Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận cao học giải pháp nâng cao vai trò của luật đất đai trong đời sống kinh tế chính trị xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.56 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
PHẦN I: TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chúng ta đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần khai thác và phát huy
có hiệu quả nguồn lực đất đai phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ
môi trường... Hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai từng bước được tăng
cường; chính sách, pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền
của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm; thị trường
bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát triển
nhanh. Kết quả đó khẳng định các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách,
pháp luật về đất đai được xác định trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX cơ
bản là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất chính không thể thay thế được của 1 số ngành
sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp. Là yếu tố hàng đầu
của môi trường sống, là địa bàn để phân bố dân cư, là nền
tảng để xây dựng nền kinh tế quốc dân. Đất đai là đối tượng
của các cuộc tranh chấp, tham vọng của một lãnh thổ. Đất đai
là dấu hiệu cơ bản nhất của một quốc gia, một dân tộc, một
cộng đồng. Không thể có quan niệm một quốc gia không có
đất đai. Dưới góc độ chính trị pháp lý, đất đai là một bộ phận
không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia gắn liền với chủ
quyền quốc gia.


Mặc dù việc quản lý đất đai của nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ
song vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết như việc khai thác đất nông nghiệp


và phi nông nghiệp chưa tốt, tình trạng lãng phí còn nhiều, hiệu suất sử dụng
còn thấp. Quy hoạch sử dụng đất chưa trở thành cơ sở pháp lý trong việc giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất.
Công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận… còn
nhiều sai sót, tiêu cực chưa được khắc phục kịp thời và hoạt động quản lý
kinh tế - tài chính về đất đai chưa hoàn thiện
Có một đạo luật tốt là điều rất quan trọng, song những định chế đó có
đi được vào cuộc sống với hiệu lực cao hay không lại đòi hỏi một bộ máy
thực thi có năng lực và phẩm chất để hướng dẫn cụ thể, điều hành năng động
và kiểm soát được tình hình. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai này hết
sức phức tạp, song hiệu lực chỉ được đảm bảo khi đội ngũ cán bộ, công chức
- đặc biệt ở cấp cơ sở - nắm vững luật pháp, có tinh thần trách nhiệm cao và
liêm chính.
Vì những lí do trên, em xin chọn đề tài “Giải pháp nâng cao vai trò
của Luật đất đai trong đời sống Kinh tế - Chính trị - Xã hội” để nghiên cứu.
Cấu trúc tiểu luận gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận.
Chương II: Vai trò của Luật đất đai trong đời sống Kinh tế - Chính trị Xã hội
Chương III: Giải pháp nâng cao vai trò của Luật đất đai trong giai đoạn
hiện nay.
Do hạn chế về nhiều mặt nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
thiếu sót, kính mong thầy cô góp ý để những bài làm sau của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Đất đai và vai trò của đất đai trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau:
"đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm: khí hậu, bề mặt,
thổ nhưỡng, dáng địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với
nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, thực vật và động vật, trạng thái định
cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại
(san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa. ..)".
Như vậy, "đất đai" là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng
đứng (gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật,
động vật, diện tích nước, tài nguyên nước ngầm và khóang sản trong lòng
đất), theo chiều nằm ngang trên mặt đất (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa
hình, thuỷ văn,thảm thực vật cùng các thành phần khác) giữ vai trò quan trọng
và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã
hội loài người.
Đất đai là tài sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá
trình lịch sử phát triển kinh tế-xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai
đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu
không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng
như không thể có sự tồn tại của loài người. Đất đai là một trong những tài
nguyên vô cùng quý giá của con người, điều kiện sống cho động vật, thực vật
và con người trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc các công
trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi vá các công trình thuỷ lợi khác. Đất
đai cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp, xây dựng như gạch ngói, xi,
măng, gốm sứ...
3


Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là

thước đo sự giầu có của một quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc
sống, bảo hiểm về tài chính,như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ
và như là một nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế,
nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất đai. Lợi ích của Nhà
nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng; nguồn
lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu
quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường bất
động sản phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" còn
khá phổ biến; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến
phức tạp.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là: Đất đai
có nguồn gốc rất đa dạng; chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; chủ
trương, chính sách, pháp luật hiện hành về đất đai còn một số nội dung chưa
đủ rõ, chưa phù hợp; việc thể chế hoá còn chậm, chưa thật đồng bộ. Tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai và các chính sách, pháp luật có liên
quan chưa nghiêm. Công tác tuyên truyền, giáo dục và quán triệt các chủ
trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn kém hiệu quả; việc thực hiện
công khai, minh bạch trong quản lý đất đai chưa tốt. Ý thức chấp hành pháp
luật về đất đai của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế. Việc thanh
tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm chưa nghiêm. Hiệu lực,
hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn thấp. Tổ chức
bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai và các cơ quan liên quan
còn nhiều bất cập, hạn chế; một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
trục lợi, tham nhũng.

4



2. Luật đất đai và vai trò của Luật Đất đai trong đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội.
Khái niệm Luật đất đai: Là một ngành Luật độc lập và
quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhằm thiết lập
quan hệ đất đai trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
và sự bảo hộ đầy đủ của Nhà nước đổi với các quyền của
người sử dụng đất; là tổng hợp những quy phạm pháp luật
điều chỉnh những quan hệ đất đai hình thành trong quá trình
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai, nhằm sử dụng đất
đai có hiệu quả vì lợi ích nhà nước và người sử dụng.
Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014 đã quán
triệt đầy đủ quan điểm Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/12/2012 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Quyền của Nhà nước trong việc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất
không do người sử dụng đất tạo ra để phục vụ lợi ích chung đã được cụ thể hóa.
Luật cũng quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất gắn
với từng đối tượng, từng loại đất cụ thể và điều kiện thực hiện các quyền.
Luật Đất đai năm 2013 ra đời tiếp tục công tác hoàn thiện chính sách
đất đai đối với khu vực nông nghiệp nông thôn thông qua việc nâng thời hạn
giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho hộ gia đình, cá nhân 50 năm; mở
rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ gia
đình, cá nhân; khuyến khích tích tụ đất đai bằng việc góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất, nhận quyền thuê đất.
Luật Đất đai cũng quy định cụ thể nội dung kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của cấp huyện để làm căn cứ thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất đảm bảo phù hợp với khả năng đầu tư và huy động


5


nguồn lực, khắc phục lãng phí trong việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện
dự án đầu tư.
Bên cạnh đó, Luật Đất đai 2013 còn giúp hoàn thiện hơn cơ chế nhằm
phát huy nguồn lực từ đất đai cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước thông
qua quy định Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất; lập
Quỹ phát triển đất, tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá quyền sử dụng đất.
Đồng thời, nhờ có Luật, các chính sách pháp luật đã tăng cường hơn
công khai minh bạch và dân chủ trong quản lý, sử dụng đất, góp phần phòng,
chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, giảm khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai.
Sau hơn hai tháng triển khai kể từ 1/7/2014, đến nay Luật Đất đai năm
2013 bước đầu đã có những tác động tới phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng hiện vẫn còn một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm
rõ để hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai như việc cho phép doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ
gia đinh, cá nhân; vấn đề thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất tại
các ngân hàng nước ngoài./.

6


CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI TRONG ĐỜI SỐNG
KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1. Vai trò của Luật Đất đai trong đời sống Kinh tế.
- Đất đai là tư liệu sản xuất chính, không thể thay thế được của một số
ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp.
- Đất đai còn là nguyên liệu của một số ngành sản xuất như: làm gạch,

đồ gốm, xi măng,…
2. Vai trò của Luật Đất đai trong đời sống Chính trị.
- Đất đai là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia gắn
liền với chủ quyền quốc gia. Không thể quan niệm về một quốc gia không có
đất đai. Tôn trọng chủ quyền quốc gia trước hết là tôn trọng lãnh thổ quốc gia.
- Đất đai là một trong những yếu tố cấu thành nên lãnh thổ quốc gia. Vì
vậy việc xâm phạm đất đai là xâm phạm lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, để
bảo vệ chủ quyền đó Nhà nước phải luôn luôn thực hiện các biện pháp quản
lý, bảo vệ đất đai để khỏi có sự xâm phạm từ bên ngoài.
3. Vai trò của Luật Đất đai trong đời sống Xã hội.
- Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là điều kiện tồn tại
và phát triển của con người và các sinh vật khác ở trên trái đất.
- Đối với đời sống, đất đai là nơi trên đó con người xây dựng nhà cửa, công
trình để làm chỗ ở và tiến hành các hoạt động văn hóa, là nơi phân bố các
nguồn kinh tế, các khu dân cư,…
4. Hạn chế của Luật đất đai trong thời gian qua.
Ttrong gần 30 năm qua, chính sách, pháp luật đất đai đã có nhiều đổi
mới và đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế, ổn định xã hội của đất nước.
Tuy vậy, công tác quản lý Nhà nước về đất đai vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế, yếu kém như quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ
với các quy hoạch chuyên ngành. Tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý
quy hoạch còn yếu.
7


Các quy định pháp luật về đất đai vẫn còn một số nội dung chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý và sử dụng đất. Quyền định đoạt của Nhà nước với
vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai chưa được làm rõ. Quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất cũng chưa rõ và còn nhiều vướng mắc.
Bên cạnh đó, công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư còn nhiều bất cập, chưa giải quyết hài hòa lợi ích của người
có đất bị thu hồi.
Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai
còn diễn biến phức tạp, phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài.
Nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi
hành. Nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan
trọng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất còn bộc lộ
những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch " ngầm"
khá phổ biến.
Tình trạng đầu cơ đất đai còn xảy ra, đẩy giá đất tăng cao đã có tác
động không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô. Hiện nay, nhu cầu nhà ở của các
đối tượng chính sách xã hội, cán bộ công chức, người có thu nhập thấp còn
chưa được đáp ứng đầy đủ.
Thực trạng đó đặt ra yêu cầu khẩn thiết phải có bước đột phá mới trong
chính sách, pháp luật để có thể thiết lập trật tự mới trong quản lý đất đai. Vào
lúc này, một bước đột phá như vậy có thuận lợi lớn là Trung ương Đảng vừa
đề ra các quan điểm chỉ đạo trên cơ sở một bước nhận thức mới về vấn đề đất
đai trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với yêu cầu phát huy nguồn tài nguyên, nguồn lực đất đai cho phát
triển kinh tế-xã hội, Nhà nước cần tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai.

8


CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
LUẬT ĐẤT ĐAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng
Trên cơ sở tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về
đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày
25-5-2012 Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã ban hành Kết luận số 22KL/TW. Theo đó quan điểm chỉ đạo: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước,
là nguồn sống của nhân dân. Quản lý và sử dụng đất đai là vấn đề rộng lớn,
phức tạp, hệ trọng liên quan đến giữ vững thành quả cách mạng, ổn định
chính trị, xã hội của đất nước.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ
đạo về chính sách, pháp luật đất đai của Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX),
đồng thời tiếp tục khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản
và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu; Nhà nước không
thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng
trong quá trình thực hiện các chính sách đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh
lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân.
Trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được đưa ra lấy ý kiến nhân
dân đã có nhiều nội dung được sửa đổi hoặc bổ sung mới để thể chế hóa quan
điểm chỉ đạo theo Kết luận 22. Cụ thể, Chương II “Quyền của nhà nước và
trách nhiệm quản lý của nhà nước đối với đất đai” được sửa đổi, bổ sung trên
cơ sở Chương II của Luật Đất đai hiện hành “Quyền nhà nước đối với đất đai
và quản lý nhà nước về đất đai”. Việc bổ sung Chương này nhằm làm rõ
quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu
đất đai. Trong đó có Điều 19 quy định: “Nhà nước quy định quyền và nghĩa
9


vụ của người sử dụng đất phù hợp với các hình thức giao đất, cho thuê đất,
nguồn gốc sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất”.
Đây là điều được xây dựng mới để thể chế vai trò của nhà nước trong
quản lý đất đai. Một số quy định của Chương V “Thu hồi đất, giao đất, cho

thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất”, Điều 62 “Các trường hợp giao đất
không thu tiền sử dụng đất”, Điều 101 “Các trường hợp đấu giá và không đấu
giá quyền sử dụng đất”, được sửa đổi hoặc bổ sung nhiều quy định chặt chẽ
hơn nhằm điều chỉnh các quan hệ về đất đai phù hợp với tình hình thực tiễn,
quản lý tốt hơn với tài nguyên đất, đảm bảo công bằng xã hội và tạo điều kiện
cho nông dân yên tâm canh tác.
Nghị quyết 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) (ban hành ngày 31-10-2012) về “tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại” một lần nữa khẳng định quan điểm chỉ đạo của Đảng về đất
đai như đã nêu tại Kết luận 22 hội nghị Trung ương 5 (khóa XI). Nghị quyết
cũng định hướng đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai trên
các mặt: Quy hoạch sử dụng đất; Giao đất, cho thuê đất; Thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; Đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận; Quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được giao quyền sử dụng đất;
Phát triển thị trường bất động sản; Chính sách tài chính về đất đai; Giá đất;
Cải cách hành chính; Thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai và Nâng cao năng lực quản lý đất đai. Đây là căn cứ quan trọng để
nhân dân nắm vững tham gia đóng góp ý kiến sửa đổi Luật Đất đai đạt kết quả
cao nhất.
2. Giải pháp của Nhà nước
2.1- Quy hoạch sử dụng đất
Đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng
10


đất theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý,
sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị

hành chính. Quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng
đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Có cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển
công nghiệp, dịch vụ, du lịch đồng bộ với cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội để khai
thác tiềm năng đất đai tại các vùng trung du, miền núi, ven biển, hạn chế tối
đa việc sử dụng đất chuyên trồng lúa. Từng bước thực hiện di dời các cơ sở
sản xuất, các đơn vị sự nghiệp tập trung đông người ra khỏi trung tâm thành
phố, nhất là các thành phố lớn, để khai thác, sử dụng đất có hiệu quả theo quy
định, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc giao thông.
2.2- Giao đất, cho thuê đất
Tiếp tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử
dụng có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích
nông dân gắn bó hơn với đất và yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng thời, mở rộng
hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện
cụ thể từng vùng, từng giai đoạn để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích
tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn
trong nông nghiệp. Sớm có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và việc
làm cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang không có đất sản xuất.
Quy định cụ thể điều kiện để nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất
thực hiện dự án phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời có chế tài đồng bộ, cụ thể
để xử lý nghiêm, dứt điểm các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, nhưng sử dụng lãng phí, không đúng mục đích, đầu cơ đất, chậm
đưa đất vào sử dụng; không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất, giá trị
đã đầu tư vào đất đối với các trường hợp bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật
về đất đai.

11



2.3- Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của
Uỷ ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị.
Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo
đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp
luật.
Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng các
khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới
cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư được
xây dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền.
2.4- Đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận
Thực hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất. Nhà nước bảo hộ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người đã đăng ký đất đai theo quy định của
pháp luật, đồng thời có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các trường hợp giao
dịch không đăng ký tại cơ quan nhà nước.
2.5- Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được giao
quyền sử dụng đất
Quy định cụ thể điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất,
điều kiện nhà đầu tư được nhận quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu
tư. Khuyến khích việc cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện
các dự án đầu tư.
2.6- Phát triển thị trường bất động sản
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lành mạnh, bền vững
thị trường bất động sản. Tăng cường sự quản lý, điều tiết của Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương. Việc phát triển đô thị, các dự án kinh doanh bất
động sản phải phù hợp với quy hoạch, nhu cầu của thị trường. Đẩy mạnh phát
triển nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội để từng bước cải thiện điều kiện nhà ở của
nhân dân.

12



2.7- Chính sách tài chính về đất đai
Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản (đối tượng chịu thuế phải bao
gồm cả đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Người sử dụng nhiều diện
tích đất, nhiều nhà ở, đất bỏ hoang, đất đã giao, đã cho thuê, nhưng chậm đưa
vào sử dụng thì phải chịu mức thuế cao hơn.
Thực hiện nghiêm Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu
nhập cá nhân, trong đó có thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, không
thực hiện việc thu thuế theo mức khoán.
2.8- Giá đất
Giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm
định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Làm tốt công tác theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường;
từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất. Có cơ chế giám
sát các cơ quan chức năng và tổ chức định giá đất độc lập trong việc định giá
đất. Khuyến khích phát triển các tổ chức tư vấn định giá đất độc lập.
2.9- Cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai. Phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa phương trong quản lý
nhà nước về đất đai, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không
chồng chéo.
Tăng cường giám sát đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ
trong quản lý đất đai; xử lý nghiêm các trường hợp nhũng nhiễu, gây phiền hà
cho người dân và doanh nghiệp.
2.10- Thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, toà án các cấp; nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm đào tạo,
nâng cao trình độ cho đội ngũ thanh tra viên, cán bộ xét xử, giải quyết tranh


13


chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý đủ
mạnh đối với các trường hợp vi phạm.
2.11- Nâng cao năng lực quản lý đất đai
Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá chất lượng, tiềm năng đất đai đáp
ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển
bền vững. Phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật đất đai cho cộng đồng,
nhất là đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

14


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới đất nước, trên cơ sở kế thừa những định hướng về chính sách, pháp
luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách,
pháp luật về đất đai
- Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ đạo quán triệt
sâu sắc nội dung của Nghị quyết và tăng cường lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả
về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết.
- Trong năm 2013, Bộ Chính trị chỉ đạo tổng kết thực hiện Nghị quyết
số 28-NQ/TW, ngày 16-6-2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển
nông, lâm trường quốc doanh để có phương án tổ chức lại các nông, lâm
trường, có cơ chế, chính sách để bảo đảm sử dụng đất lâm nghiệp có hiệu quả
kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm

2003; đồng thời rà soát, hoàn thiện các đạo luật có liên quan, tạo cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện trong phạm vi cả
nước.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới
luật; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện Nghị quyết một cách đồng bộ, có
hiệu quả. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết và kịp thời điều chỉnh các chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể phù
hợp với yêu cầu thực tế.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đẩy mạnh vận động các
tầng lớp nhân dân tích cực tham gia và giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
- Các ban đảng ở Trung ương theo chức năng giúp Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, kiểm tra việc thực hiện
15


Nghị quyết. Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với các cơ quan có liên
quan theo dõi tình hình thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Luật Đất đai 1993 (gồm cả Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
đất đai 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai 2001) là
một trong những đạo luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta. Những kết quảđã đạt được trong quá trình thực hiện Luật Đất
đai 1993 là rất nhiều và đã thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính
trị - xã hội. Tuy nhiên, trước tình hình phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã
hội, pháp luật về đất đai mà nòng cốt là Luật Đất đai 1993 cũng bộc lộ rõ
những hạn chế, đó là:
-Pháp luật về đất đai chưa xác định rõ nội dung cốt lõi của chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước với vai trò
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai chưa được thể hiện đầy đủ.

-Pháp luật về đất đai chưa đủ tầm giải quyết một cách có hiệu quả
những vấn đề về đất đai để đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ đổi mới.
-Pháp luật về đất đai chưa thực sự theo kịp với tiến trình chuyển đổi
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả. Luật đất đai quy định tương đối tập trung vào
biện pháp quản lý hành chính và vẫn còn mang nặng tính bao cấp, trong khi
các mối quan hệ về kinh tế được đề cập, điều chỉnh còn ít; chưa có đủ các chế
định cần thiết về định giá đất, vềđiều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi
nhuận qua chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bất động sản khác, về bồi
thường khi thu hồi đất, về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất, về điều kiện
thực hiện các quyền của người sử dụng đất, về định hướng và kiểm soát có
hiệu quả việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thị trường bất động sản,
về chuyển mục đích sử dụng đất.

16


-Pháp luật về đất đai chưa giải quyết được những tồn tại lịch sử trước
đây về đất đai, cũng như những vấn đề mới nảy sinh. Trong thực tế, vấn đề
đòi lại nhà, đòi lại đất vẫn tiếp tục xảy ra và còn có nhiều ý kiến khác nhau
trong xử lý. Tình trạng vi phạm pháp luật, khiếu nại về đất đai vẫn tiếp tục và
là vấn đề bức xúc, chưa có các quy định và chế tài cần thiết để giải quyết.
-Nhiều nội dung của pháp luật đất đai mới dừng lại ở mức độ quy định
về nguyên tắc quan điểm mà thiếu các văn bản quy định cụ thể nên hiểu pháp
luật và thực thi pháp luật còn khác nhau giữa các ngành, các cấp. Hệ thống
pháp luật đất đai hiện hành rất phức tạp, cồng kềnh, nhiều tầng nấc và kém
hiệu lực.
Để khắc phục những thiếu sót trên, thực hiện Nghị quyết số
12/2001/QHll về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XI

(2002-2007), Quốc hội đã tiến hành xây dựng Luật đất đai mới thay thế cho
Luật Đất đai 1993. Ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội
khoá XI đã thông qua Luật Đất đai mới - Luật Đất đai 2003.

17


MỤC LỤC

18



×