1
TÌM HIỂU VỀ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, mang
bản chất khoa học và cách mạng, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam- một nước phương
Đông, có nền nông nghiệp lạc hậu, lại chịu sự thống trị của chủ nghĩa thực dân,
phong kiến. Những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin thật là to lớn. Sự vận dụng và phát triển lý luận khoa
học Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam của Người thật tài tình và
sáng tạo. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam, sự tôn vinh và thừa nhận Hồ Chí
Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới nhân kỷ niệm
100 năm Ngày sinh của Người đã chứng minh điều đó.
Nhờ nắm vững linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện
chứng duy vật, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa trung
thành và sáng tạo, giữa bảo vệ và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trong điều kiện lịch sử cụ thể và đặc thù, đưa ra những nhận định đúng đắn và
chính xác làm cơ sở để định ra chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt
Nam. Tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh dựa chắc vào cowq sở khoa học phản
ảnh những quy luật khách quan mà C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã phát
hiện. Xét về thực chất, đó là tư duy biện chứng duy vật, là tư duy khoa học,
cách mạng đã kế thừa những cái đúng, cái tiến bộ và lọc bỏ những cái lỗi thời
trên tinh thần phê phán để phát triển, vượt lên phía trước, đáp ứng những yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
không là hệ thống tín điều cứng nhắc mà là kim chỉ nam cho hành động.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú. Trong
2
bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ một số vấn đề nổi bật, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên phát hiện
ra bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và xông pha
nhiệt huyết trong thực tế để vận dụng và hiện thực hóa các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người viết:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” 1. Người coi Chủ
nghĩa Mác - Lênin là “cái cẩm nang kỳ” để giải phóng cho dân tộc ta. Chính
thế giới quan phương pháp luận khoa học Chủ nghĩa Mác - Lênin đã quy
định bản chất cách mạng và khoa học trong tư tưởng của Người, giúp Người
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn. Có lý luận khoa học Mác- Lênin dẫn lối, chỉ đường đấu tranh cách
mạng, nhưng Người không dựa dẫm, ý lại, rập khuôn, máy móc. Lúc nào
Người cũng tâm niệm cố gắn vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin một cách
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Là một nhà tư tưởng, nhà lý luận Mác-xít sáng tạo lớn của cách mạng
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhất quán với lập trường, quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về lý luận đấu tranh giai cấp và cách mạng vô
sản để kiên trì lựa chọn lý tưởng và con đường chủ nghĩa xã hội cho sự phát
triển của cách mạng Việt Nam. Song, Người có cách đi riêng, độc đáo, phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhờ những phát hiện độc lập và sáng tạo về
phương pháp, bước đi, cách làm để thực hiện lý tưởng và mục tiêu định ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, lời nói phải đi đôi với việc
làm, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Nếu lý luận mà xa rời thực tiễn là lý
luận suông, thực tiễn mà không có lý luận soi sáng là thực tiễn mù quáng.
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.268
3
Người coi việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam là để mang lại độc lập, tự do cho đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Cho nên, phải hiểu Chủ nghĩa Mác - Lênin sâu sắc; phải
biết lấy cái gì là thiết thực, bổ ích và cụ thể từ Chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Người luôn đặt ra yêu cầu phải kết hợp
nhuần nhuyễn giữa tính chung, phổ biến với tính riêng, đặc thù của các
nguyên lý, quy luật cách mạng, vận dụng và phát triển nó một cách sáng tạo
vào thực tiễn Việt Nam. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan niệm thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn là nguyên tắc mác-xít tối cao chỉ
đạo mọi hoạt động của Người. Theo đó lý luận hoá thực tiễn từ sự nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn một cách khoa học và thực tiễn hoá lý luận từ sự vận dụng
và phát triển lý luận trong thực tiễn một cách sáng tạo. Và ở Người là biểu
tượng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, sự xông sáo,
nhiệt huyết của một người cộng snar chân chính.
Từ khi rời Tổ quốc đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
sớm nhận thức muốn hoạt động cách mạng cần phải tham gia các tổ chức và
hòa mình vào phong trào đấu tranh cách mạng. Người đã hoạt động trong
phong trào của người Việt Nam yêu nước và phong trào công nhân Pháp,
tham gia Đảng Xã hội Pháp; sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua; tham gia
sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa; chủ nhiệm kiêm chủ báo Người cùng khổ;
tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, tham gia Quốc tế Cộng sản, hoạt
động trong Quốc tế Nông dân; tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức... Những hoạt động đầy nhiệt huyết của Người - với tư cách nhà
chính trị, nhà tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản quốc tế đã in dấu đậm nét
trong lịch sử cách mạng vô sản thế giới. Trong quá trình hoạt động cách
mạng, nhiều lần phải sống trong thiếu thốn, khổ cực, nguy hiểm, tù đày, thậm
chí bị hiểu lầm, nhưng trong hoàn cảnh nào, Người cũng có một niềm tin sắt
4
son vào chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu cao ý chí, bản lĩnh và phẩm chất của
người chiến sĩ cộng sản.
Hồ Chí Minh có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Với tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp, một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực
dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản, Người tích cực đưa lý luận Mác Lênin vào phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; kiên trì bảo vệ, phát
triển sáng tạo những quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Với
trách nhiệm là Ủy viên Ban phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng
sản, Người hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng, phong trào cộng
sản ở các nước châu Á và xúc tiến thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Sức lan tỏa của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam do Hồ
Chí Minh lãnh đạo đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc rất mạnh mẽ.
Nó đã ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở hàng trăm nước thuộc
địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.
Hai là, Hồ Chí Minh có những bổ sung và sáng tạo ra những giá trị mới
xung quanh phạm trù chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có những sáng tạo đặc
sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ với nước ta mà còn đối với các
nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại hình "phát triển rút ngắn" và "quá độ
gián tiếp", bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện từng bước từ dân chủ
nhân dân tới chủ nghĩa xã hội.
5
Xuất phát từ lý luận Mác- Lênin, từ thực tiễn, điều kiện Việt Nam,
Người đã có cách tiếp cận riêng về chủ nghĩa xã hội. Nếu Mác, Ăngghen,
Lênin đã làm sáng tỏ bản chất của nghĩa xã hội từ những kiến giả kinh tế,
chính trị, xã hội, thì ngoài những kiến giải ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn làm
phong phú thêm hướng tiếp cận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo
đức. Người nhận thấy chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân,
nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại đề cao, tôn trọng con người cá
nhân, các giá trị, nhu cầu cá nhân... Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng,
trong nhãn quan văn hoá, đạo đức Hồ Chí Minh.
Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề, mà ngày nay ta càng thấy rõ
tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội: "thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân"2. Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi thì
không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Chủ nghĩa xã
hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc
vào việc những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ tiên phong
có đủ dũng khí và quyết tâm để đánh thắng thứ "giặc nội xâm" mà Người coi
là kẻ thù nguy hiểm nhất hay không? Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ là
kinh tế - một nền kinh tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ pháp quyền, đảm bảo quyền làm chủ thực chất của nhân dân, một xã hội công
bằng, bình đẳng cho sự phát triển hài hòa cá nhân và cộng đồng, mà còn là
một nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu vào các quan hệ xã hội, là một hệ
giá trị văn hóa, kết hợp được truyền thống, bản sắc dân tộc với những tinh hoa
của thời đại vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi con người, mọi dân tộc. Sự
sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh là ở
chỗ, Người khẳng định một nhiệm vụ chiến lược trong tiến trình xây dựng
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 9, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 291
6
chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ "trồng người", đào tạo, giáo dục, rèn luyện
cán bộ, coi đó là công việc gốc của Ðảng, và thực hành đạo đức cách mạng
được Người quan tâm suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành
động. Chiến lược đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng,
phát triển, đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách
mạng, Ðảng cách mạng, người cách mạng có sức mạnh tự bảo vệ.
Người chỉ rõ, bản chất sâu xa và tính ưu việt nổi bật của chủ nghĩa xã
hội là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người khẳng định,
không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân
dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời của dân. Là chủ thể gốc của mọi
quyền lực, nhân dân phải là chủ sở hữu của dân chủ, phải là chủ xã hội, chủ
Nhà nước, giám sát được Nhà nước của mình. Người còn nhấn mạnh, thực
hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn. Vậy là, Người đã thấy vai trò động lực của dân chủ đối với tiến bộ và
phát triển, đối với chủ nghĩa xã hội.
Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc
không chỉ tính khoa học và cách mạng mà còn là đạo đức, là văn hóa, tức là
nhân văn. Người từng nói: "chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ
đưa loài người đến hạnh phúc vô tận..." 3. Phải xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng
tốt, xã hội ngày càng tiến bộ văn minh. Tất cả đều nhằm vào hạnh phúc của
nhân dân. "Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"4.
Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải
dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Việc gì có
3
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr. 131.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 56.
7
lợi cho dân phải quyết làm cho bằng được. Việc gì có hại tới dân phải quyết
tránh cho bằng được.
Quyền làm chủ của dân, hạnh phúc của dân, sự phát triển tự do, dân
chủ, công bằng trong xã hội - đó là những giá trị đảm bảo cho chế độ phát
triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực sự là một xã hội văn hóa cao, trong
đó, con người là con người xã hội chủ nghĩa, nhân dân làm chủ, dân tộc trở
thành một dân tộc thông thái.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã triển khai cách mạng
không ngừng của Mác, Ăngghen và phát triển luận điểm sáng tạo của Lênin
về cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, đề ra lý luận
về sự phát triển không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước phương Đông, vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu.5
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn. Trong Chính cương vắn tắt, Người chủ trương “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau này,
Đại hội II của Đảng (tháng 2 năm 1951) phát triển là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, theo Người: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đó là sự nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác
- Lênin, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân
và khẳng định tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải
phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có tính độc lập, tự chủ và có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trên cơ sở đó Người đã giải quyết
5
Võ Nguyên Giáp, Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. QĐND, H. 1993, tr.29.
8
thành công mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân. Cái mới và bản lĩnh
sáng tạo của Hồ Chí Minh là ở chỗ: Người không tách rời giai cấp khỏi dân
tộc. Nếu không giành được độc lập chủ quyền cho dân tộc thì chẳng những
dân tộc vẫn mãi mãi trong vòng nô lệ mà giai cấp cũng không thoát khỏi tình
cảnh nô lệ và bị giam hãm trong kiếp ngựa trâu. Số phận dân tộc và giai cấp
gắn liền với nhau. Cùng với đó là giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp
công nhân, đứng vững trên nền tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân, vượt
qua ý thức hệ phong kiến đã lỗi thời và cũng vượt qua những hạn chế của ý
thức hệ tư sản. Giải quyết vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập
trường giai cấp công nhân, theo ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách
mạng giải phóng dân tộc với mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp
công nhân và đội tiên phong của nó là Ðảng Cộng sản lãnh đạo.
Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam chỉ
có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Và
nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã cùng với
Ðảng, lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và
mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thế giới, đã xây
dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội thể hiện một quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm
thực tiễn - phát triển và đổi mới. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện của
chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng chính trị, là cơ sở dân tộc của chủ nghĩa xã
hội. Theo đó, chủ nghĩa xã hội sinh thành, phát triển và hoàn thiện là đảm
bảo thực chất, đầy đủ và bền vững nhất của độc lập dân tộc. Ðó cũng là thước
đo dân chủ và tự do của phát triển xã hội, một xã hội văn minh, hiện đại mà
9
lịch sử tìm thấy sự biểu hiện tốt nhất ở chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, đó
cũng chính là cách thức tổ chức xã hội tốt nhất (tối ưu) để làm cho Tổ quốc,
đất nước, quốc gia - dân tộc trường tồn, con người cá nhân và cộng đồng xã
hội được phát triển tự do, toàn diện mọi khả năng sáng tạo, được thụ hưởng
hạnh phúc vật chất, tinh thần trong một môi trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Ðó
cũng chính là hàm ý sâu xa trong một chân lý lớn mà Hồ Chí Minh nêu ra:
"Không có gì quý hơn độc lập tự do". Giá trị ấy cũng chính là chủ nghĩa xã hội,
một chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới, sáng tạo và hiện đại hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu hơn ai hết những khó khăn,
trở ngại trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối với một nước nông nghiệp
nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp, lại bần hàn cực khổ do bị áp bức, đô hộ của
thực dân, phong kiến. Chính vì vậy mà Người thường xuyên nhấn mạnh sự
cần thiết phải có thời gian để vừa cải tạo, vừa xây dựng, vừa đổi mới, vừa
phát triển, vừa làm, vừa học, rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận. Người khẳng định rằng, chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng khoa
học, phải có biện pháp chứ không chỉ là đường lối, phải có mục đích và cách
làm, tuyệt đối không được nóng vội, áp đặt chủ quan duy ý chí, hay giáo điều,
rập khuôn, áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước khác. Như vậy, lựa chọn
con đường xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nước ta, đặt cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo của cáh mạng vô sản, đã chấm dứt cuộc khủng hoảng hệ tư
tưởng và sự bế tắc đường lối của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở nước ta đầu thế kỷ XX.
Bốn là, Hồ Chí Minh có những đóng góp quan trọng với lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng và phát triển lý luận ấy lên
một trình độ mới, chẳng những có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với dân tộc
10
ta mà còn có ý nghĩa đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc khác trên thế giới.
Trong khi nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng
thuộc địa là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Song
Nguyễn Ái Quốc còn khẳng định thêm rằng: cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
các nước chính quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng
lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước. Đây
là một luận điểm mới mẻ, mang tính sáng tạo lớn, là sự phát triển Chủ nghĩa
Mác - Lênin trong điều kiện mới- chủ nghĩa thực dân.
C. Mác đã nêu ra một công thức tổng quát “hãy xoá bỏ nạn bóc lột
người, thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xoá bỏ”. Nhận thức
sâu sắc điều ấy, Lê-nin là người đầu tiên lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa
vào phong trào cách mạng. Với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại!”, Lênin coi cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc không chỉ là nhiệm vụ của cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn là
nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Tuy nhiên, Lênin
quan niệm rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc là mũi tiến công chủ yếu, giữ
vai trò quyết định, còn cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa chỉ là hậu bị
quân, phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
Sau này, nhờ sự phân tích sâu sắc bản chất của chủ nghĩa thực dân và
sức mạnh của các dân tộc thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận
mới: cách mạng giải phóng thuộc địa có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đó là một kết luận khoa học. Bởi vì,
Người cho rằng, thuộc địa là nơi tập trung mâu thuẫn của thời đại, là mắt
khâu yếu nhất trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, cách mạng
11
giải phóng thuộc địa là một cánh quân, một mũi nhọn tiến công của giai cấp
vô sản vào chủ nghĩa đế quốc, góp phần đánh bật cái nền móng của chủ nghĩa
đế quốc, giúp giai cấp công nhân ở chính quốc giải phóng cho mình, làm cho
chủ nghĩa đế quốc tan rã hoàn toàn. Đây là sự vận dụng sáng tạo chưa từng
thấy và là đóng góp vô giá bổ sung và phát triển lý luận Mác- Lênin phù hợp
với thời đại cách mạng mới.
Trong cuộc đấu tranh của mình, giai cấp công nhân tất yếu phải tổ chức
ra chính đnagr riêng của mình. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể thì sự tổ
chức ra một chính đảng cũng có những nét đặc thù cụ thể. Xuất phát từ tình
hình ở các nước tư bản, Lênin đã nêu luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Xuất phát từ tình
hình Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây
nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ,
vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé và phong trào còn non yếu, do đó phải kết
hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đây là những
luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
C. Mác, Ph. Ăngghen xác định, quần chúng làm cách mạng là giai cấp
công nhân, nông dân. Lênin, trong cách mạng vô sản Nga, xác định quần
chúng cách mạng là công nhân, nông dân và binh lính. Đối với Hồ Chí Minh,
lực lượng cách mạng là "cả quần chúng", bao gồm: giai cấp công nhân - giai
cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân-cùng với công nhân là gốc của
12
cách mạng, tiểu tư sản, trí thức, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc,
các cá nhân yêu nước, "Bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới". Quan
điểm này của Người không chỉ đúng trong cách mạng giải phóng dân tộc mà
còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.
Như vậy, tiếp theo C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin là những người có
công lớn trong nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, tìm ra quy
luật vận động của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lớn đi sâu
nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa thực dân, chỉ ra mắt khâu yếu nhất của dây
chuyền đế quốc chủ nghĩa là ở thuộc địa và dự đoán cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc địa có thể chủ động nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản ở chính quốc. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là minh chứng đầy
thuyết phục của kết luận ấy.
Bốn là, Hồ Chí Minh có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng
chuẩn mực đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng của người cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí
Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói,
đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
13
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết
định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều
do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không
có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao
trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Yêu thương con người. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất
toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là
một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu
thương rộng lớn cho những người cùng khổ, cho đồng bào, đồng chí của
Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai
hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu
nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Hơn thế, tình yêu
thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là
lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao;
14
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong
sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh
chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không
tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người,
với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản,
mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh
em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng
thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
15
Tóm lại, với phương pháp tư duy biện chứng nhuần nhuyễn và tinh thần
cách mạng triệt để, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều vận dụng sáng tạo, nhận
thức đổi mới, không câu nệ vào những vấn đề cơ bản, bằng những biện pháp
mềm dẻo, quá độ để phù hợp với trình độ mọi mặt của đất nước, cốt để nhân
dân hiểu và làm cách mạng thành công mà vẫn trung thành với Chủ nghĩa
Mác - Lênin. Qua đó, Người phát triển nhiều luận điểm mới rất sáng tạo, bổ
sung và làm phong phú lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với
Người, cách mạng luôn luôn sáng tạo và đổi mới, bởi nếu không có sự đổi
mới dựa trên nguyên tắc Mác- Lênin thì lý luận sẽ trở thành xơ cứng, kém sức
sống, không có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Đó là điều lý giải tại sao vào thập
kỷ 80, cùng với các nước xã hội chủ nghĩa, nước ta cũng rơi vào hủng hoảng
kinh tế- xã hội nhưng nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, có Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, chúng ta đã từng bước thoát ra
khỏi khủng hoảng và tiến lên.
Chúng ta đang bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, loài người
tiến bộ đang chứng kiến những diễn biến hết sức phức tạp của thế giới. Chủ
nghĩa xã hội với những bản chất tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại
tiến bộ đang hướng tới, những giá trị nhân văn cao cả của nó vẫn đầy sức
sống và tồn tại sinh động trong đời sống nhân loại. Sau những biến động lịch
sử cuối thế kỷ XX, các nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn
kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số nước tiến hành cải
cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn. Phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế từng bước được phục hồi.
Đối với nước ta, chúng ta đã thực hiện chính sách đổi mới đã 25 năm
nhưng nhiều vấn đề lý luận về sở hữu, về thời kỳ quá độ, về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, về xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
16
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội... vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu
để có câu trả lời thật sáng tỏ.
Trong một thế giới sống động và đầy thách thức, để đạt được mục đích
đặt ra mà vẫn giữ vững phương hướng chính trị, không phạm sai lầm về
đường lối, đặt ra cho chúng ta yêu cầu cấp bách là không những phải nắm
vững, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải
vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình mới. Để Vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, chúng
ta cần quán triệt một số yêu cầu cơ bản sau:
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
đòi hỏi phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những di sản tư
tưởng, lý luận của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh; phải đổi
mới tư duy để trở về với chính thực chất hệ thống luận điểm của các ông đã
hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó cần hết sức chú ý
đến những bổ sung, phát triển mà chính các ông phác họa trước những thay
đổi của thực tiễn. Điều quan trọng là phải đặt những luận điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong cả hệ thống như một chỉnh thể,
không được cắt xén. Chúng ta phải xác định rõ những luận điểm nào trước
đây đúng, nay vẫn đúng và về sau vẫn đúng; những luận điểm nào không còn
phù hợp do thực tiễn đã thay đổi; những luận điểm gì vốn đúng, nhưng bị
nhận thức và vận dụng sai; những luận điểm mới gì cần được phát triển, cần
nhận thức lại, bổ sung vào lý luận cách mạng...
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên
cơ sở khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận thách thức.
Không quá câu nệ và không được có thái độ cực đoan đối với những sai lầm
cũng như sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu để
từ đó phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội; cũng
17
không vì bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội mà biến nó
thành giáo điều, xơ cứng, trở thành bảo thủ, coi nhẹ yêu cầu đổi mới và phát
triển. Không nên phủ định, vứt bỏ những tiền đề, động lực đã thúc đẩy chủ
nghĩa tư bản phát triển, mà cần nhìn nhận đó là thành tựu của nền văn minh
nhân loại để có cách xử lý, vận dụng một cách hợp lý, có hiệu quả. Và
đương nhiên, chúng ta phải cương quyết phê phán những quan điểm đi
ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải dựa chắc trên cơ sở phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh
giá đúng đắn tính chất, hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng, phát
triển đất nước, dám nhìn thẳng vào những sai lầm để khắc phục và hoạch
định cho sự phát triển đi lên.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên
cơ sở thực tiễn xây dựng đất nước và những điều kiện cụ thể của thế giới
đương đại. Trong giai đoạn phát triển mới này, tình hình nước ta đã khác xa
so với Liên Xô, Đông Âu trước đây, hay Trung Quốc hiện nay và cũng khác
xa so với tình hình của Việt Nam 25 năm trước. Vì vậy, để nhận thức và đánh
giá rõ thực tế Việt Nam cần phải đặt những thay đổi của Việt Nam hiện nay
trong bối cảnh, xu thế phát triển chung của thời đại. Điều này đòi hỏi chúng ta
phải kiên định mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải luôn tìm
tòi sáng tạo những giải pháp đặc thù cho sự phát triển đất nước. Trong khi đòi
hỏi phải cảnh giác với nguy cơ chệch hướng, chúng ta cũng cần phải đặt ra
vấn đề chống chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ - một thứ nguy cơ có thể dẫn tới
những hậu quả tiêu cực đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải luôn
hướng tới mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất, đó là con người. Trong suốt
hành trình của mình, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không
18
bao giờ xa rời mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng
loài người. Đó là tư tưởng khoa học, mang tính nhân văn cao cả và phù hợp
với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên toàn thế
giới. Điều đó, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình thành những giải
pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta để từng
bước thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người toàn diện. Cương
lĩnh chính trị của Đảng ta khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển”; “Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công
dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập,
nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất...”. Từ định hướng chung ấy cần
phải cụ thể hóa nhanh chóng thành các chính sách, xây dựng những cơ chế xã
hội bảo đảm thực hiện các chính sách về con người, làm cho con người Việt
Nam ngày càng được hưởng cuộc sống tự do hơn, hạnh phúc hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen, toµn tËp, tËp 2, Nxb. CTQG, H.
2.
3.
4.
5.
6.
1997
ĐCSVN, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI.
Giáo tình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. CTQG, H. 2010
Giáo trình Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Nxb QĐND, H. 2002
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, H. 2010
Hå ChÝ Minh, toµn tËp, tËp 1, 2, 4, 9, 10, Nxb. CTQG,
H. 2002
7. Võ Nguyên Giáp, Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb QĐND,H. 1993