(2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

12

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

vậy, trong lần sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự lần này, nếu giá trị tài sản chiếm
đoạt từ 500.000 đồng trở lên thì được coi là tội phạm, dưới 500.000 đồng được xem

là vi phạm hành chính. Tuy nhiên, mức định lượng này không phải là tuyệt đối khi
mà giá trị tài sản mặc dù dưới 500.000 đồng nhưng người phạm tội lại thuộc một
trong những trường hợp đặc biệt được quy định trong Bộ luật hình sự củng bị coi là
tội phạm. Việc coi dấu hiệu định lượng là một căn cứ để phân biệt giữa tội phạm và
vi phạm hành chính nhằm chống sự lạm dụng của cơ quan tố tụng.
Sau nhiều năm thi hành, Bộ luật hình sự năm 1999 đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh, chính trị, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn có
những bất cập, trong đó điểm đáng lưu ý là Bộ luật hình sự năm 1999 chưa thể chế
hóa được những quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số
49/NQ-TW của Bộ Chính trị. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa đã đặt ra cho hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói
riêng phải là công cụ pháp lý nhằm thúc đẩy và bảo vệ cho sự phát triển vững chắc
của nền kinh tế.
Trước những yêu cầu đó, Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 đã ra đời
nhằm khắc phục những mặt thiếu xót của Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật hình sự
sửa đổi, bổ sung lần này đã nâng mức định lượng tối thiểu từ mức 500.000 đồng lên
2.000.000 đồng, loại bỏ hình phạt tử hình thay vào đó là hình phạt cao nhất của tội
này là tù chung thân. Điều này một lần nữa cho thấy pháp luật hình sự của nước ta
luôn có sự thay đổi và hoàn thiện để phù hợp hơn với tình hình phát kiển kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội của đất nước, củng như tình hình diễn biến tội phạm trong
nước, luôn muốn đấu tranh trừng trị tội phạm nhưng vẫn đặt giá trị nhân đạo lên
hàng đầu, hạn chế những hình phạt mang tính hà khắc với tội phạm. Tuy nhiên do
một số tác động từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự yếu kém trong công
tác quản lý Nhà nước mà tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản không nhừng phát
triển gia tăng về số vụ củng như mức độ ngày càng nghiêm trọng. Có rất nhiều ý
kiến cho rằng hình phạt chung thân là không đủ để răn đe, ngăn chặn tội phạm lừa
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu


13

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

đảo chiếm đoạt tài sản mà nên áp dụng trở lại hình phạt tử hình. Vì thực tế cho thấy
có rất nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra mà thiệt hại về tài sản lên đến hàng
nghìn tỷ đồng, không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn gây mất trật tự an toàn
xã hội, làm hoang mang dư luận của quần chúng nhân dân, tác động xấu đến nền
kinh tế của đất nước. Điều này lại một lần nữa đặt ra những vấn đền cho những nhà
lập pháp là làm thế nào để hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự vừa thể hiện tính
nhân đạo của nhà nước vừa đạt hiệu quả ngăn chặn loại tội phạm này.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 thay thế Bộ
luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
năm 1999, có thể xem đây là Bộ luật hình sự của thời kỳ đổi mới hiện nay. Về cơ
bản Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn được xây dựng trên cở sở kế thừa tinh thần của
những quy định trước đó. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có một số thay
đổi, bổ sung các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thuộc
trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng cụ thể như sau:
Khoản 1 Điều 174 bổ sung quy định Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm (điểm b khoản 1 Điều 174) quy định
này đã cụ thể hóa được các tội nào là tội liên quan đến chiếm đoạt tài sản mà ở Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định nhưng chưa rõ. Vì trong
Bộ luật hình sự có rất nhiều tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản, có
cùng các yếu tố cấu thành tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng rất dễ nhầm lẫn
và khó xác định được thế nào là “hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” 11
trong khi tiến hành các hoạt động tố tụng.

Thêm tình tiết Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội (điểm c
khoản 1 Điều 174), vì thực tế có nhiều hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với giá trị
không lớn nhưng bằng những thủ đoạn tinh vi, manh động tội phạm đã gây mất trật
tự, an toàn xã hội gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Nhưng các cơ quan
tiến hành tố tụng không thể xử lý vì giá trị tài sản bị chiếm đoạt thấp, không đủ căn
cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Tuy nhiên khi áp dụng tình tiết
này cần phải hết sức thận trọng bởi vì cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về
11 Khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

14

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

quy định này. Thế nào là ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội chủ yếu
được xác định trên cơ sở quan điểm chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Vì
vậy nếu không thận trọng các cơ quan tiến hành tố tụng rất dễ để xảy ra oan sai, bỏ
lọt tội phạm.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tình tiết Tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ ( điểm d khoản 1 Điều 174) quy định
này đã khắc phục được tình trạng khi định giá tài sản bị chiếm đoạt có giá trị thấp
nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng hậu quả của hành vi
phạm tội lại tác động lớn đấn đời sống của nạn nhân và gia đình vì là phương tiện
kiếm sống chính của họ. Ví dụ một người lừa đảo một chiếc xe của tài xế xe ôm khi
tiến hành giám định, định giá tài sản thì chiếc xe có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng do chiếc xe là phương tiện kiếm sống duy nhất của tài xế xe ôm nên có tác

động lớn đến gia đình củng như bản thân người bị hại. Việc bổ sung tình tiết này sẽ
xử lý triệt để những hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm đồng thời bảo vệ được
đời sống của nhân dân nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn trước những mối
đe dọa từ các hành vi vi phạm pháp luật của tội phạm.

1.3. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ VÀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.3.1. Các dấu hiệu pháp lý
1.3.1.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm nói chung là quan hệ xã hội cụ thể được luật hình sự
bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại và gây ra
hoặc có thể gây ra những thiệt hại đáng kể 12. Khách thể của tội phạm là một trong
bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Bất
cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được
luật hình sự bảo vệ. Các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ được nêu khái
quát chung tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, một tội phạm cụ thể có khách

12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

15

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng


thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Bất kỳ tội phạm cụ thể nào cũng
xâm phạm tới khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó,
khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
xâm hại tới khách thể chung là quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khách thể
loại của tội phạm là nhóm các quan hệ xã hội cùng hoặc gần tính chất được nhóm
các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm các tội phạm xâm hại, thường
được quy định thành một chương trong phần các tội phạm cụ thể. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản được quy định tại chương XVI của Bộ luật hình sự quy định về các tội
xâm phạm sở hữu. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể được
quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ và bị tội phạm cụ thể xâm hại và sự xâm
hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ
thể đó. Một tội phạm có thể xâm hại nhiều quan hệ xã hội khác nhau nhưng trong
đó chỉ có một hoặc một số quan hệ xã hội bị xâm hại có tính chất của khách thể trực
tiếp. Khách thể trực tiếp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài
sản, đây cũng là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm
hại. Đặc điểm khác nhau cơ bản nhất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số
tội xâm phạm sở hữa khác đó là tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là quan hệ
sở hữu tài sản. Khác với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều
khách thể khác nhau như tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản…vì các tội phạm này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm
tội còn nhằm đến khách thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự của người bị hại.
Bộ luật dân sự quy định Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó người sở hữu tài
sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản và phải được tôn trọng và bảo
vệ. Cá nhân, tổ chức xâm phạm trái phép đến quan hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật13. Đối tượng tác động của hành vi xâm phạm sở hữu là tài sản, bao
gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tuy nhiên không phải trong mọi
trường hợp quyền tài sản đều là đối tượng tác động của hành vi xâm phạm sở hữu,


13 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

16

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

mà tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất.
Cần phải lưu ý rằng một số tài sản đặc biệt như: rừng, tài nguyên khoáng sản,
các chất ma túy, vũ khí quân dụng không phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt
tài sản quy định tại điều này. Vì đây là những tài sản đặc biệt, có công dụng, tính
năng đặc biệt được pháp luật bảo vệ một cách nghiêm ngặc hơn nên sẽ là đối tượng
tác động của những hàng vi phạm tội khác được quy định trong Bộ luật hình sự
như: Tội chiếm đoạt chất ma túy Điều 252 Bộ luật hình sự, tội vi phạm các quy định
về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên Điều 227 Bộ luật hình sự.
1.3.1.2. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi
phạm tội. Theo pháp luật hình sự Việt Nam chủ thể của tội phạm phải là con người
hoặc pháp nhân thương mại cụ thể, và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tức là,
có đủ có đủ tuổi theo quy định của pháp luật và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ
thể. Trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành thì chủ thể của tội phạm chỉ
có thể là cá nhân, nhưng đến Bộ luật hình sự năm 2015 thì chủ thể của tội phạm
ngoài cá nhân ra còn có pháp nhân thương mại được quy định tại Điều 8, tuy nhiên
pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội được quy
định tại Chương XI (Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội) và
trong một số điều luật của tội phạm cụ thể.

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước hết cũng phải đáp ứng yêu cầu
về chủ thể của tội phạm của pháp luật hình sự. Theo đó cũng phải đáp ứng điều kiện
về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và về năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là hai dấu
hiệu bắt buộc phải có về chủ thể của mọi tội phạm.
Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi loại tội phạm. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm
2015, trong đó đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được liệt kê tại Điều
này. Vì vậy có thể hiểu chỉ người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

17

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Bộ luật hình sự không truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với người dưới 16 tuổi.
Người thực hiện hành vi phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự,
nghĩa là người đó nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Bộ luật hình sự
hiện hành không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ
quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, nếu như người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự mà họ
không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, thì họ đương nhiên
là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là “người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh

khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”.
Như vậy, chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả
năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả
năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tùy thuộc vào
từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự.
Liên quan đến việc nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình, ngoài mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác như đã đề cập trên, thì còn có trường hợp do trong
tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác. Theo quy định tại Điều 13
Bộ luật hình sự năm 2015 thì người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu
hoặc chất kích thích khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên
không có ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện
hành vi lừa đảo trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một số người được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao
theo quy định của điều ước quốc tế và Bộ luật hình sự.
1.3.1.3. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm nói chung được hiểu là những biểu hiện của tội
phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

18

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, thời gian, địa điểm phạm tội. Mặt khách

quan của tội phạm là yếu tố quan trọng trong xác định cấu thành tội phạm để định
tội, đồng thời giúp phân biệt cấu thành tội phạm này với cấu thành tội phạm khác.
Trong các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là
biểu hiện cơ bản và quan trọng nhất. Nếu không có hành vi khách quan thì không
thể nói đến các biểu hiện khách quan khác, hành vi khách quan là cầu nối giữa
khách thể và chủ thể, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Hành vi
khách qua được hiểu là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của con
người dưới những hình thức cụ thể, được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển dưới
dạng hành động hoặc không hành động. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện
nay, hành khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện dưới hai hành vi
thực tế là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hành vi lừa dối là hành vi có chủ đích của người phạm tội, nhằm
mục đích khiến cho người bị hại tin rằng những thông tin gian dối mà người phạm
tội đưa ra là sự thật và tự nguyện trao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người
phạm tội. Hành vi này rất đa dạng có thể là bằng hành động, bằng lời nói hoặc
những biểu hiện khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch biến không thành có,
biến ít thành nhiều,…nhằm phục vụ một mục đích cuối cùng đó là khiến cho người
bị hại tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội.
Thứ hai, người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản của người sở hữu tài sản, thông
qua việc người sở hữu tài sản tin vào những thông tin gian dối mà người phạm tội
đưa ra và tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Cho dù ngay sau đó người sở
hữu tài sản phát hiện ra hành vi lừa đảo, cung cấp thông tin sai lệch của người phạm
tội nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt vẫn dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn xử
lý về tội này. Cần lưu ý trường hợp mà khoa học luật hình sự Việt Nam gọi là các
trường hợp chuyển hóa tội phạm. Cụ thể nếu như người sở hữu tài sản phát hiện ra
hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội
tiếp tục dùng những thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản như dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực thì người phạm tội sẽ bị xử lý về tội phạm tương ứng khác.
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu


19

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

Nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm lẫn, không trao tài
sản và người phạm tội cũng không có hành động chiếm đoạt nào khác thì có thể
người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, nhưng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở
giai đoạn phạm tội chưa đạt. Trong trường hợp này, xét về mặt khách quan hành vi
gian dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội
biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật nhằm mục
đích chiếm đoạt tài sản của bị hại. Nếu người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối,
nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không đủ yếu tố để cấu thành
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà cấu thành một tội khác tương ứng với mục đích
phạm tội.
1.3.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Theo pháp luật hình sự Việt Nam mặt chủ quan của cấu thành tội phạm là mặt
bên trong của tội phạm, mặt chủ quan phản ánh tâm lý, thái độ của chủ thể tội phạm
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Tội phạm là
sự thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan, nếu mặt khách quan là toàn bộ
những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, thì ngược lại mặt chủ quan là
toàn bộ những diễn biến tâm lý bên trong của chủ thể lúc phạm tội. Chính mặt chủ
quan này thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện thái độ với hậu quả
của hành vi phạm tội, thúc đẩy chủ thể lựa chọn các công cụ, phương tiện, thủ đoạn
phạm tội… Do đó, mặt chủ quan bao giờ cũng luôn luôn gắn với mặt khách quan
của tội phạm, chỉ khi mặt chủ quan đó được thể hiện ra bên ngoài qua hành vi thì
mới cấu thành tội phạm. Nếu chưa được thể hiện ra bên ngoài thì đơn giản mới chỉ

là suy nghĩ trong đầu. Luật hình sự không truy cứu trách nhiệm một người đối với
suy nghĩ. Các dấu hiệu tâm lý bên trong của tội phạm bao gồm các yếu tố như: lỗi,
động cơ, mục đích phạm tội.
* Yếu tố lỗi
Yếu tố lỗi là yếu tố bắt buộc khi buộc tội người khác và là yếu tố cơ bản nhất
để cấu thành một tội phạm. Lỗi được hiểu là mặt tâm lý bên trong của mỗi con
người, được tạo thành từ hai yếu tố là lý trí và ý chí. Một người chỉ được xem là có
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

20

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

lỗi khi người đó nhận thức rõ tính chất của hành vi mình gây ra nhưng vẫn quyết
định thực hiện hành vi đó. Đó là sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi
chủ thể có điều kiện để lựa chọn một xử sự khác đúng đắn hơn
Bộ luật hình sự Việt Nam chỉ quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng
không quy định dấu hiệu lỗi của tội phạm. Tuy nhiên xét theo bản chất và tính chất
của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan của tội phạm được thể
hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản. Cụ thể như sau:
- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình gây ra là nguy
hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện. Nhận thức được những thủ đoạn mình
đưa ra là không đúng sự thật, nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm khiến người khác
tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản cho mình. Người phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa dối đã có ý thức chiếm đoạt tài sản của
người khác.
- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối xảy ra và đưa đến kết

quả là chiếm đoạt được tài sản của người khác.
*Động cơ, mục đích phạm tội
Bên cạnh lỗi, thì động cơ và mục đích phạm tội cũng là hai yếu tố quan trọng
của mặt khách quan.
Động cơ được hiểu là những động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành
vi có thể có nhiều động cơ khác nhau có thể là do tham lam, nhu cầu tiêu dùng cá
nhân, tư lợi hay lười lao động,…tuy nhiên đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
động cơ không có ý nghĩa trong việc định tội danh, mà chỉ có ý nghĩa trong việc
quyết định hình phạt.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác 14.
Mục đích này luôn luôn phải có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi, nếu

14 Bùi Tiến Dũng(2014), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

21

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

mục đích này xuất hiện sau thì có thể sẽ cấu thành một tội khác trong Bộ luật hình
sự. Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội có thể có những mục đích khác
cùng với mục đích chiếm đoạt hay chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng
phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.

1.3.2. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khái niệm hình phạt được nêu tại Điều 30 Bộ luật hình sự năm 2015, theo đó:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định
trong Bộ luật hình sự, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội, do Tòa án quyết định áp dụng.
Theo Điều 32 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hình phạt bao gồm
hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong đó hình phạt chính đối với cá nhân
phạm tội gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn,
tù chung thân, tử hình; riêng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm
tội gồm: Phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
hình phạt bổ sung đối với cá nhân phạm tội gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền
công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính, trục xuất
khi không áp dụng là hình phạt chính; hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương
mại phạm tội gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất
định, cấm huy động vốn, phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình
sự năm 2015 với bốn khung hình phạt chính và một khung hình phạt bổ sung cụ thể
như sau:
1.3.2.1. Khung hình phạt cơ bản (khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm
2015)
Đây là khung hình phạt giành cho hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mức ít
nghiêm trọng, khi xét xử Tòa án có thể xem xét lựa chọn giữa hai loại hình phạt là
cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu


22

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

sản có thể bị áp dụng hình phạt "cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
từ sáu tháng đến ba năm" khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng
Thứ hai: Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm.
Thứ ba: Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là
phương tiện kiếm sống chính của bị hại và gia đình. Đây là hai tình tiết mới được
bổ sung ở Bộ luật hình sự năm 2015
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự,
cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như
các căn cứ pháp lý khác để đưa ra hình phạt hợp lý. Nếu người phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt thì có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có ít hoặc không có tình
tiết giảm nhẹ thì tùy từng trường hợp cụ thể có thể áp dụng hình phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.
1.3.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất ( khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự
năm 2015)
Đây là khung hình phạt áp dụng cho tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở

mức nghiêm trọng, được quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015
“có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù” khi tội phạm có một trong các tình
tiết định khung tăng nặng sau:
a. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức
Theo quy định khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 phạm tội có tổ chức
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm. Như vậy có thể hiểu lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có
nhiều người cùng thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Giữa những người đồng
GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

23

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

phạm vừa có sự liên kết chặc chẽ với nhau vừa có sự phân công vai trò, nhiệm vụ,
với phương hướng hoạt động có tính lâu dài, bền vững. Trong nhóm tồn tại quan hệ
chỉ huy - phục tùng, có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp
sức. Tuy nhiên không bắt buộc có đầy đủ các người trên, trong một số trường hợp
chỉ cần có người tổ chức, người thực hành thì củng đủ yếu tố cấu thành hành vi
phạm tội có tổ chức.
b. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp
Là người phạm tội lấy việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh
sống của mình, người phạm tội phải thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhiều lần, lấy việc phạm tội là nguồn thu nhập chính và là phượng tiện sinh sống
của họ15. Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp, nhất thiết
người thực hành phải thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản nhiều lần, cụ
thể là từ năm lần trở lên. Tuy nhiên cần lưu ý không phải cứ thực hiện thủ đoạn gian

dối chiếm đoạt tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà
phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống của
người phạm tội hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm
tội là phương tiện sinh sống chủ yếu thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà
chỉ là phạm tội nhiều lần.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng
Việc xác định tội danh trong trường hợp này dựa trên giá trị tài sản bị chiếm
đoạt. Theo hướng dẫn tại mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP, Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường vào
thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì
phải trưng cầu giám định theo trình tự, thủ tục luật định.
Ví dụ: T là người nghiện cờ bạc, do thua hết tiền nên T nảy sinh ý định chiếm
đoạt tài sản của B để bán lấy tiền đánh bạc. Sáng ngày 12/2/2017 khi đang ngồi
uống nước trong quán của bà D thì T thấy anh B chạy chiếc xe Sh 150i đến đậu
trước quán. T liền nãy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của anh B nên nói với anh B
15 Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp.Hồ Chí Minh

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu

24

SVTH: Phạm Vũ Khoa


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng

rằng “anh cho em mượn xe đi mua thuốc hút một lát em quay lại trả anh liền”. Do là
người cùng xóm nên anh B đã đưa cho T mượn xe và để nguyên giấy tờ xe trong
cốp. Nhận được xe T chạy ngay đến tiệm cầm đồ để cầm chiếc xe với số tiền

20.000.000 đồng để đi đánh bạc. Sau đó anh B đã đi báo công an và T bị bắt, tại cơ
quan điều tra T khai nhận toàn bộ hành vi. Thông qua giám định Hội đồng định giá
tài sản kết luận chiếc xe Sh 150i của anh B trị giá 120.000.000 đồng. Như vậy T
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tai điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ
luật hình sự năm 2015.
d. Phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm
Đây là trường hợp “người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích lại phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo” theo quy định tại Khoản 3, 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015
hoặc “đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này” theo Khoản 2 Điều
53 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên cần lưu ý theo quy định tại nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nếu trường
hợp các tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”16 thì các tiền án đó không
được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo.
e. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức để phạm tội
Trong trường hợp này, người phạm tội đã lợi dụng chức vụ quyền hạn được
giao hoặc núp bóng một cơ quan, tổ chức nào đó để tạo niềm tin đối với bị hại
nhằm mục đích khiến cho người bị hại tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản
cho người phạm tội. Người phạm tội trong trường hợp này phải là người có chức
vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa của một tổ chức nào đó mà mình là thành
viên để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người khác.
f. Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “ Dùng thủ
đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên qua thực tế áp dụng có
thể hiểu “Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là trường hợp
16 Tiểu mục a mục 7.3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

GVHD: Trần Thị Ngọc Hiếu


25

SVTH: Phạm Vũ Khoa


×