Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI NGHỆ AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.86 KB, 45 trang )

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG ĐOÀN
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài : Công tác xóa đói giảm nghèo và vai trò nhân viên công tác xã hội tại xã
Hưng Trung huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Giáng Vân
Lớp : CT9A
Địa điểm thực tập : UBND xã Hưng Trung,huyện Hưng Nguyên,tỉnh Nghệ An
Giảng viên hướng dẫn : Th.s Lê Thị Thủy
Kiểm huấn viên cơ sở : Lưu Thị Vân


PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Nước ta là một nước nông nghiệp, hơn 70% dân số sống bằng nghề nông, là quốc
gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa thời tiết khắc nghiệt, thiên tai lũ
lụt thường xuyên xảy ra với nhiều diễn biến phức tạp. Ngoài ra do quá trình cải
tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi thống nhất đất nước còn mắc những sai
lầm nghiêm trọng, kéo dài, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế chậm phát triển.
Để đất nước phát triển bền vững, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và
nâng cao, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện nhiều chính sách thích hợp cho quá
trình hội nhập kinh tế, trong đó có cả chính sách khinh tế lẫn chính sách xã hội.
Nếu chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng, hội nhập với kinh tế toàn cầu
thì chính sách xã hội nhằm đưa ra những biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội
nhằm đưa đất nước phát triển bền vững và công bằng xã hội. Một trong những


chính sách xã hội của nước ta là xóa đói giảm nghèo- đây là nhiệm vụ trọng tâm
hàng đầu và quan trọng của đất nước ta đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện
nay.
Đói nghèo cũng là một vấn đề mang tính toàn cầu, là nguyên nhân dẫn đến việc
bất ổn định về kinh tế và chính trị xã hội. Hiện nay tình trạng đói nghèo đang
được thế giới hết sức quan tâm, vì đây là vấn đề đang thực sự trở thành vật cản
của mọi sự phát triển chung của xã hội.
Đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu vượt thoát khỏi chiến tranh chưa
lâu, đang trong thời kỳ CNH, HĐH thì vấn đề xóa đói giảm nghèo đang là một
thách thức lớn và một yêu cầu bức thiết nhằm ổn định xã hội và xây dựng đất


nước phát triển bền vững. So với thế giới và khu vực thì Việt Nam là một nước
nghèo quy mô nền kinh tế đạt khoảng 186,2 tỷ USD (2014), với thu nhập bình
quân đầu người đạt khoảng 2.300USD/người/năm.Trước những năm 80 thu nhập
chỉ có 180/USD/người/năm, sau những năm 90 đã đạt được 280 USD/người/năm.
Năm 1992 xóa đói giảm nghèo đã được triển khai ở một số tỉnh, thành phố. Đến
năm 1994 đã trở thành một phong trào ở tất cả các địa phương trong cả nước. Từ
đó đến nay phong trào xóa đói giảm nghèo được các địa phương và các tổ chức
đoàn thể phát động để trợ giúp hộ nghèo về đời sống và sản xuất. Phong trào đã
đạt được những kết quả đáng kể. Nhiều nguồn lực đã được huy động vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo
Hưng Trung là một xã vùng trũng nghèo của huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, xã
thuần nông, người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và hoa màu, trình độ dân
trí chưa cao, công tác tuyên truyền và cơ hội tiếp cận nguồn thông tin mới còn hạn
chế nên quan niệm, tư tưởng nơi đây vẫn còn rất lạc hậu, đời sống người dân gặp
nhiều khó khăn.

Trong những năm qua, công tác XĐGN ở xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An được quan tâm đặc biệt nên đời sống của người nghèo được cải

thiện rõ rệt. Tuy nhiên, công cuộc xóa đỏi giảm nghèo tại địa phương cũng gặp rất
nhiều khó khăn, bất cập, nhất là trong việc thực hiện các chính sách xóa đói giảm
nghèo. Do đó rà soát việc thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo là một vấn
đề được đặt ra để nâng cao hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo tại địa
phương.
Với vai trò là một nghề trợ giúp hướng đến những đối tượng yếu thế, công tác xã
hội dành sự quan tâm đặc biệt đến người nghèo. Trong việc thực hiện các chính


sách xóa đói giảm nghèo nói riêng và trợ giúp người nghèo nói chung, nhân viên
công tác xã hội đóng một vai trò quan trọng. Vậy nhân viên công tác xã hội có
những vai trò gì, các vai trò đó được thể hiện như thế nào trong công cuộc xóa đói
giảm nghèo là một vấn đề cần được nghiên cứu.
Do đó tôi chọn đề tài Công tác xóa đói giảm nghèo và vai trò của nhân viên
công tác xã hội tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An làm đề
tài nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu.
Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội trong những năm qua nghèo
đói và XĐGN luôn là vấn đề được mọi thành viên xã hội quan tâm, đã có rất nhiều
nghiên cứu, bài viết nói về Xóa đói giảm nghèo và được thể hiện ở những khía
cạnh khác nhau.
Đầu tiên ta đề cập tới tác phẩm của Otto Graf Lambsdorlf (2015) Tự do biện pháp
xóa đói giảm nghèo hữu hiệu nhất. Theo ông nghèo đói ảnh hưởng đến tâm lí của
con người,nghèo đói sinh bạo lực, nghèo đói không thể thể hiện hết được giá trị
bản thân, tước quyền, kìm hãm sự phát triển con người về mặt xã hội. Phải công
nhận quyền tham gia của con người vào đời sống thực tế, là biện pháp tốt để thoát
nghèo.
Có thể kể đến tác phẩm của Hari Bansha Dulal (2013) Xóa đói giảm nghèo trong
biến đổi khí hậu( Poverty Reduction in a Changing Climate). Cuốn sách này cho
rằng các tác động của biến đổi khí hậu và nghèo đói ngày càng sâu sắc. Thách

thức xóa đói giảm nghèo trong thế kỷ hai mươi mốt không giống như những
người từ thế kỷ trước. Sự thay đổi này là do một phần không nhỏ của biến đổi khí
hậu và các thảm họa thời tiết khí hậu như lũ lụt và hạn hán, khắc nghiệt. Cường độ
và tần suất của biến đổi khí hậu dự kiến sẽ tăng trong những thập kỷ tới, ảnh
hưởng tới người nghèo trên toàn cầu.


Cũng là tác phẩm nước ngoài nhưng tác giả Mohammed Sharif (2008) với cuốn
sách “Xóa đói giảm nghèo - một phương pháp hiệu quả để soát dân số: Lý thuyết,
bằng chứng và chính sách (Poverty Reduction - an Effective Means of Population
Control: Theory, Evidence and Policy)” cũng cho rằng công tác xóa đói giảm
nghèo có liên quan mật thiết đến kiểm soát dân số, sự lựa chọn khả năng sinh sản
của người nghèo không phải là một kết quả của sự thiếu hiểu biết. Mục đích của
cuốn sách này nói về muốn kiểm soát được dân số trước tiên phải thực hiện tốt các
chính sách giảm nghèo. Cuốn sách kết thúc với một loạt các khuyến nghị chính
sách cho xóa đói giảm nghèo.
Ở tầm vĩ mô, một số nghiên cứu nghèo đói ở Việt Nam đã được thực hiện và có
đóng góp rất lớn tới việc đánh giá tình hình nghèo đói và đề ra những giải pháp
giảm nghèo phù hợp với điều kiện đất nước, có thể kể đến nghiên cứu của Ngân
hàng thế giới tại Việt Nam (1999) “Việt Nam tấn công nghèo đói- Báo cáo phát
triển của Việt Nam năm 2000- Báo cáo chung của nhóm công tác các chuyên gia
chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ chức phi chính phủ, Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt
Nam .
Không chỉ quan tâm đến những khía cạnh bên ngoài tác động đến đời sống người
nghèo mà một số nghiên cứu cũng đã đề cập đến tiếng nói của người nghèo trong
nước, tiêu biểu là bài nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1999) Việt Nam:Tiếng
nói của người nghèo
Ngoài ra, rất nhiều bài viết trong nước nói về xóa đói giảm nghèo có tác động to
lớn đến tăng trưởng kinh tế nước ta, điển hình là “Báo cáo phát triển Việt Nam
2004- Nghèo”. Báo cáo chỉ ra rằng xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam gắn liền với

mức tăng trưởng kinh tế cao. Chương trình cải cách hành chính công đã thiết lập
được một khuôn khổ cho việc cải thiện cung cấp dịch vụ cho người nghèo. Các


phương pháp xác định mức nghèo và xác định người nghèo cần được xem xét kĩ
lưỡng. Báo cáo còn khuyến nghị có sự tham gia của người dân và quan tâm hơn
chính sách công cho người nghèo.
Bên cạnh những bài viết mang tầm vĩ mô về tác động của xóa đói giảm nghèo đến
các vấn đề mang tính toàn cầu như khí hậu, dân số và tăng trưởng kinh tế thì cũng
có một số bài viết đi sâu vào phân tích thực trạng, nguyên nhân và các chính sách
về xóa đói giảm nghèo đã được thực hiện ở một số địa phương ở tầm vi mô mà
điển hình là của Nguyễn Ngọc Lâm (2007) “An sinh xã hội và các vấn đề xã hội”.
Một số nghiên cứu khác lại nói đến vấn đền nghèo đói và các giải pháp xóa đói
giảm nghèo phân chia theo các vùng miền trong cả nước, nêu lên tình trạng nghèo
và các phương hướng giảm nghèo phù hợp với khu vực sống của người nghềo, cụ
thể là nghiên cứu của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (2002)
“Xoá đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số- Phương pháp tiếp cận” Nhà xuất
bản Nông nghiệp và nghiên cứu của Qũy cứu trợ nhi đồng Anh (1999) “Báo cáo
đánh giá về nghèo khổ với sự tham gia của cộng đồng : Tình trạng nghèo ở thành
phố Hồ Chí Minh- Kết quả đợt đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia của
người dân tại 3 quận”
Thêm vào đó, Đảng và Nhà nước ta cũng ban hành các văn kiện và Nghị quyết
mới nhất để tăng cường hiệu quả việc thực hiện các chương trình mục tiêu XĐGN
trong giai đoạn tới, cụ thể là Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo
bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 với mục tiêu cải thiện và từng bước
nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng
nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.



Như vậy có thể thấy rằng, có rất nhiều nghiên cứu về đói nghèo nói chung và
XĐGN nói riêng. Tuy nhiên những nghiên cứu này thường chưa quan tâm đến ý
kiến đánh giá của người dân, của những người làm chính sách tại địa phương và
chưa có sự quan tâm đến vai trò của nhân viên công tác xã hội trong công tác xóa
đói giảm nghèo. Nghiên cứu của tôi sẽ sử dụng các lý thuyết và cách tiếp cận của
công tác xã hội để nghiên cứu, đánh giá về công tác xóa đói giảm nghèo của một
địa phương, từ đó nhằm phát hiện ra các vai trò của nhân viên công tác xã hội
trong công tác này tại địa phương. Đó là tính mới của đề tài
3.
3.1.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Ý nghĩa lí luận

Kết quả nghiên cứu giúp chúng ta làm sáng tỏ các lý thuyết trong công tác xã hội
chẳng hạn như lý thuyết nhu cầu, lý thuyết hệ thống...Từ kết quả nghiên cứu sẽ
xem xét phù hợp giữa các lý thuyết công tác xã hội và thực tiễn Việt Nam.
Nghiên cứu rà soát việc thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo tại Hưng
Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An làm rõ thực trạng của công tác XĐGN
tại địa phương.
Rà soát các chính sách về nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo
Kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ nguyên lý của hiệu quả công tác XĐGN có sự
tham gia của người dân và sự tham gia của chính quyền địa phương, vai trò của
NVCTXH trong quá trình thực hiện XĐGN bền vững
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp ích cho nhiều đối tượng. Cụ thể là:
Chính quyền địa phương: Thông qua nghiên cứu, chính quyền địa phương sẽ nắm
rõ hơn tình hình thực hiện công tác XĐGN tại địa phương, đúc rút kinh nghiệm,



khắc phục những thiếu sót và có giải pháp đúng đắn để đưa các chính sách XĐGN
đến với người dân một cách hiệu quả và giúp họ thoát nghèo bền vững.
Với người dân: Hiểu rõ hơn các chính sách, chương trình XĐGN mà Đảng và Nhà
nước thực hiện hỗ trợ người dân cũng như quyền lợi và trách nhiệm của bản thân
khi thực hiện. Bên cạnh đó, người dân hiều và thực hiện các hỗ trợ đó một cách
đúng đắn, hiểu quả và có ý chí vươn lên thoát nghèo bền vững.
Với NVCTXH: Nắm rõ hơn những hoạt động, vai trò mà NVCTXH phải thực hiện
trong quá trình hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo tham gia XĐGN hiệu quả
4.
Đối tượng khách thể phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xóa đói giảm nghèo và vai trò của nhân viên công tác xã hội (Nghiên
cứu trường hợp tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An)
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Chuyên viên Phòng LĐ-TB & XH huyện Hưng Nguyên
- Cán bộ ngành Lao động xã Hưng Trung
- Chủ tịch UBMTTQ xã Hưng Trung
- Các hộ nghèo tại địa bàn xã Hưng Trung
4.3.

Phạm vi nghiên cứu

+ Địa bàn nghiên cứu: Xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ 15/02/2016 đến 15/05/2016.
+ Nội dung nghiên cứu: Rà soát các chính sách và việc thực hiện các chính
sách XĐGN ở xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An đã thực hiện
như thế nào để có giải pháp khắc phục và nâng cao hiểu quả công tác XĐGN ở địa
phương; phân tích vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc nâng cao hiệu
quả của công tác xóa đói giảm nghèo

5.
5.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu


- Đề tài tập trung đánh giá, tìm hiểu thực trạng đói nghèo, nguyên nhân của đói
nghèo tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
- Rà soát, tìm hiểu việc thực hiện các chính sách XĐGN cho người nghèo tại địa
phương
-Tìm hiểu về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong công tác xóa đói giảm
nghèo tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An và đề ra một mô
hình phù hợp với thực tế.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao việc thực hiện các chính
sách XĐGN tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các lý thuyết được sử dụng trong dề tài
- Tìm hiểu thông tin liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo và có cái
nhìn tổng thể về địa bàn nghiên cứu cũng như kết quả hoạt động giảm
nghèo tại địa phương trong những năm qua
- Tìm hiểu và phân tích các hoạt động hỗ trợ gia đình nghèo và đánh giá tác
động của các hoạt động giảm nghèo tại địa phương.
- Phân tích làm rõ vai trò của CTXH trong xóa đói giảm nghèo, đưa ra kết
6.

luận cần thiết và đề xuất một số giải pháp khuyến nghị
Câu hỏi nghiên cứu.

- Thực trạng, nguyên nhân nghèo đói ở xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh

Nghệ An hiện nay như thế nào?
- Các chính sách XĐGN được triển khai ở địa phương mang lại những hiệu quả
tích cực gì giúp người dân thoát nghèo?
- Việc thực thi các chính sách hỗ trợ người nghèo có mặt hạn chế, yếu kém nào?
- Giải pháp nào nâng cao hiểu quả XĐGN ở địa phương?
- Nhân viên công tác xã hội có những vai trò gì trong công tác xóa đói giảm
nghèo?
7.

Giả thiết nghiên cứu


Giả thuyết 1 : Đất nước đang trong thời kì đối mới, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội có sự chuyển biến, Đảng và Nhà nước ban hành những chính sách, pháp luật
liên quan nhằm hỗ trợ người nghèo
Giả thuyết 2 : Các hoạt động chính sách xóa đói giảm nghèo có vai trò quan trọng
trong việc cải thiện đời sống gia đình thoát nghèo và vươn lên làm giàu tại xã
Hưng Trung, Huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
Giả thuyết 3 : Công tác xã hội góp phần nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm
nghèo tại địa phương.
8.
Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp luận chung
Khi thực hiện một nghiên cứu khoa học, người thực hiện phải có những phương
pháp nghiên cứu cụ thể. Và mỗi phương pháp lại có những phương pháp luận của
nó, tức là lí luận về phương pháp đó. Tuy nhiên phương pháp nghiên cứu nào cũng
theo phương pháp luận chung nhất đó chính là phương pháp triết học Mác Lêninluận chứng về mặt lí luận cho các phương pháp nhận thức khoa học bằng các quy
luật khách quan của tự nhiên, tư duy. Cơ sở phươg pháp học của Mácxit giúp
chúng ta có một cách nhìn tổng quát chung nhất về sự sinh ra, tồn tại và biến đổi
của các sự kiện, các quá trình, các mối quan hệ xã hội mà là đối tượng nghiên cứu.

Trong đó nổi bật lên là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử.
Phương pháp duy vật lịch sử đó là xem xét các sự vật, hiện tượng xã hội trong
từng thời kỳ giai đoạn nhất định khác nhau. Ở đây người nghiên cứu tìm hiểu các
chính sách xóa đói giảm nghèo ở xã Hưng Trung trong thời gian vừa qua, dựa trên
phương pháp này để nhận diện, phân tích đánh giá việc thực hiện các chính sách
đó trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các thời kỳ khác
nhau trước đó, từ đó có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn về việc thực hiện các


chính sách xóa đói giảm nghèo tại xã Hưng Trung- huyện Hưng Nguyên- tỉnh
Nghệ An.
Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng đặt sự vật hiện tượng trong tác động
qua lại với nhau và có mối quan hệ với các sự vật hiện tượng khác. Phương pháp
vận dụng một cách linh hoạt trong đề tài nghiên cứu công tác xóa đói giảm nghèo
phải đặt nó trong mối quan hệ qua lại với các yếu tố tự nhiên, sự phát triển kinh tế,
các vấn đề văn hóa và xã hội khác trên địa bàn nghiên cứu. Ta có thể thấy nguyên
nhân nghèo đói không chỉ do yếu tố chủ quan của bản thân người nghèo mà còn
bao gồm các yếu tố khác quan như: chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, điều kiện tự nhiên...Nghèo đói cũng kéo theo một số hệ quả tác động đến
đời sống kinh tế xã hội. Từ đó, khi đưa ra giải pháp ta có thể huy động nhiều
nguồn lực hỗ trợ từ chính quyền địa phương, từ các tổ chức đoàn thể xã hội khác...
8.2.
8.3.

Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp phân tích tài liệu

Phân tích tài liệu là phương pháp thu thập thông tin thứ cấp thông qua tài liệu sẵn
có.Phương pháp này gồm có phương pháp phân tích định tính và phương pháp

phân tích định lượng.
Với phương pháp này nhằm giúp tác giả phân tích các tài liệu có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu, từ đó có được những thông tin chính xác và hiệu quả nhất
phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Đọc và phân tích những tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Tình hình
đói nghèo hiện nay, báo cáo phát triển kinh tế- xã hội, các khuynh hướng xóa đói
giảm nghèo, các vấn đề về chất lượng cuộc sống và ngoài ra còn tham khảo các tài
liệu, các khóa luận, luận văn và các bài viết, các nghiên cứu trước đây về xóa đói


giảm nghèo...Các tài liệu liên quan khác như: Công tác xã hội với cá nhân, công
tác xã hội nhóm, phát triển cộng đồng...
8.4. Phương pháp quan sát
Quan sát là khả năng quan sát, bao quát điệu bộ, hành vi, cử chỉ, thái độ của con
người cũng như môi trường xung quanh, Việc quan sát này không chỉ dùng mắt
mà đòi hỏi NVXH phải dùng cả con tim và khối óc của mình để nhìn nhận và
đánh giá vấn đề.
Trong thời gian nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành quan sát hoạt động, sinh hoạt
của dân cư trong địa bàn xã, các sinh hoạt kinh tế, văn hóa của các hộ gia đình
nghèo trong xã. Việc quan sát này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân tích,
nhìn nhận vấn đề nghèo đói để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
8.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm mục đích tìm hiểu sâu
hơn về vấn đề, thăm dò, phát hiện tìm hiểu những chính sách và biện pháp mà
chính quyền đã triển khai trong việc thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác xóa đói giảm nghèo
Tôi đã tiến hành tiếp xúc, phỏng vấn với 20 hộ nghèo là đại diện cho hộ nghèo
trong tổng số 322 hộ nghèo ở xã và 3 cán bộ làm chính sách người nghèo và cán
bộ đoàn thể từ huyện và xã. Cơ cấu đối tượng phỏng vấn cụ thể:
- 1 cán bộ làm chính sách xã

- 1 lãnh đạo UBMTTQ xã
- 1 chuyên viên phòng LĐ-TB & XH huyện Hưng Nguyên
- 20 hộ nghèo trong địa bàn xã Hưng trung
Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.
1.1.

Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu.
Lý thuyết nhu cầu của Maslow

Abraham Maslo(1908-1970), nhà tâm lý học người Mỹ, được thế giới biết đến
như là nhà tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic
psychology) bởi hệ thống lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of needs)
của con người. Ngay từ sau khi ra đời, lý thuyết này có tầm ảnh hưởng khá rộng
rãi và được ứng dụng ở rất nhiều lĩnh vực khoa học.
Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật
tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu
cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
Trong thời gian đầu của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người
theo 5 cấp bậc:
-

Nhu cầu sinh lý và vật chất

-

Nhu cầu an toàn


-

Nhu cầu về tình cảm, xã hội

-

Nhu cầu được tôn trọng

-

Nhu cầu được thể hiện mình

Trong đề tài này sinh viên đã ứng dụng 5 nấc thang nhu cầu cơ bản của con người
trong quá trình phát triển. Theo Maslow thì các nhu cầu trên được sắp xếp theo vị
trí tăng dần và nhu cầu đầu tiên là cơ sở nền tảng để thực hiện các nhu cầu tiếp
theo. Cũng theo Maslow thì ông cho rằng nhu cầu quan trọng nhất trong 5 nhu cầu
trên là nhu cầu sinh lý và vật chất. Nhu cầu này thể hiện thông qua các hoạt động
như: ăn uống, ngủ, không khí để thở, đi lại, vệ sinh, hoạt động tình dục...Đây là
những nhu cầu không thể thiếu và mang tính bản năng của con người. Ông cũng
cho rằng, những nhu cầu cao hơn sẽ không xuất hiện nếu như những nhu cầu cơ


bản này không được thỏa mãn. Và nó sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người
hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Đối với nhóm người nghèo nhu cầu đầu tiên họ mong muốn được đáp ứng là nhu
cầu và vật chất, để đảm bảo được một cuộc sống bình thường tạo điều kiện vươn
lên thực hiện các nhu cầu cao hơn. Với người nghèo thì nhu cầu vật chất ít khi
được đáp ứng đầy đủ bởi những thiếu thốn về vật chất như: không đủ ăn, nước
uống không được đảm bảo, sống trong những ngôi nhà tranh tre tạm bợ và thậm
chí là sống tạm không có nhà để ở; phương tiện đi lại khó khăn. Bên cạnh đó

người nghèo lại thường ở những nơi mà kinh tế kém phát triển, văn hóa, phong
tục tập quán sản xuất còn lạc hậu. Những nhu cầu vật chất cơ bản đó không được
đáp ứng đầy đủ cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói quanh năm,
khó thoát nghèo kéo theo sinh lý của người nghèo cũng không phát triển một cách
bình thường.
- Các nhu cầu an toàn của người nghèo cũng không được đảm bảo bởi họ luôn
phải sống trong cảnh bấp bênh, có những người nghèo sống bên ranh giới giữa sự
sống và cái chết. Ốm đau, dịch bệnh, thiên tai luôn rình rập cuộc sống của người
nghèo, các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe và y tế không được đáp ứng bởi vì
không có đủ kinh tế để khám chữa bệnh. Nghèo đói cũng kéo theo những hệ quả
như: Trình độ nhận thức của người nghèo thấp, ý thức về bản thân và người thân
không cao bên cạnh đó còn tâm lý tự ti, mặc cảm...nên nhu cầu an toàn không
được đảm bảo.
Nhu cầu hòa nhập với cộng đồng cũng có phần hạn chế, bởi chính người nghèo họ
không dám đối mặt với bản thân mình. Họ mang tâm lý tự ti, mặc cảm thì làm gì
có được tiếng nói trong xã hội. Và họ cũng là người thường sống ở những nơi có


điều kiện kinh tế khó khăn là vùng sâu, vùng xa. Nên trình độ dân trí thấp nên
việc có tiếng nói hay hòa nhập với xã hội thấp và khó thực hiện được.
Người nghèo ít có điều kiện thể hiện những năng lực, tài năng của mình. Có
những người nghèo có năng lực về một số lĩnh vực nhưng họ lại không có điều
kiện để phát triển năng lực đó vì các nhu cầu trước đó chưa thực hiện. Và người
nghèo tuy có năng lực nhưng họ luôn mang tâm lý tự ti, mặc cảm nên đã hạn chế
và kìm hãm năng lực đó lại ít có khả năng để hiện khẳng định mình.
Công tác xã hội với người nghèo nhằm hướng tới mục đích lớn nhất là giúp người
nghèo đáp ứng tốt nhất các nhu cầu cơ bản của cuộc sống trên cơ sở giúp họ tự
xây dựng được một cuộc sống ổn định cho chính mình và có ý chí thoát nghèo bền
vững.
1.2.


Lý thuyết hệ thống

Trong tiến hành thực hành công tác xã hội, nhân viên công tác xã hội phải thực
hiện nhiều kĩ năng khi làm việc với thân chủ của mình. Lí thuyết hệ thống chính là
một trong những lí thuyết cơ bản được vận dụng trong công tác xã hội.
Theo định nghĩa của “ Lý thuyết công tác xã hội hiện đại”:
“ Hệ thống là tập hợp các thành tố được sắp xếp cớ trật tự và liên hệ với nhau để
hoạt động thống nhất”
Theo lí thuyết này con người phụ thuộc vào những hệ thống trong môi trường xã
hội trực tiếp của họ. Công tác xã hội chú ý đến 3 hệ thống:
-

Các hệ thống thân tình hay tự nhiên như gia đình, bạn bè, người thân hay

đồng nghiệp.


-

Các hệ thống chính thức như các nhóm bạn bè, đồng nghiệp, hay các tổ

chức công đoàn.
-

Các hệ thống tập trung như của các tổ chức xã hội như bệnh viên, các tổ

chức đoàn thể…
Lý thuyết hệ thống sinh thái trong công tác xã hội phỏng theo những khái niệm
của thuyết hệ thống và sinh thái. Trong xã hội, mỗi cá nhân đều có môi trường và

hoàn cảnh sống. Họ luôn chịu tác động của các yếu tố của môi trường và chính
bản thân cũng có tác động ngược lại môi trường, Như vậy, cá nhân trong môi
trường và các yếu tố có mối quan hệ trực thuộc lẫn nhau. Do vậy để tìm hiểu
người nghèo ở các góc độ sống cả vật chất và tinh thần thì chúng ta phải tìm hiểu
các hệ thống môi trường xung quanh tác động đến cuộc sống của họ. Tuy nhiên để
đạt được hiểu quả giúp người nghèo giải quyết vấn đề của mình, nhân viên CTXH
cần phải làm việc ở trên 3 cấp độ: cá nhân người nghèo, gia đình là hộ nghèo,
cộng đồng là cộng đồng người nghèo.
Các chính sách hỗ trợ giúp người nghèo thoát nghèo cũng cần được xem xét một
cách toàn diện dựa trên phân tích sự tác động hiệu quả hay không hiệu quả giữa
các chính sách với nhau. Các chính sách XĐGN phải tạo nên một hệ thống thống
nhất giúp người nghèo đáp ứng được các nhu cầu về vật chất và tinh thần trong
công cuộc thoát nghèo của bản thân.
Với người nghèo, cộng đồng nghèo thì khi nghiên cứu chúng ta không thể tách
biệt nhóm người nghèo, cộng đồng nghèo này ra khỏi các yếu tố khác để xem xét,
đánh giá và giải quyết được mà chúng ta cần đặt nó vào một hệ thống các mối
quan hệ qua lại, bổ sung ảnh hưởng đến nhau. Đó có thể là: Môi trường sống của
người nghèo, các chính sách của Đảng và Nhà nước về XĐGN, trình độ dân trí,
nhận thức và năng lực của người dân, những nỗ lực của địa phương về xóa đói


giảm nghèo cũng như đặt chúng trong mối quan hệ với các tổ chức, đoàn thể,
chính quyền. Để tạo nên một hệ thống mang tính chặt chẽ và logic.
2.
2.1.


Thao tác hóa một số khái niệm liên quan
Khái niệm nghèo đói
Khái niệm nghèo khổ của Liên Hợp Quốc


Liên hợp quốc dùng khái niệm nghèo khổ và nhận định nghèo khổ theo bốn khía
cạnh: thời gian, không gian, giới và môi trường.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống dưới mức
“chuẩn” trong một thời gian dài. Cũng có một số người nghèo khổ “ tình thế”,
chẳng hạn như người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế
hoặc do thiên tai, địch họa, tệ nạn xã hội, rủi ro…
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nới có ¾ dân số sinh sống.
Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển
cũng có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất
do phụ nữ làm chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ
khổ hơn nam giới.
Về môi trường: Phần lớn người nghèo đều sống ở vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở
đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều ngày càng trầm trọng.
Từ nhận dạng trên Liên hợp quốc đưa ra hai khái niệm chính về nghèo khổ: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối.


Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được thụ hưởng

những nhu cầu cơ bản rất tối thiểu để duy trì cuộc sống.




Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy

đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu; Nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống là
những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ sinh, y tế và

giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao
gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
 Định nghĩa nghĩa nghèo đói của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội Châu Á- Thái
Bình Dương (ESCAP)
Tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đưa ra định nghĩa chung về đói nghèo
như sau: “ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng hoặc
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của
địa phương”.


Định nghĩa đói nghèo ở Việt Nam

Chính phủ Việt Nam đã khẳng định tại Chiến lược tăng trường toàn diện và xóa
đói giảm nghèo là: “Việt Nam thừa nhận khái niệm nghèo đói do ESCAP đưa ra
tại Hội Nghị chống đói nghèo năm 1993”
*Đói: “Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những
bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đút bữa từ 1 đến 2 tháng. Thường vay nợ của
cộng đồng và thiếu khả năng hoàn trả”
*Nghèo:“Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một phần
nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và mức thu nhập hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện”


*Người nghèo: “Là người thiếu một cách trầm trọng cơ hội lựa chọn và khả năng
tham gia vào cuộc sống KT-XH của đất nước”.
* Hộ nghèo: “Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới ngưỡng
nghèo” (Ngưỡng nghèo: Là khái niệm dùng để đo mức độ nghèo hay còn gọi là

chuẩn nghèo
2.2. Khái niệm xóa đói giảm nghèo
XĐGN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình phát triển
KT-XH, từ năm 1998 XĐGN đã trở thành mộ trong sáu chương trình mục tiêu
Quốc gia, nhằm hỗ trợ trực tiếp xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo các điều kiện
cần thiết để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống, vươn lên thoát
nghèo, tạo môi trường thuận lợi để xóa đói bền vững.
Một số khái niệm liên quan đến XĐGN:
Chính sách XĐGN: Là một hệ thống gồm nhiều chính sách đồng bộ trên nhiều
lĩnh vực KT-XH, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần. Trong đó chinh sách phát
triển kinh tế là quan trọng nhất.
Chương trình quốc gia: Là tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ
về KT-XH, khoa học công nghệ, môi trường, cơ chế chính sách tổ chức thực hiện
hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển KT-XH chung
của đất nước trong một thời gian nhất định.
2.3

Phương pháp xác định chuẩn nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời

gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội của từng
vùng và từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và nó
biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và nhu cầu của con người theo


từng giai đoạn lịch sử. Bởi vậy, với từng thời kỳ khác nhau, Đảng và Nhà nước ta
lại đưa ra những mức xác định chuẩn nghèo khác nhau, phù hợp với sự phát triển
KT-XH của đất nước, cụ thể như:
Giai đoạn trước năm 1995. Ngưỡng nghèo đói được quy định: Hộ nghèo đói là
hộ có thu nhập bình quân đầu người bằng tiền có giá trị tương đương 15kg gọa tẻ

thường/tháng.
Từ năm 1996 đến 2000 chuẩn nghèo đói được áp dụng có sự thay đổi như sau:
Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13kg gạo/tháng ( áp dụng cho
toàn quốc). Hộ nghèo là hộ có thu nhậ bình quân đầu người dưới 15kg gạo/tháng
(tương đương 55.000 đồng/ tháng) đối với nông dân miền núi và hải đảo; Dưới
20kg gạo/tháng (tương đương 70.000 đồng/tháng) đối với nông thôn đồng bằng
trung du; Dưới 25kg gạo/tháng( tương đương với 90.000 đồng/ tháng) đối với
thành thị.
Từ năm 2001-2005 theo Quyết định số 143/2000/QĐ/LĐ-TBXH ngày
01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Chuẩn nghèo
được xác định như sau: Hộ nghèo ở xã nông thôn miền núi, hải đảo là hộ có thu
nhập

bình

quân

đầu

người

dưới

100.000

đồng/người/tháng

hay

1.200.000đ/người/năm. Hộ nghèo ở thành thị có thu nhập bình quân đầu người

dưới 150.000đ/người /tháng hay 1.800.000đ/người/năm.
Từ năm 2006-2010 chuẩn nghèo một lần nữa được thay đổi như sau: Đối với
khu vực nông thôn, hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ
200.000đ trở xuống. Đối với khu vực thành thị, hộ nghèo là hộ có thu nhập bình
quân đầu người một tháng 260.000đ trở xuống.
Thực hiện Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ về tổ chức tổng điều tra hộ nghèo trên toàn quốc, phục vụ cho việc


thực hiện các chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2011-2015 theo tiêu chí điều tra
như sau: hộ nghèo ở khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
ở khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Hộ cận
nghèo ở khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đến
520.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo; ở khu vực thành thị: những hộ có mức
thu nhập bình quân từ 501.000 đến 650.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
*Huyện nghèo nhất: Ngày 27/12/2008 Nhà nước ban hành Nghị Quyết
30a/2008/NQ-CP ( Nghị quyết về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vũng đối với 61 huyện nghèo) xác định “ Huyện nghèo nhất là những huyện có tỉ
lệ nghèo cao trên 50% dân số”.
* Xã nghèo nhất :- Xã đặc biết khó khăn thuộc chương trình 135 là xã đáp
ứng 05 tiêu chí sau:
Vị trí của xã ở xa trung tâm KT-XH, xa quốc lộ giao thông đi lại khó khăn.
Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn nhiều tập lạc hậu.
Trình độ, công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu chủ yếu mang tính chất tự cung tự cấp
Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, mức sống thấp.
Cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Chưa đủ các công trình thiết yếu như: Điện, đường,
trường, trạm, nước sạch…
Xã nghèo: Là xã đáp ứng hai tiêu chí sau: Tỷ lệ hộ nghèo trên 25% dân số, chưa

đủ 3/6 công trình hạ tầng thiết yếu (điện, đường, trường, trạm, nước sạch…) biểu
hiện cụ thể như sau:Dưới 30% số hộ được dùng nước sạch.Chưa có đường ô tô tới


trung tâm xã hoặc đã có những không đi lại được quanh năm.Chưa có trạm xã
hoặc có nhưng tạm bợ,Chưa có chợ hoặc mới có chợ tạm
2.4. Chính sách và chính sách xã hội
Chính sách nếu hiểu một cách đơn giản chính là phương trình hoạt động của các
chủ thể, nhà lãnh đạo hay người quản lí đề ra để giải quyết 1 vấn đề nào đó trong
phảm vi và thẩm quyền của mình
Từ khái niệm về chính sách chúng ta có thể phân loại chính sách như sau:
Theo chức năng: gồm chính sách điều tiết, phân phối, phân phối lại (bảo hiểm,
phúc lợi xã hội…), chính sách phát triển (khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo,
sử dụng, bồi dường nhân tài …)
Theo lĩnh vực tác động tới các mặt đời sống xã hội: gồm chính sách kinh tế, an
sinh xã hội, văn hóa- nghệ thuật, an ninh quốc phòng, đối ngoại…
Theo cấp độ ban hành: chính sách của khu vực, địa phương (không trái với chính
sách của nhà nước, pháp luật)
Theo quy mô tác động:
+ Chính sách vi mô: bao trùm toàn bộ đời sống xã hội
+Trung mô: kết hợp giữa vi mô, giải quyết trong một phạm vi nhất định, ở một số
lĩnh vực nhất định liên quan nhau
+ Vi mô: khu vực nhỏ của đời sống xã hội, lĩnh vực nhỏ của đời sống xã hội
Theo thời gian thực hiện; dài hạn (trên5 năm), trung hạn (3 đến 5 năm), ngắn hạn
(dưới 2 năm)
Theo quy mô vấn đề đặt ra: chính sách chủ yếu và thứ yếu


Theo Trần Đình Hoan: “Là chính sách áp dụng cho những nhóm người xã hội yếu
thế, rủi ro, hiểm nghèo, hẫng hụt, liên quan nhiều đến lĩnh vực, ngành Lao động

thương binh xã hội phụ trách. Là hàng loạt chínnh sách được thể chế bằng pháp
luật thành một hệ thống quan điểm chủ trương, phương hướng, biện pháp để giải
quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan
tạo nên những công bằng xã hội, phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn
định, phát triển xã hội.”.
2.5. Khái niệm Công tác xã hội
Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW - 1970): "Công
tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng
cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những
điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Định nghĩa của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7
năm 2000 tại Montréal, Canada (IFSW): "Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay
đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và
giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái,
dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác
xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân
quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề".
Theo Foundation of Social Work Practice: Công tác xã hội là một môn khoa học
ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt qua những khó khăn của họ và đạt được một
vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội. Công tác xã hội được coi như là một môn
khoa học vì nó dựa trên những luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã
được chứng minh. Nó cung cấp một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn và xây
dựng những kỹ năng chuyên môn hoá.


Theo Lê Văn Phú (2004) “Công tác xã hội là phương pháp thực hành quan trọng
trong quá trình giúp người nghèo thoát nghèo bền vững. Việc ứng dụng những
phương pháp, kĩ năng chuyên nghiệp trong công tác xã hội sẽ trực tiếp giúp người
dân ý thức được tầm quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo, có ý chí thoát
nghèo thật sự và vận dụng các hỗ trợ của Nhà nước đúng đắn và hiệu quả. Xóa đói

giảm nghèo muốn hiểu quả cao phải kết hợp hài hòa giữa nhu cầu người nghèo và
cá chính sách hỗ trợ cho người nghèo”
2.6. Khái niệm Vai trò
Theo Robertsons “ Vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và
nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Khái niệm vai trò xã hội
bắt nguồn từ khái niệm vai diễn trên sân khấu. Vai diễn trên sân khấu đòi hỏi diễn
viên phải nhập tâm, bắt chước và học tập đóng vai của những nhân vật được đạo
diễn phân đóng. Còn vai trò xã hội không có tính chất tưởng tượng, bắt chước
cứng nhắc và nhất thời. Những hành vi thực tế của một người nhờ học hỏi được
những kinh nghiệm, lối sống, tác phong từ trước đó trong cuộc sống. Vai trò xã
hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các
hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời
họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò
của họ. Mỗi cá nhân có vô vàn vai trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có bấy
nhiêu vai trò xã hội.”
2.7. Công tác xã hội với người nghèo
Theo Đỗ Huy Hoàng (Bài giảng CTXH với người nghèo, 2003): “Công tác xã hội
với người nghèo là tiến trình tổ chức thực hiện của các tác viên công tác xã hội
với người nghèo và cộng đồng của họ bằng việc thúc đẩy nhận thức, nâng cao
năng lực, khả năng tự lực vươn lên của người nghèo trong việc tìm ra nguyên


nhân của sự nghèo đói, xác định ý thức, trách nhiệm, khả năng và tự lựa chọn giải
pháp của bản thân và khai thác các yếu tố có sẵn sàng giúp đỡ cho cộng đồng để
thoát nghèo. Mặt khác tác viên phải huy động tài nguyên tính sẵn sàng của cộng
đồng giúp đỡ người nghèo thoát nghèo, tạo ra sự hài hòa của quan hệ người nghèo
với cộng đồng”
2.8. Vai trò của Nhân viên công tác xã hội
Theo Mai Thị Kim Thanh (2007) “Nhân viên xã hội là nhưng người có ý thức, tay
nghề vững chắc (kỹ năng chuyên môn). Họ là cầu nối giữa đối tượng với các

nguồn hỗ trợ của xã hội và là người có trách nhiệm kết nối những việc làm của
các phòng ban có liên hệ tới đối tượng để có được sự thống nhất nhằm hiệu quả
tối đa nguồn hỗ trợ cho các đối tượng.Chính vì thế nhân viên xã hội có vai trò
trách nhiệm rất lớn trong hoạt động sự nghiệp của mình.” Dưới đây là vai trò và
trách nhiệm của người nhân viên xã hội:
- Người tạo khả năng (Enabler): Giúp khách hàng có khả năng đương đầu với tình
huống hay áp lực quá độ. Nhân viên CTXH truyền tải sự hy vọng, giảm bớt sự cản
trở và mâu thuẫn, phát hiện và quản lý cảm xúc, nhận diện và củng cố năng lực
thân chủ cũng như khả năng tiếp cận xã hội, chia nhỏ vấn đề thành từng phần để
giải quyết nó dễ dàng hơn và duy trì sự tập trung và mục tiêu và ý nghĩa của việc
đạt được chúng. (Barker, 1995)
- Người giáo dục (Educator): Vai trò giáo dục liên quan đến việc cung cấp thông
tin và dạy các kĩ năng cho khách hàng và các hệ thống khác. Để trở thành người
giáo dục hiệu quả, nhân viên CTXH đầu tiên phải có kiến thức. Thêm vào đó,
nhân viên CTXH phải là người giao tiếp để thông tin được truyền tải rõ ràng và dễ
hiểu với khách hàng hay hệ thống vĩ mô. (Zastrov and Kirst-Ashman, 1997).


×