Tải bản đầy đủ (.pdf) (240 trang)

Ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ mùi vị trong tiếng việt (có liên hệ với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 240 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ NGỮ CHỈ MÙI VỊ TRONG
TIẾNG VIỆT (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ NGỮ CHỈ MÙI VỊ TRONG
TIẾNG VIỆT (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH)

Ngành: Ngôn ngữ học

Mã số : 9229020

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Hùng Việt


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả khảo sát và miêu tả trong luận án này là trung thực và chƣa từng
đƣợc ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….......
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………..
. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu của uận án……………………….
. Đối tƣợng và phạm vi nghi n cứu của uận án………………………..
4. Phƣơng pháp uận và phƣơng pháp nghi n cứu của uận án………..
5. Đóng góp mới về khoa học của uận án……………………………….
6. Ý nghĩa í uận và thực tiễn của uận án………………………………
7. Cấu trúc của uận án………………………………………………......
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN……………………………………………………………….......
1. 1. Tổng quan tình hình nghi n cứu………………………………........
1.1.1. Tình hình nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trên thế giới……...
1.1.2. Tình hình nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị ở Việt Nam………
1. . Cơ sở í uận……………………………………………………….......
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học…………………………………………………

1.2.2. Cơ sở sinh lí học của hệ thần kinh cảm giác……………………….
1. . Tiểu kết………………………………………………………………..
Chƣơng ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ CẤU TRÚC NGHĨA CỦA
NHÓM TỪ NGỮ CHỈ MÙI, VỊ TRONG TIẾNG VIỆT (có i n hệ với
tiếng Anh)………………………………………………………………….
.1. Đặc điểm cấu tạo của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt
(có i n hệ với tiếng Anh) …………………………………………………
2.1.1. Từ đơn…..…………………….……………………………………..
2.1.2. Từ ghép………………………………………………………………
2.1.3. Từ láy..................................................................................................
2.1.4. Nhận xét.............................................................................................
2.1.5. Liên hệ với tiếng Anh……………………………………………….
2.1.6. Tương đồng và khác biệt trong cấu tạo từ chỉ mùi, vị tiếng Việt và
tiếng Anh…………………………………………………………………..
. . Cấu trúc nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt
(có i n hệ với tiếng Anh)………………………………………………….
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của cảm giác…………………….
2.2.2. Thành phần nghĩa trong cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ mùi, vị
trong tiếng Việt……………………………………………………………..
2.2.3. Liên hệ với tiếng Anh………………………………………………..
. . Tiểu kết………………………………………………………………...

1
1
2
3
4
5
5
6

6
7
7
12
17
17
34
37
39

39
39
43
51
52
56
62
67
67
68
86
90


Chƣơng NGHĨA VÀ HIỆN TƢỢNG CHUYỂN NGHĨA CỦA
NHÓM TỪ NGỮ CHỈ MÙI, VỊ TRONG TIẾNG VIỆT (có i n hệ với
tiếng Anh)…………………………………………………………..............
3.1. Nghĩa của nhóm từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt (có i n hệ với tiếng
Anh).....................................................................................................
3.1.1. Nghĩa của một số từ chỉ mùi trong tiếng Việt....................................

3.1.2. Liên hệ với tiếng Anh.........................................................................
3.1.3. Nghĩa của một số từ chỉ vị trong tiếng Việt.......................................
3.1.4. Liên hệ với tiếng Anh………………………………………………..
. . Hiện tƣợng chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng
Việt (có i n hệ với tiếng Anh).....................................................................
3.2.1. Về hiện tượng chuyển nghĩa..............................................................
3.2.2. Hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi trong tiếng
Việt.................................................................................................................
3.2.3. Hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ vị trong tiếng
Việt..................................................................................................................
. .4. Nhận xét……………………………………………………………..
. .5. Li n hệ với tiếng Anh……………………………………………….
3.2.6. Nhận xét……………………………………………………………..
. . Tiểu kết………………………………………………………………...
KẾT LUẬN...................................................................................................
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ ĐIỂN TRA CỨU
NGUỒN TƢ LIỆU TRÍCH DẪN
PHỤ LỤC

92

92
93
94
95
97
101

101
103
109
121
125
139
141
143


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

Bảng 2.1. Danh sách các từ đơn chỉ mùi, vị trong tiếng Việt
Bảng 2.2. Danh sách từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt
Bảng 2.3. Danh sách từ chỉ mùi, vị trong tiếng Anh

Bảng 3.1. Phạm vi chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng
Việt
Bảng 3.2. Phạm vi chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ mùi, vị trong tiếng Anh

Trang
42
56
62
124
141

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Hình 2.1. Sơ đồ cấu trúc từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt
Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc từ chỉ mùi trong tiếng Anh

Hình 2.3. Sơ đồ cấu trúc từ chỉ vị trong tiếng Anh
Hình 2.4. Mô hình cấu tạo từ ngữ chỉ vị trong tiếng Việt
Hình 2.5. Mô hình cấu tạo từ chỉ vị trong tiếng Anh
Hình 2.6. Thành tố nghĩa miêu tả trong cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ mùi
trong tiếng Việt
Hình 2.7. Thành tố nghĩa miêu tả trong cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ vị
trong tiếng Việt
Hình 2.8. Thành tố nghĩa đánh giá trong cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ vị
trong tiếng Việt
Hình 2.9. Thành tố nghĩa đánh giá trong cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ mùi
trong tiếng Việt
Hình 2.10. Cấu trúc nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi trong tiếng Việt
Hình 2.11. Cấu trúc nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ vị trong tiếng Việt
Hình 2.12. Cấu trúc nghĩa của từ ngọt trong tiếng Việt
Hình 2.13. Cấu trúc nghĩa của từ ngọt lịm trong tiếng Việt
Hình 2.14. Cấu trúc nghĩa của nhóm từ chỉ vị trong tiếng Anh
Hình 2.15. Cấu trúc nghĩa của nhóm từ chỉ mùi trong tiếng Anh
Hình 3.1. Sơ đồ chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi trong tiếng Việt
Hình 3.2. Sơ đồ chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ vị trong tiếng Việt

54
60
61
65
66
76
76
82
83
84

84
85
85
89
90
124
125


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mùi và vị là những thuộc tính rất đa dạng của sự vật đƣợc con ngƣời cảm
nhận thông qua hai giác quan là khứu giác và vị giác. Trong ngôn ngữ, từ ngữ
gắn với mùi và vị rất phong phú, tạo thành một trong những trƣờng từ vựng
mang tính phổ quát. Việc nghiên cứu các trƣờng từ vựng ngữ nghĩa mang tính
phổ quát hiện nay đƣợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm rất nhiều, tuy nhiên, bên
cạnh một số lĩnh vực đã đƣợc nghiên cứu khá kĩ nhƣ các nhóm từ chỉ phƣơng
hƣớng, tình cảm, màu sắc,... thì trƣờng từ vựng ngữ nghĩa các từ ngữ chỉ mùi, vị
vẫn chƣa đƣợc quan tâm, nghiên cứu một cách thoả đáng.
Đối với tiếng Việt, tuy đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về các
từ ngữ chỉ mùi, vị, nhƣng chƣa có chuyên khảo nào cũng nhƣ chƣa có luận án
tiến sĩ nào đi sâu nghiên cứu về lớp từ ngữ này.
Mùi, vị rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày của con ngƣời và để biểu
thị cảm nhận về mùi, vị với mọi mức độ, sắc thái, tiếng Việt đã có lớp từ ngữ rất
đa dạng và phong phú. Tuy nhiên có một thực tế là, việc phản ánh lớp từ này
trong các cuốn Từ điển tiếng Việt còn rất hạn chế. Ở đấy mới chỉ đƣa vào các từ
ngữ chỉ mùi, vị cơ bản và việc giải thích nghĩa cũng chƣa phản ánh hết đƣợc sự
đa dạng trong việc con ngƣời dùng cái cảm nhận về mùi, vị để biểu thị những
liên tƣởng khác trong cuộc sống. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu ngữ nghĩa từ ngữ
chỉ mùi, vị, các nhà nghiên cứu đều nhận định rằng đây là nhóm từ có cấu trúc

nghĩa ―đơn giản đến mức hầu nhƣ không thể phân tích ra đƣợc…‖ và các nhà từ
điển học thƣờng giải thích nghĩa theo lối trực quan (chỉ dẫn). Luận án nhận thấy
rằng, tuy cấu trúc nghĩa đơn giản nhƣng nhóm từ này có cấu trúc với các thành
tố nghĩa đặc trƣng, không chỉ đối với các từ chỉ mùi, vị cơ bản mà còn với các
lớp từ chỉ mùi, vị khác (từ chỉ mùi, vị với nghĩa khái quát, từ chỉ mức độ của

1


mùi, vị, từ ghép chỉ mùi, vị, từ láy chỉ mùi, vị…). Việc làm rõ các thành phần
trong cấu trúc nghĩa của từng lớp từ chỉ mùi, vị là một yêu cầu cần thiết đặt ra
đối với luận án.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi nhận thấy rằng, việc nghiên cứu một
cách toàn diện về ngữ nghĩa của lớp từ ngữ này trong tiếng Việt là nhiệm vụ cần
thiết. Bên cạnh đó, do trƣờng từ vựng ngữ nghĩa các từ ngữ chỉ mùi, vị trong
ngôn ngữ là phổ quát, nên cùng với việc khảo sát đặc trƣng ngữ nghĩa của các từ
chỉ mùi, vị trong tiếng Việt, việc liên hệ với các từ chỉ mùi, vị tƣơng đƣơng trong
tiếng Anh để tìm ra những nét tƣơng đồng và khác biệt về nghĩa, cấu trúc nghĩa
và sự cảm nhận về nhóm từ này trong hai ngôn ngữ cũng là một yêu cầu đặt ra.
Do đó, chúng tôi chọn vấn đề ‖Ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ mùi vị trong tiếng
Việt (có liên hệ với tiếng Anh) làm đề tài cho luận án của mình.
. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu của uận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án: Làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa, cấu trúc nghĩa và các
hƣớng chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt, có liên hệ với
tiếng Anh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, luận án tập trung
giải quyết những nhiệm vụ cụ thể nhƣ sau:
- Hệ thống hóa những nghiên cứu về từ ngữ chỉ mùi, vị của các tác giả ở

trong và ngoài nƣớc.
- Xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu gồm các vấn đề: lí thuyết về
nghĩa của từ, trƣờng ngữ nghĩa, cấu trúc nghĩa của từ, phƣơng thức chuyển nghĩa
của từ,…
- Xác lập danh sách từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt.

2


- Nhận diện, miêu tả và làm rõ các thành tố nghĩa trong cấu trúc nghĩa của
nhóm từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt, có liên hệ với tiếng Anh.
- Khảo sát và nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và hiện
tƣợng chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt (có liên hệ với
tiếng Anh) nhằm tìm ra đặc trƣng ngữ nghĩa và cách thức chuyển nghĩa trong
quá trình sử dụng của chúng trong hai ngôn ngữ.
. Đối tƣợng và phạm vi nghi n cứu của uận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là các từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng
Việt. Bên cạnh đó, luận án cũng xem xét các từ chỉ ngữ chỉ mùi, vị tƣơng ứng
trong tiếng Anh để tìm ra những tƣơng đồng và khác biệt về cách cảm nhận về
mùi, vị trong cộng đồng sử dụng hai ngôn ngữ.
Đối với các từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt, luận án chỉ thu thập các đơn vị
tự thân biểu thị mùi, vị nào đó trong cuộc sống qua liên hệ với vật đại diện
(chua, mặn, đắng, thối, thơm,...), biểu thị mức độ của mùi, vị (chua loét, đắng
ngắt, nhạt toẹt, thối inh, thơm lừng,...), hay biểu thị nghĩa khái quát của mùi, vị
(chua cay, mặn ngọt, ngọt bùi, hôi tanh, hôi thối, khê khú,…). Các kết hợp chỉ
mùi, vị nhƣ hương chanh, hương bưởi, vị dâu, vị cam, mùi chuột chết,...không
thuộc đối tƣợng nghiên cứu của luận án bởi đây chỉ là kết hợp trong sử dụng,
không phải đơn vị ngôn ngữ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa (đặc điểm cấu tạo, cấu trúc nghĩa,
hiện tƣợng chuyển nghĩa) của các từ ngữ chỉ mùi, vị trong trong tiếng Việt và có
liên hệ với tiếng Anh.

3


Về phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:
Luận án chủ yếu khảo sát ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ mùi, vị tiếng Việt
xuất hiện trong các cuốn Từ điển tiếng Việt đƣợc coi là có giá trị xuất bản trong
thời gian qua và các từ ngữ chỉ mùi, vị (kèm với ngữ cảnh sử dụng) xuất hiện
trên sách báo, các trang mạng và đặc biệt là trong kho cơ sở dữ liệu tiếng Việt
của Phòng Từ điển Ngữ văn, Viện Từ điển học và Bách khoa thƣ Việt Nam (kho
phiếu tƣ liệu khoảng 3 triệu phiếu và ngân hàng dữ liệu trên máy tính, khoảng 30
triệu âm tiết, đƣợc khai thác trên phần mềm tra cứu và thƣờng xuyên cập nhật dữ
liệu mới). Để xác định từ chỉ mùi, vị nào (đặc biệt là các kết hợp giữa từ chỉ mùi,
vị cơ bản với các yếu tố cấu tạo biểu thị sắc thái, mức độ của mùi, vị) là đối
tƣợng nghiên cứu và cách dùng nào đƣợc coi là nghĩa, luận án áp dụng nguyên
tắc thông dụng và ổn định của việc lựa chọn mục từ và xách định nghĩa trong
biên soạn từ điển giải thích, là: từ (mục từ) đó phải xuất hiện ít nhất trong 5 ngữ
cảnh khác nhau của các tác giả khác nhau và nghĩa đó cũng xuất hiện trong ít
nhất 5 ngữ cảnh khác nhau với các kết hợp khác nhau.
Tƣ liệu tiếng Anh dùng để liên hệ đƣợc thu thập một số cuốn từ điển giải
thích

tiếng

Anh,

các


ấn

phẩm

tiếng

Anh

tại

trang

web

và đặc biệt là từ kho ngôn ngữ khối liệu Anh
(British National Corpus) tại website />4. Phƣơng pháp uận và phƣơng pháp nghi n cứu của uận án
- Phƣơng pháp miêu tả: phƣơng pháp này dùng để miêu tả đặc điểm cấu
tạo từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt và tiếng Anh. Phƣơng pháp này cũng
dùng để phân tích nghĩa của từ chỉ mùi, vị nhằm chỉ ra nghĩa gốc, nghĩa phái
sinh và con đƣờng chuyển nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt và liên hệ với
tiếng Anh.

4


- Phƣơng pháp phân tích thành tố nghĩa: phƣơng pháp này dùng để phân
tích cấu trúc nghĩa của từ chỉ mùi, vị nhằm chỉ ra các thành tố trong cấu trúc
nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt và tiếng Anh.
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để xác

định đƣợc những điểm tƣơng đồng và khác biệt về cấu tạo, cấu trúc nghĩa, về
nghĩa và hiện tƣợng chuyển nghĩa chuyển của các từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng
Việt và tiếng Anh.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: thủ pháp này đƣợc sử dụng để thống kê
lƣợng từ ngữ, phân loại nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt và tiếng Anh
thành các tiểu nhóm, phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của uận án
Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu về ngữ nghĩa
của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt và có liên hệ với tiếng Anh. Luận
án chỉ ra: đặc điểm cấu tạo gồm có từ đơn, từ ghép và từ láy, đặc điểm cấu trúc
nghĩa gồm hai thành tố nghĩa cơ bản là thành tố nghĩa miêu tả và thành tố nghĩa
đánh giá và phƣơng thức chuyển nghĩa ẩn dụ theo nét nghĩa phạm trù.
Luận án liên hệ với tiếng Anh về đặc điểm cấu tạo, cấu trúc nghĩa và
phƣơng thức chuyển nghĩa để chỉ ra những tƣơng đồng và khác biệt trong hai
ngôn ngữ và đƣa ra một số nhận xét về việc tri nhận về mùi, vị trong hai cộng
đồng ngôn ngữ.
6. Ý nghĩa í uận và thực tiễn của uận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án góp phần làm rõ thêm những biểu hiện cụ thể về một số vấn đề lí
thuyết của ngôn ngữ học nhƣ: nghĩa của từ, trƣờng nghĩa, cấu trúc nghĩa của từ,
hiện tƣợng chuyển nghĩa của từ. Bên cạnh đó, luận án cũng làm rõ quan niệm về
từ chỉ mùi, vị và đƣa ra các tiêu chí để xác định và phân loại nhóm từ ngữ này.

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là những đóng góp thiết thực trong
công việc biên soạn nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị tiếng Việt trong các từ điển giải
thích (với tƣ liệu hơn 1000 ngữ cảnh, sắp xếp theo từng từ chỉ mùi, vị cụ thể và

theo sự phát triển từ nghĩa đen đến nghĩa chuyển), cụ thể nhƣ: bổ sung mục từ,
xác lập các nghĩa trong lời giải nghĩa và xác định phƣơng pháp định nghĩa của
từng tiểu nhóm. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu về ngữ nghĩa của nhóm từ này
giúp cho ngƣời học tiếng Việt và tiếng Anh hiểu rõ hơn về những nét tƣơng đồng
và khác biệt trong cách cảm nhận về mùi, vị trong văn hoá ngƣời Việt và ngƣời
Anh.
7. Cấu trúc của uận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu tạo và cấu trúc nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi,
vị trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh)
Chƣơng 3: Nghĩa và hiện tƣợng chuyển nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị
trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh)

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghi n cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị trên thế giới
Trên thế giới, việc nghiên cứu về các từ chỉ mùi, vị so với các lĩnh vực
khác chƣa đƣợc toàn diện và phong phú. Tuy nhiên, cũng đã có một số công
trình nghiên cứu về mùi, vị của các nhà sinh lý học, tâm lý học, triết học, ngôn
ngữ học và các chuyên gia về thực phẩm…. Các công trình nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào những vấn đề nhƣ việc cảm nhận mùi, vị, vốn từ vựng chỉ mùi, vị,
từ nguyên của mùi, vị, vai trò của khứu giác, … của một tộc ngƣời, một dân tộc
hay giữa các nền văn hóa với nhau. Có thể khái quát các công trình nghiên cứu
về từ ngữ chỉ mùi, vị theo một số hƣớng nhƣ sau.
1.1.1.1. Hướng nghiên cứu về từ vựng

Có một thực tế là, trong văn hóa phƣơng Tây, khả năng nhìn thƣờng đƣợc
coi là giác quan quan trọng nhất và có mối liên hệ chặt chẽ nhất với lẽ phải.
Trong tác phẩm ―Visual Thinking‖, nhà tâm lý học Rudolf Arnheim [101, tr.18]
biện luận rằng không có phân chia giữa việc nhìn và việc suy nghĩ. Đối với mùi
và vị, ―một người có thể thưởng thức các mùi và các vị nhưng lại khó có thể nghĩ
về chúng‖.
Về khứu giác, trƣớc đây các nhà triết học [dẫn theo 118, tr.3] thƣờng xem
nhẹ và đánh giá thấp. Plato và Aristotle nhấn mạnh rằng khoái cảm (pleasures)
mà khứu giác mang lại không trong lành (pure) và cao cả (noble) bằng những
thứ mà chúng ta nhìn và nghe. Descartes coi khứu giác là thô tục, thiếu tế nhị.
Kant nghĩ rằng đó là một giác quan bất nhã và kém phát triển nhất.
Schopenhauer coi đó là một giác quan bậc dƣới (thấp kém). Hegel loại khứu giác
ra khỏi phạm trù mĩ học (aesthetics) của tác giả.

7


Để lí giải cho sự xem nhẹ khứu giác này, Annick Le Guérer [118, tr.3] chỉ
ra một số nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do sự khan hiếm của lớp từ
vựng chỉ mùi. Bên cạnh đó, việc mô tả chính xác mùi nhƣ thế nào cũng gặp phải
rất nhiều khó khăn và chỉ có thể diễn đạt mùi bằng cảm giác hài lòng hay không
hài lòng. Henning nói: ―Tưởng tượng ra mùi là điều không thể‖ [dẫn theo [118,
tr.3]). Simmel cũng nhấn mạnh: ―Khó khăn trong việc diễn tả những ấn tượng về
mùi thành các từ cao hơn rất nhiều lần diễn tả những ấn tượng của nghe và
nhìn. Chúng không thể được phóng chiếu dựa trên một thang độ tưởng tượng
nào‖ [dẫn theo 118, tr.3].
(i) Mô tả về các vị
Maeda [dẫn theo 102, tr.10] tiến hành mô tả về thuật ngữ chỉ vị trong
tiếng Hàn hiện đại, dựa trên điều tra ngôn ngữ học với những ngƣời cấp tin
(informants). Maeda nhận thấy rằng, những từ ngữ chỉ vị trong tiếng Hàn rất

phong phú và tập trung vào bảy tính chất ngọt (sweet), chua (sour), mặn (salty),
mặn vừa phải (appropriately salty), đắng (bitter), cay (hot) và astringent (chát).
(ii) Nghiên cứu về từ nguyên của các từ chỉ mùi, vị và mối liên hệ giữa từ
chỉ mùi, vị với đời sống
Constance Classen [105, tr.71-73] trong tác phẩm ―Thế giới của giác
quan‖ (Worlds of Sense) chỉ ra rằng các giác quan mà ngày nay thƣờng đƣợc coi
là ―thấp‖ hoặc ―thú tính‖ đã từng gắn liền với trí tuệ. Một số từ chỉ vị giác và
khứu giác có mối liên hệ với sự khôn ngoan, và mối liên hệ đó vẫn đƣợc thấy
trong một số từ có nguồn gốc La tinh đƣợc giữ lại trong tiếng Anh. Các từ tiếng
Anh nhƣ sagacious (sắc sảo) và sage (chín chắn) đều ám chỉ đến trí thông minh
và đƣợc dựa trên các từ La tinh có nghĩa là ―có một vị giác tốt‖. Tƣơng tự nhƣ
vậy, từ sapient (nghĩa là khôn ngoan) vốn xuất phát từ tiếng La tinh nói về vị
giác. Cụm từ Homo sapien (ngƣời Homo khôn khéo) có nghĩa là “người đàn ông
nếm‖ hay ―người đàn ông biết‖.

8


Pandya [125] nghiên cứu mối liên quan giữa từ chỉ mùi với cuộc sống của
cộng đồng ngƣời Ongee (những ngƣời săn bắn và hái lƣợm ở đảo Little Andama
trên vịnh Bengal). Theo tác giả, trong đời sống của ngƣời Ongee, mùi đánh dấu
quá trình sinh ra, trƣởng thành và mất đi của mỗi ngƣời. Một trẻ sơ sinh đƣợc
cho là sở hữu một chút hƣơng thơm, càng lớn lên thì sức mạnh về khứu giác
càng phát triển. Khi chết đi, ngƣời không còn có mùi và trở thành một linh hồn
vô cơ. Do vậy, từ của Ongee dùng cho sự trƣởng thành - genekula, có nghĩa là
một quá trình của mùi. Bên cạnh đó, cuộc sống của ngƣời Ongee chủ yếu dựa
vào săn bắn. Họ tìm kiếm động vật để giết chúng bằng cách giải phóng mùi
hƣơng của chúng, và cùng thời điểm đó họ cố gắng che giấu mùi riêng của mình
khỏi các loài động vật họ săn đƣợc lẫn các linh hồn săn họ. Do vậy, để nói về
hành động săn bắn, ngƣời Ongee dùng từ gitekwabe, có nghĩa là ―giải phóng mùi

mà gây ra dòng chảy của cái chết‖. Thợ săn là gayekwabe, có nghĩa ―một người
có mùi gắn chặt với bản thân anh ta‖.
Một số công trình ngôn ngữ học và nhân chủng học ở Nhật [dẫn theo 102,
tr.9] tập trung vào nghiên cứu các thuật ngữ về vị của ngôn ngữ toàn dân và
phƣơng ngữ Nhật nhằm xác định sự liên quan giữa những biến đổi về mặt địa lí
với các thuật ngữ chỉ vị ngọt, mặn, cay, chua và ngon (Linguistic Atlas of
Japan).
(iii) Nghiên cứu về mối liên quan giữa vốn từ chỉ mùi, vị với nền văn hóa
của cộng đồng bản ngữ
Doty [109] khi nghiên cứu mối liên hệ giữa vốn từ chỉ mùi, vị với văn hóa
kết luận rằng không có tƣơng ứng về sự đa dạng của văn hóa và tiến bộ của khoa
học kĩ thuật với các từ chỉ mùi, vị trong các ngôn ngữ. Tiếng Anh có bốn từ chỉ
vị, tiếng Nhật có năm từ chỉ vị, nhƣng trong ngôn ngữ Weyewa của Sumba (một
nhánh ngôn ngữ Austronesian của Sumba đông Indonesia) có bảy từ chỉ vị.
Ngôn ngữ Sereer Ndut của Senegal chỉ có ba cụm từ chỉ vị nhƣng lại có năm
cụm từ về mùi. Đây là con số đáng kể so với tiếng Anh (ngôn ngữ chỉ có hai

9


nhóm từ chỉ mùi). Tuy nhiên nổi trội hơn cả là tiếng Borodo của ngƣời Brazil,
ngôn ngữ có đến tám từ chỉ mùi, hay ngôn ngữ Kapsiki của ngƣời Cameroon, có
hẳn mƣời bốn từ chỉ mùi.
Kuipers [116, tr.111-125] cũng lấy đối tƣợng nghiên cứu của mình là từ
chỉ vị trong trong tiếng Weyewa. Tác giả đƣa ra danh sách từ chỉ vị trong tiếng
Weyewa gồm 7 từ: sour (chua), sweet (ngọt), salty (mặn ), bitter (đắng), tart
(chua chua), pungent (gắt) và bland (nhạt) và nhận thấy, trong bối cảnh nghi lễ
dân gian, từ chỉ vị bitter (đắng) và bland (nhạt) thƣờng xuất hiện với nghĩa đối
nghịch. Bitter (đắng ) có nghĩa là cấm trong khi bland (nhạt) có nghĩa là cho
phép.

(iii) Nghiên cứu về cách biểu đạt về mùi, vị
O‘Mahony và các đồng nghiệp [122], [123], [124] nghiên cứu cách biểu
đạt về vị trong tiếng Anh và các thứ tiếng khác. Kết quả cho thấy, trong tiếng
Malaisia, khi miêu tả dung dịch muối, ngƣời ta thƣờng hay sử dụng những cách
biểu đạt phức tạp nhƣ masin ayear laut (mặn nhƣ nƣớc biển), masin garam
(mặn nhƣ muối), masin kitchup (mặn nhƣ nƣớc tƣơng) và masin maungm (mặn,
khó chịu) trong việc phân biệt các vị (mặc dù masin (mặn) vẫn thƣờng hay đƣợc
dùng một mình). Cách biểu đạt trên cũng có trong vị khác, nhƣ manis buah (ngọt
nhƣ trái cây) và manis gula (ngọt nhƣ đƣờng). Trong khi đó, để biểu thị vị mặn,
tiếng Anh dùng từ chung salty (mặn), không có các kết hợp biểu thị cách cảm
nhận khác nhau về vị mặn nhƣ tiếng Malaisia.
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu về ngữ nghĩa
Bên cạnh những nghiên cứu về từ vựng chỉ khứu giác và vị giác của các
dân tộc, cũng đã có một vài nghiên cứu về nghĩa của của các từ chỉ mùi, vị cụ thể
trong các ngôn ngữ.
Backhouse [102] xem xét và mô tả nghĩa của các từ chỉ vị trong tiếng
Nhật gồm ý nghĩa nội tại (nội ngữ), ý nghĩa bên ngoài (ngoại ngữ), nghĩa cơ bản

10


– nghĩa mở rộng và các yếu tố phong cách (liên quan đến quan hệ xã hội của
những ngƣời tham gia tƣơng tác, và phƣơng tiện và hình thức giao tiếp đƣợc sử
dụng).
Hasegawa [111] so sánh ngữ nghĩa giữa từ amai trong tiếng Nhật và từ
sweet trong tiếng Anh. Có một điểm chung giữa amai và sweet là nghĩa của
chúng đều đƣợc mở rộng từ vị giác đến các giác quan khác. Điểm khác biệt đáng
chú ý nhất mà tác giả chỉ ra trong bài viết của mình là trong khi các ý nghĩa của
từ sweet đều liên tƣởng đến cảm giác dễ chịu, mang tính nghĩa tích cực thì amai
lại biểu thị một số nghĩa ở trạng thái tiêu cực. Chẳng hạn nhƣ amai ngụ ý ―nguy

hiểm núp đằng sau cảm giác dễ chịu‖ trong amai kotoba ‗từ ngữ tán tỉnh‘ hay
amai hanashi ‗câu chuyện phỉnh gạt‘. Amai cũng biểu thị sự không toàn vẹn,
đầy đủ trong cụm từ neji ga amai ‗một cái vít lỏng, chƣa đƣợc vặn chặt‘ hay
cách thể hiện tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của con ngƣời (ko ni amai
oya: bố mẹ dễ dãi, nuông chiều những đứa con của họ, seito ni amai sensi: giáo
viên không nghiêm khắc với sinh viên). Tác giả cũng lí giải cho sự khác biệt này
dựa vào văn hóa của ngƣời Nhật. Trong xã hội Nhật Bản, amai foods chỉ dành
cho phụ nữ và trẻ em, còn đàn ông thì thích chất có cồn. Nhiều ngƣời trƣởng
thành Nhật Bản cũng thích thức ăn hay những thứ có vị đắng. Ngƣời Nhật bản
cảm nhận đƣợc vị ngon của nội tạng cá hồi, cá thu đao, bào ngƣ. Những thức ăn
có vị đắng này rất hợp với rƣợu sake. Thêm vào đó, nhƣ câu thành ngữ ‗Ryoyaku
ha kuchi ninigashi’ (thuốc đắng dã tật) đã nói thì có nghĩa rằng những thứ có lợi
cho sức khỏe thì thƣờng không mang lại cảm giác dễ chịu. Ngƣời Nhật cũng tin
rằng những thức ăn mang lại cho cơ thể sự dễ chịu thƣờng làm hại cơ thể và não.
1.1.1.3. Hướng nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận
Zhang Xiangheng [132] so sánh đối chiếu các ẩn dụ về vị trong tiếng Anh
và tiếng Trung Quốc. Theo đó, tác giả chỉ ra một số ẩn dụ giống nhau giữa hai
ngôn ngữ nhƣ: PLEASANT IS SWEET (HÀI LÕNG LÀ NGỌT),
UNPLEASANT IS BITTER (KHÔNG HÀI LÕNG LÀ ĐẮNG), SATIRICAL

11


IS PEPPERY (CHÂM BIẾM LÀ CAY), JEALOUSY IS SOUR (GHEN TỊ LÀ
CHUA). Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những khác biệt trong việc ý niệm hóa
các vị. Chẳng hạn vị chua (sour) trong tiếng Trung Quốc đƣợc phóng chiếu qua
các ẩn dụ ý niệm nhƣ: SOUR IS SAD AND SORROW (CHUA LÀ BUỒN VÀ
ĐAU KHỔ), SOUR IS PEDANTIC (CHUA LÀ LÀM RA VẺ THÔNG THÁI).
Trong khi đó, vị chua trong tiếng Anh đƣợc thể hiện qua các ẩn dụ ý niệm:
SOUR IS GLOOMINESS AND MOODINESS (CHUA LÀ U SẦU VÀ BUỒN

CHÁN), SOUR IS UNPLEASANT THINGS AND NOT HARMONIOUS
SOUNDS (CHUA LÀ NHỮNG THỨ KHÓ CHỊU VÀ NHỮNG ÂM THANH
KHÔNG ÊM ÁI) và SOUR IS WORSENING RELATIONSHIP AND
SITUATION (CHUA LÀ MỐI QUAN HỆ VÀ TÌNH THẾ ĐANG TỒI TỆ).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ mùi, vị ở Việt Nam
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu về nghĩa và sự chuyển nghĩa
Có một số bài nghiên cứu về nhóm từ này trong tiếng Việt. Đảo Thản
[68], qua tƣ liệu ghi chép đã mang đến một bức tranh tƣơng đối đầy đủ về nghĩa
của ngọt, từ nghĩa gốc đến nghĩa phái sinh. Tuy nhiên, do sự hạn chế về mặt tƣ
liệu, tác giả chƣa thống kê hết đƣợc các kết hợp biểu thị mức độ, sắc thái khác
nhau của vị ngọt, nhƣ: ngọt khé, ngọt lịm, ngọt thanh, ngọt dịu…. và cũng chƣa
có đƣợc một cái nhìn toàn diện và chính xác về nghĩa của từ ngọt.
Đỗ Hữu Châu khi bàn về phƣơng thức chuyển nghĩa ẩn dụ cũng đã chú ý
đến nhóm từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt. Tác giả viết: ―Trong những ẩn dụ kết
quả, có một loại đáng đƣợc chú ý đặc biệt, đó là những ẩn dụ dùng tên gọi của
những cảm giác thuộc giác quan này để gọi tên những cảm giác của giác quan
khác hay những ‗cảm giác‘ của trí tuệ, tình cảm. Và để minh họa cho phần nhận
xét trên, tác giả chỉ ra rõ: ―Nhƣ ‗chua‘, ‗ngọt‘, ‗mặn‘, ‗cay‘, ‗chát‘… là những
cảm giác vị giác đƣợc dùng để gọi cảm giác thính giác ‗nói chua loét‘, ‗lời nói
ngọt ngào‘, ‗pha trò nhạt quá‘, ‗nói cay quá‘…hay cảm giác thị giác ‗màu đỏ rất
nhạt‘. Các cảm giác xúc giác nhƣ ‗nặng‘, ‗nhẹ‘, ‗êm‘… cảm giác khứu giác
12


‗thối‘… đƣợc dùng cho các cảm giác thính giác, thị giác nhƣ ‗Tiếng nói vùng
biển rất nặng‘, ‗nhẹ giọng chứ‘, ‗màu xanh rất nhẹ‘, ‗hát rất êm‘, ‗nói thối quá,
không ngửi đƣợc‘‖ [8, tr.159-160].
Bùi Minh Toán [82] có cái nhìn khái quát hơn về các từ chỉ mùi, vị trong
truyện Kiều. Theo thống kê của tác giả, có 18 từ chỉ mùi, vị xuất hiện trong 91
câu trong tổng số 3.254 câu thơ và đƣợc chia làm hai tiểu trƣờng: tiểu trƣờng tên

gọi mùi, vị cụ thể: thơm, hôi tanh, đắng, cay, cay đắng (đắng cay),mặn, lạt
(nhạt), mặn mà, mặn nồng, ngọt, ngọt bùi, ngọt ngào, chua, chua xót, nồng và
tiểu trƣờng tên gọi khái quát: mùi, hơi, hương. Các từ này trong Truyện Kiều chủ
yếu đƣợc dùng với nghĩa chuyển, phần lớn theo phép ẩn dụ để thể hiện những
đặc điểm, tính chất có thể thuộc dáng vẻ, lời nói bên ngoài của con người,
nhưng phần lớn là thuộc trạng thái nội tâm hay thuộc về cuộc sống của cả một
đời người.
Hoàng Thị Ái Vân và Nguyễn Quỳnh Thu đã nghiên cứu một cách tƣơng
đối khái quát các từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt trong luận văn thạc sĩ. Theo đó
Hoàng Thị Ái Vân [95] đã thống kê và phân loại các từ chỉ mùi, vị qua một số
cuốn từ điển tiếng Việt và qua hoạt động nói năng hàng ngày, sách báo và một số
đầu bếp của các nhà hàng, khách sạn tại Hà Nội. Kết quả ở trƣờng nghĩa mùi, có
123 từ chỉ mùi; gồm 73 tính từ chỉ mùi (trong đó có 21 từ đơn, 32 từ ghép và 21
từ láy), 26 danh từ chỉ mùi và 24 động từ chỉ mùi (6 động từ chỉ hoạt động cảm
nhận mùi và 18 động từ chỉ quá trình, trạng thái của mùi). Ở trƣờng nghĩa chỉ vị,
có 114 từ chỉ vị, gồm 78 tính từ chỉ vị (8 từ đơn, 55 từ ghép và 15 từ láy), 18
danh từ chỉ vị và 18 động từ chỉ vị (8 động từ chỉ hoạt động cảm nhận vị và 10
động từ chỉ quá trình, trạng thái của vị).
Về sự chuyển trƣờng trong trƣờng nghĩa mùi, vị, tác giả đã nêu ra đƣợc
một số hƣớng chuyển chính. Chẳng hạn nhƣ, ở trƣờng nghĩa mùi, có bốn hƣớng
chuyển: chuyển từ trƣờng nghĩa mùi sang trƣờng nghĩa giác quan khác: thị giác,
thính giác; Chuyển từ trƣờng nghĩa giác quan khác sang trƣờng mùi; Chuyển từ

13


trƣờng mùi sang các trƣờng sự vật, tinh thần; Chuyển từ trƣờng sự vật, tinh thần
sang trƣờng mùi. Ở trƣờng nghĩa vị, có hai hƣớng chuyển: chuyển từ trƣờng
nghĩa vị sang trƣờng nghĩa của các giác quan khác và chuyển từ trƣờng nghĩa
khác sang trƣờng nghĩa vị.

Có thể thấy, đây là luận văn đầu tiên đi vào nghiên cứu một cách khá toàn
diện các từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt và đã có một số đóng góp đáng kể (đƣa ra
đƣợc danh sách các từ chỉ mùi, vị, nêu đƣợc một số hƣớng chuyển trƣờng trong
trƣờng nghĩa mùi, vị). Tuy nhiên, luận văn còn có những hạn chế nhất định, nhƣ:
danh sách các từ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt chƣa hoàn toàn chuẩn xác và đầy
đủ; chƣa phân tích đƣợc cấu trúc nghĩa của từ ngữ chỉ mùi, vị, chƣa nêu đƣợc
đầy đủ các hƣớng chuyển nghĩa trƣờng nghĩa mùi, vị,…
Nguyễn Quỳnh Thu [79] nghiên cứu nhóm tính từ chỉ mùi, vị trong tiếng
Việt trên bình diện ngữ nghĩa và kết trị. Luận văn cũng đã hệ thống và phân loại
nhóm tính từ chỉ mùi, vị qua hai cuốn Từ điển: Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê
chủ biên, 2006, Trung tâm Từ điển học - NXB Đà Nẵng), Đại từ điển tiếng Việt
(Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên, 2008, Nxb ĐHQG TP HCM) và qua hoạt động nói
năng hàng ngày, các phƣơng tiện thông tin đại chúng sách báo, truyền hình. Kết
quả, luận văn thống kê đƣợc 81 tính từ chỉ mùi (gồm 11 từ đơn, 48 từ ghép và 22
từ láy), 94 tính từ chỉ vị (gồm 19 từ đơn, 51 từ ghép và 24 từ láy). Về đặc điểm ý
nghĩa chung của các tính từ chỉ mùi, luận văn chia làm hai nhóm sắc thái: Nhóm
mùi mang cảm giác dương tính và nhóm các mùi mang cảm giác âm tính. Ở nhóm
tính từ chỉ vị, ý nghĩa chung cũng phân chia làm hai nhóm chủ yếu: biểu cảm
dương tính và biểu cảm âm tính. Về hƣớng chuyển nghĩa của các từ chỉ mùi, vị,
luận văn nêu ra đƣợc một số hƣớng chuyển nghĩa chính. Ở nhóm tính từ chỉ mùi,
có ba hƣớng và ở nhóm tính từ chỉ vị, có bốn hƣớng chuyển nghĩa. Tuy nhiên, trong
phạm vi một luận văn, các vấn đề chƣa đƣợc đi sâu nghiên cứu.
Chu Bích Thu [78] tập trung xem xét về cấu trúc nghĩa của các tính từ chỉ
mùi, vị khi nghiên cứu về tính từ hiện đại trong tiếng Việt nói chung. Theo đó,

14


các tính từ biểu thị mùi, vị, về cơ bản, bao gồm hai thành tố: thành tố biểu thị
phạm trù và thành tố so sánh trực quan. Dựa vào cấu trúc nghĩa, tác giả phân loại

các tính từ biểu thị mùi, vị nhƣ sau:
Đối với các từ biểu thị mùi, có thể chia thành ba nhóm nhỏ. 1. Các tính từ
biểu thị mùi cơ bản, có nghĩa đƣợc xác định bằng cách so sánh với vật đại diện,
gồm: thơm, thối, hôi, khai, khét, tanh, hắc, khê. 2 Các từ biểu thị mùi có nghĩa
đƣợc xác định thông qua các từ biểu thị mùi cơ bản, gồm: khắm, khẳn, kháng,
khú, gây, hoi, thủm. 3. Các từ biểu thị mùi có nghĩa đƣợc xác định nhờ độ bốc
hay nồng độ của mùi, tác động trực tiếp đến cơ quan khứu giác, gồm: nồng,
hăng, nặc, ngái ngát.
Các từ biểu thị vị cũng đƣợc chia làm ba nhóm. 1. Các tính từ biểu thị vị
có nghĩa đƣợc xác định bằng cách so sánh trực tiếp với vật đại diện, gồm: chua,
cay, mặn, ngọt, đắng, bùi, béo. 2. Các từ biểu thị vị có nghĩa đƣợc xác định
thông qua các từ biểu vị mùi cơ bản, gồm: lợ, ngậy, the, khé. 3. Các tính từ biểu
thị mức độ của vị: đậm, đặm, nhạt.
Nguyễn Thị Phƣơng [66] đƣa ra cấu trúc nghĩa của các từ chỉ cảm giác nói
chung gồm hai thành tố nghĩa cơ bản là: tác động vật lí vào cơ thể và phản ứng
của cơ thể. Tác động vật lí vào cơ thể là nguyên nhân của quá trình cảm giác và
Phản ứng của cơ thể là kết quả của quá trình cảm giác.
Vũ Thị Mai Loan [52] nghiên cứu tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn, có
liên hệ với tiếng Việt trên qua hai đặc trƣng: hình thái và ý nghĩa. Ở đặc trƣng hình thái,
theo tác giả, từ biểu thị vị trong hai ngôn ngữ đều đƣợc cấu tạo bằng phƣơng thức lặp
và ghép. Tuy nhiên, do khác biệt về loại hình ngôn ngữ nên từ chỉ vị giác trong tiếng
Hàn có sự đa dạng và chi tiết trong cách diễn tả hơn so với trong tiếng Việt. Về đặc
trƣng ý nghĩa, tác giả phân tích nghĩa gốc và nghĩa chuyển của 5 tính từ chỉ vị giác
ngọt, mặn, chua, cay và đắng trong hai ngôn ngữ. Các kết quả phân tích của tác giả
mới dừng lại ở trong từ điển nên chƣa phản ánh hết hiện tƣợng chuyển nghĩa của nhóm
từ này trong thực tế sử dụng.
15


Ngô Minh Nguyệt [56] cũng tiến hành phân tích đặc điểm cấu trúc và đặc

trƣng văn hóa dân tộc của các từ chỉ mùi vị trong tiếng Hán và tiếng Việt. Bên
cạnh các từ đơn tiết thì các từ ghép chỉ mùi vị có mô hình cấu trúc nhƣ: Yếu tố
chỉ mùi vị + yếu tố chỉ mùi vị; Yếu tố chỉ mùi vị + yếu tố chỉ mức độ mùi vị và
Yếu tố chỉ mùi vị + yếu tố chỉ sự vật có mùi vị đại diện. Ở đặc trƣng văn hóa dân
tộc, tác giả cũng chỉ ra một số từ chỉ mùi, vị thể hiện trạng thái tâm lí con ngƣời,
nhƣ: ngọt,thơm biểu trƣng cho những cảm giác tốt đẹp, vui vẻ, mặn biểu trƣng
cho những cảm nhận tích cực, chua, cay, đắng dùng để liên tƣởng đến cảm nhận
tiêu cực của con ngƣời. Chua chỉ giọng nói mang sắc thái mỉa mai, thiếu chân
thành, đắng biểu trƣng cho sự đau khổ, thất bại, chua liên tƣởng đến sự tức tối,
khắt khe hay ghen tuông.
1.1.2.2. Hướng nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận
Nguyễn Thị Thùy [80] có cách tiếp cận mới về các từ chỉ mùi trong tiếng
Việt qua việc tìm hiểu ngữ nghĩa của nhóm từ này từ góc độ ngôn ngữ học tri
nhận. Qua sự hoạt động của nhóm từ chỉ mùi trong các các ngữ cảnh, tác giả đƣa
ra đƣợc một số mô hình (MIỀN NGUỒN, MIỀN ĐÍCH) và nêu lên thành các ẩn
dụ ý niệm nhƣ: HẠNH PHÖC GIA ĐÌNH LÀ HƢƠNG THƠM, MAY MẮN
TRONG CUỘC SỐNG LÀ HƢƠNG THƠM, NGƢỜI GÂY PHIỀN NHIỄU LÀ
MẮM THỐI, TÌNH TRẠNG KINH TẾ TRÌ TRỆ LÀ MÙI KHÊ,…
Nguyến Thị Bích Hợp [43] có nhắc đến các từ chỉ vị qua nghiên cứu ẩn dụ
định hƣớng ý niệm ―đồ ăn‖ trong tiếng Việt với ẩn dụ định hƣớng ĐẬM VỊ LÀ
LÊN, NHẠT VỊ LÀ XUỐNG.
Nhƣ vậy, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về nhóm từ ngữ chỉ
mùi, vị trong tiếng Việt cũng nhƣ trong các ngôn ngữ khác trên thế giới. Có thể
nhận thấy rằng, các nghiên cứu về nhóm từ ngữ này ở các ngôn ngữ khác chủ
yếu tập trung vào các từ vựng về vị giác và khứu giác. Cũng có một số bài viết
nghiên cứu về nghĩa của các từ chỉ vị, song chỉ mới ở phạm vi một hay một số
đơn vị tiêu biểu mà chƣa đi vào cả lớp từ này trong ngôn ngữ đang xem xét. Đối
16



với tiếng Việt, việc nghiên cứu về nhóm từ ngữ này mới dùng lại ở một số bài
viết và luận văn thạc sĩ. Những công trình này, tuy đã chỉ ra đƣợc một số đặc
điểm về ngữ nghĩa và số lƣợng các đơn vị từ vựng chỉ mùi, vị tiêu biểu, song do
tính chất và quy mô của công trình, do chƣa khảo sát tƣ liệu một cách đầy đủ và
toàn diện nên cũng mới chỉ là những nghiên cứu bƣớc đầu, chƣa thể bao quát hết
đƣợc cả về số lƣợng từ ngữ lẫn các đặc điểm ngữ nghĩa, … của các từ chỉ mùi, vị
trong tiếng Việt.
Với những trình bày nhƣ đã nêu ở trên, luận án tiếp tục tìm hiểu sâu và
toàn diện hơn về lớp từ ngữ chỉ mùi, vị trong tiếng Việt trên các phƣơng diện:
cấu tạo, cấu trúc nghĩa và hiện tƣợng chuyển nghĩa. Cùng với đó, luận án cũng
có liên hệ với tiếng Anh về các phƣơng diện trên nhằm tìm ra những tƣơng đồng
và khác biệt của hai cộng đồng nói tiếng Việt và tiếng Anh đối với nhóm từ đang
xem xét.
1. . Cơ sở í uận
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.2.1.1. Nghĩa của từ
Nghĩa của từ là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng trong việc
nghiên cứu ngôn ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ học, triết học và tâm lí học đã khẳng
định rằng nghĩa là yếu tố cơ bản trong quá trình giao tiếp của con ngƣời. Để
nhấn mạnh vai trò của nghĩa, Jakobson. R đã nói: ―Language without meaning is
meaningless‖ (Ngôn ngữ không có nghĩa là vô nghĩa) [dẫn theo 20, tr.12].
Có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về nghĩa của từ, tuy
nhiên, tựu trung lại, có thể đề cập đến ba nhóm quan trọng sau:
(i) Nhóm quan niệm thứ nhất coi nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối
tƣợng, khái niệm hay sự phản ánh, v.v.). ―Nghĩa của từ là sự vật, hành động, tính
chất ngoài thực tế khách quan mà từ biểu thị‖ [93]. E. Grodzinski chỉ rõ: ―Nghĩa
của từ trong ngôn ngữ nào đó là tƣ tƣởng của ngƣời nói thứ tiếng ấy của loài
17



ngƣời‖ [dẫn theo 30, tr.119].―Nghĩa của từ là sự phản ánh hiển nhiên của sự vật,
hiện tƣợng hay quan hệ trong ý thức‖ [dẫn theo 91, tr.217].
(ii) Nhóm quan niệm thứ hai coi nghĩa của từ là một quan hệ nào đó
(quan hệ của từ đối với đối tƣợng hoặc quan hệ của từ đối với khái niệm hay
quan hệ của từ với từ, v.v…). Theo F. de Saussure ―Nghĩa, là quan hệ của cái
biểu hiện (significant) và cái đƣợc biểu hiện (signifie), trong đó, cái biểu hiện
không phải là bản thân tổ hợp ngữ âm cụ thể mà là hình ảnh tâm lí của nó và cái
đƣợc biểu hiện là tƣ tƣởng‖. Tiếp theo F. de Saussure, St. Ullman nhấn mạnh:
―Nghĩa của từ là mối liên hệ liên tƣởng giữa âm thanh của từ - name và nội dung
khái niệm - sense của nó‖ [dẫn theo 30, tr.120]. A. A. Reformatskij cho rằng:
―Nghĩa, đó là quan hệ của từ với sự vật, hiện tƣợng mà nó biểu thị, đó là quan hệ
của sự kiện ngôn ngữ với sự kiện ngoài ngôn ngữ‖ [dẫn theo 30, tr.120]). Ju. D.
Aprecjan lại quan niệm: ―Nội dung ngữ nghĩa của từ không phải là cái gì tự thân.
Nó hoàn toàn bị quy định bởi những mối quan hệ đƣợc hình thành trong hệ
thống những sự đối lập của từ này với từ khác cùng thuộc trƣờng ấy‖ [dẫn theo
89, tr.185]. Nguyễn Thiện Giáp cũng nhận định: ―Nghĩa của từ là quan hệ của từ
với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó‖ [28, tr.261]. Các tác giả [10, tr.167-168]
nhấn mạnh: ―Cho tới nay, đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm nghĩa của từ
là những liên hệ. Tuy nhiên, đó không phải là những liên hệ tất yếu mà là những
liên hệ phản ánh, mang tính quy ƣớc, đƣợc xây dựng bởi những cộng đồng ngƣời
bản ngữ. Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc con ngƣời chỉ tồn
tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ‖.
(iii) Nhóm quan niệm thứ ba coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần
(nghĩa tồn tại trong trí não con ngƣời và là một hiện tƣợng tâm lí, tinh thần). Đỗ
Hữu Châu cho rằng ―nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phƣơng
diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ‖. Nói một cách khác ―nghĩa
của từ là hợp điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố
tạo nên nghĩa. Trong số những nhân tố đó, có những nhân tố ngoài ngôn ngữ và

18



có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ‖ [7, tr.98-102]. Tác giả cũng xác định các
nhân tố ngoài ngôn ngữ là (1) sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan, có thể
thuộc thế giới nội tâm, có thể thuộc thế giới ảo tưởng; (2) sự hiểu biết của con
ngƣời về nhân tố thứ (1), và (3) nhân tố lịch sử xã hội (mỗi thời đại và các tập
thể xã hội khác nhau cũng ảnh hƣởng đến nghĩa của từ, khiến cho mỗi từ có thể
có những vẻ nghĩa riêng). Còn các nhân tố thuộc ngôn ngữ là: (1) toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ với những quan hệ giữa chúng; (2) chức năng tín hiệu học của
từ. Tác giả thay tam giác nghĩa hình học phẳng bằng hình tháp nghĩa hình học
không gian nhƣ sau.
Từ-trừu tƣợng

Ngƣời dùng
Tƣ duy

Chức năng tín hiệu

Sự vật
Hệ thống ngôn ngữ

Theo sơ đồ này thì đỉnh cao nhất của tháp là từ (trừu tƣợng) với hai thành
phần là hình thức và ý nghĩa. Ở mỗi đỉnh của đáy là từng nhân tố góp phần làm
thành ý nghĩa, gồm: sự vật, hiện tƣợng, sự hiểu biết của tƣ duy; nhân tố ngƣời sử
dụng; các chức năng tín hiệu học; cấu trúc của ngôn ngữ.
Lê Quang Thiêm cũng cho rằng: ―Nghĩa của từ, cũng nhƣ nghĩa của ngôn
ngữ nói chung là một sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm lí của con ngƣời. Nghĩa
của từ về bản chất là một thực thể tinh thần. Nó là kết quả của sự phản ánh, ánh
xạ, tri nhận thực tại đƣợc tích hợp lại trong nội dung kí hiệu từ. (…) Nội dung
này là sự kí hiệu hóa, là việc sử dụng kí hiệu trong giao tiếp, tƣ duy; đồng thời

nó là kết quả của sự biểu trƣng hóa, cấu trúc hóa trong vốn từ ngữ cũng nhƣ

19


×