I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn tình huống
Đất đai là một loại tài nguyên quý giá đối với con người và sự phát triển
của xã hội. Đặc biệt hơn, đối với mỗi con người thì quyền sở hữu đất là một tài
sản mang ý nghĩa to lớn. Có những người trong xã hội từ khi trưởng thành trở
lên phải cố gắng phấn đấu nhiều năm thậm chí gần như cả cuộc đời mình cũng
chỉ để mong có một mảnh đất để an cư lạc nghiệp. Như vậy có thể thấy đất đai
có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống. Giá trị của đất đai càng lớn
kéo theo đó là một hệ quả tất yếu của các hành vi vi phạm quy định về đất đai,
tranh chấp đất đai ngày càng phổ biến và mức độ phức tạp ngày càng tăng cao.
Nhà nước các cấp đã rất cố gắng
trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm giữ ổn định tình hình chính
trị, xã hội. Chính vì thế, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất
đai ngày càng được sữa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn. Chính sách, pháp luật về
đất đai của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay đổi tương ứng với từng giai đoạn
phát triển. Tuy nhiên tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng tranh chấp đất, khiếu nại, tố cáo về việc quản
lý và sử dụng đất có xu hướng gia tăng. Việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa
công dân với công dân và công dân với cơ quan nhà nước của các cơ quan có
thẩm quyền còn thiếu hiệu quả, còn thiếu Ích Mỹ, đồng bộ trong cách giải quyết.
Có thể khẳng định rằng, việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay là một
công việc phức tạp, khó khăn và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết các
tranh chấp dân sự nói chung. Bản thân là một cán bộ địa chính xã để vận dụng
những kiến thức đã tiếp thu từ khóa học đào tạo nghạch chuyên viên tại trường
Chính trị Trần Phú, bản thân xin lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp đất đai
giữa hai hộ có đất liền kề tại xã Mai Trang, huyện Lộc Hồ, Hà Tĩnh” để phản
ánh một góc nhìn chân thực trong công tác quản lý và sử dụng đất tại tại địa
phương.
Những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước không
đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy đủ khả
1
năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của từng
vấn đề… làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng do thời gian ngắn, kinh nghiệm bản
thân có hạn, nên bài viết này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong
được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn, nhằm
áp dụng với tình hình thực tiễn của một vấn đề từ đó đem lại hiệu quả trong
công tác quản lý tại địa phương được hoàn thiện trong việc giải quyết cho nhân
dân được hợp tình hợp lý.
2. Kết cấu của tiểu luận
- Mô tả tình huống
- Căn cứ pháp lý để phân tích, giải quyết tình huống
- Phân tích tình huống, nguyên nhân và hậu quả tình huống
- Mục tiêu xử lý tình huống
- Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án xử lý tình huống
- Lập kế hoạch phương án lựa chọn
- Kết luận, kiến nghị
II. NỘI DUNG
1. Mô tả tình huống
Vào năm 2017, Bà Hoàng Thị Quý nguyên quán tại thôn Ích Mỹ xã Mai
Trang huyện Lộc Hồ có xảy ra tranh chấp đất đai với hộ liền kề là bà Nguyễn
Thị Vân với nội dung như sau:
Bà Quý được nhận thừa kế một mảnh đất từ cha mẹ (đã mất) có vị trí tại
thôn Ích Mỹ, xã Mai Trang, huyện Lộc Hồ. Mảnh đất được gia đình Bà Quý sử
dụng ổn định từ năm 1984. Từ năm 1992 Bà Quý và gia đình chuyển đi nơi khác
sinh sống và làm ăn nên mảnh đất được thừa kế bỏ không.
Năm 1995 hộ bà Nguyễn Thị Vân (hộ liền kề nhà Bà Quý) tiến hành xây
dựng lại nhà ở trên mảnh đất của gia đình mình, do có nhu cầu sử dụng phần
diện tích đất phía trước nhà vào mục đích chăn nuôi nên Bà Vân đã xin sử dụng
2
nhờ 1 phần diện tích đất công (cạnh đường giao thông liên thôn) phía trước
mảnh đất nhà Bà Quý để xây dựng tạm chuồng trại chăn nuôi. Tại thời điểm đó
do chưa có nhu cầu sử dụng đến nên Bà Quý đồng ý cho Bà Vân sử dụng phần
diện tích phía trước thửa đất nhà Bà Quý. Bà Vân hứa sau này khi nhà Bà Quý
có nhu cầu sử dụng đến sẽ trả lại mặt bằng. Việc trao đổi giữa Bà Quý và Bà
Vân chỉ được thực hiện bằng lời nói. Trong quá trình sử dụng nhờ phần diện tích
đất của Bà Quý, Bà Vân đã tiến hành xây dựng công trình phụ, chuồng bò vào
phần diện tích đất phía trước mảnh đất nhà Bà Quý và còn lấn sang phần móng
đất nhà Bà Quý.
Đến năm 2017 gia đình Bà Quý trở về quê hương và xây dựng lại nhà ở
trên mảnh đất của mình để sinh sống lâu dài, khi tiến hành đào móng xây dựng
thì Bà Quý có phát hiện ra công trình phụ của nhà Bà Vân đã xây đè lên 1 phần
móng đất cũ của nhà Bà Quý. Khi phát hiện ra điều này Bà Quý yêu cầu nhà Bà
Vân tháo dỡ phần công trình xây dựng để Bà Quý xây dựng phần cổng nhà và
tường rào thì gia đình Bà Vân không đồng ý phá rỡ với lý do phần diện tích đất
gia đình Bà Vân đang sử dụng Bà Vân đã thực hiện nghĩa vụ tài chính đầy đủ
với nhà nước và phần diện tích đất đang sử dụng đó đã được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Bà Vân.
Do nhiều lần nói chuyện tình cảm với Bà Vân nhưng không có kết quả
nên vào tháng 12 năm 2017 Bà Quý làm đơn gửi UBND xã Mai Trang đề nghị
giải quyết vụ việc Bà Vân hộ liền kề xây dựng trụ cổng lấn đất và công trình phụ
lấn chiếm trước mặt tiền phần đất nhà Bà Quý.
UBND xã Mai Trang đã nhận đơn và tiến hành giao cho cán bộ địa chính
xã trực tiếp địa bàn làm việc với 2 hộ dân và xây dựng khung thời gian địa điểm
làm việc liên quan đến vụ tranh chấp và đưa ra phương án hòa giải.
Sau đó lãnh đạo UBND xã Mai Trang tiến hành làm việc với các bên liên
quan, nhằm thẩm định hồ sơ xác định địa điểm tranh chấp để tham mưu cho ban
hòa giải. Các bên làm việc trình bày sự việc liên quan:
- Bà Hoàng Thị Quý trình bày: Nguồn gốc thửa đất do cha mẹ chồng để
lại cho chồng (chồng là Nguyễn Quốc Kim đã chết), thửa đất được gia đình Bà
3
Quý sử dụng liên tục từ năm 1984, diện tích bao nhiêu Bà Quý không biết rõ,
mà chỉ biết là phía bắc giáp đất Bà Vân, phía đông giáp đường liên thôn, phía
tây giáp đường cụt vào nhà Bà Quýnh. Bà Quý sinh được 3 người con, gồm:
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyễn Quốc Hiền
- Nguyễn Thị Thảo
Năm 2012, các anh em trong gia đình Bà Quý tiến hành chia đất cho hai
người con là Nguyễn Quốc Hiền, Nguyễn Quốc Tuấn (lúc đó chồng bà đã chết).
Việc chia đất chỉ nói miệng chứ không thể hiện trên giấy tờ. Thời gian xảy ra
tranh chấp đất giữa gia đình Bà Quý và gia đình Bà Vân từ năm 1995, tại thời
điểm đó nhà Bà Vân xây dựng công trình phụ có chiều dài 4m, chiều rộng 2m
nằm trên đất công (đường giao thông liên thôn) trước thửa đất nhà Bà Quý,
tường xây công trình phụ nhà Bà Vân xây lấn lên phần móng nhà Bà Quý
khoảng 50cm. Lúc đó gia đình Bà Quý có phản đối việc xây dựng thì Bà Vân
nói rằng xin làm nhờ để sử dụng tạm nếu sau này gia đình Bà Quý có nhu cầu sử
dụng thì sẽ trả lại mặt bằng. Năm 2012 gia đình Bà Vân tiếp tục xây dựng trụ
cổng (kích thước khoảng 60x60cm) lấn sang trước mặt tiền thửa đất nhà Bà
Quý. Năm 2017 gia đình Bà Quý tiến hành xây nhà và có yêu cầu Bà Vân tháo
dỡ công trình thì gia đình Bà Vân không tháo dỡ và có nói rằng phần diện tích
nhà Bà Vân đang sử dụng đã thực hiện nghĩa vụ tài chính cho xã và đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên con trai của Bà Quý là ông
Nguyễn Quốc Hiền khẳng định mình không hề ký tên vào biên bản xác định
ranh giới, mốc giới. Vì vậy nếu gia đình nhà Bà Vân được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì Bà Quý yêu cầu xác minh chữ ký trong biên bản xác định
ranh giới, mốc giới kích thước thửa đất của gia đình bà Nguyễn Thị Vân.
Bà Nguyễn Thị Vân trình bày như sau:
Nguồn gốc thửa đất do cha ông để lại. Thửa đất được Bà Vân sử dụng liên
tục từ năm 1982, diện tích là 549.1m2 . Năm 1995, gia đình Bà Vân xây dựng
công trình phụ (chiều dài theo đường liên xã là 3.7m, rộng khoảng 2m). Tại thời
điểm xây dựng gia đình Bà Vân xây dựng trụ công trình phụ có chèn lên phần
4
đất của nhà Bà Quý với kích thước khoảng 30cmx30cm, trụ cao khoảng 2m và
giếng nước. Năm 1995, gia đình Bà Vân được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở thửa số 451, tờ bản đồ số 06, diện tích là 549.1 m2 mang tên hộ bà
Nguyễn Thị Vân. Năm 2013, gia đình Bà Vân được UBND huyện Lộc Hồ cấp
đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất thửa đất số 218, tờ bản đồ số 23, diện tích 326.4m2 mang tên hộ bà
Nguyễn Thị Vân, và thửa 217 tờ bản đồ số 23, diện tích 222.7 m 2, mang tên
Nguyễn Quốc Tiến con bà Nguyễn Thị Vân, như vậy tồng 2 diện tích là 549.1
m2.
Ông Nguyễn Quốc Hiền (con trai Bà Quý) trình bày như sau:
Năm 2013, đơn vị đo đạc bản đồ và UBND xã tiến hành đo đất của các hộ
thôn Ích Mỹ để lập bản đồ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đo thửa
đất của gia đình ông Hiền và thửa đất của gia đình Bà Vân, trong đó có nội dung
ký biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (theo hiện trạng sử dụng đất)
đối với thửa đất của gia đình Bà Vân. Lý do ông Hiền không nhất trí với kích
thước các cạnh thửa đất của gia đình ông Hiền cạnh đường liên xã và tranh chấp
giữa hai gia đình đã xảy ra từ năm 1995 nên không ký biên bản. Nhưng trong
biên bản đã có người mạo danh chữ ký của ông Hiền (ký tên không ghi rõ họ và
tên). Việc gia đình Bà Vân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
2013 ông Hiền không biết. Năm 2013 thực hiện dự án đơn vị đo đạc do công ty
Nguyễn Trung, địa chính xã, tiến hành vạch sơn xác định ranh giới, mốc giới
thửa đất giữa gia đình ông Hiền và gia đình Bà Vân nhưng gia đình ông Hiền
không nhất trí và không biết đơn vị đo đạc có đo kích thước thửa đất của hai gia
đình, ông Hiền không ký vào biên bản ranh giới, mốc giới kích thước thửa đất
của gia đình bà Nguyễn Thị Vân lập ngày 16/5/2013, còn ai đó giả mạo chữ ký
của ông Hiền thì ông Hiền không biết.
2. Căn cứ pháp lý để phân tích, giải quyết tình huống
- Căn cứ khoản I điều 203 luật đất đai năm 2013, quy định về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai.
5
- Căn cứ hồ sơ địa chính, theo bản đồ đo đạc lưu trữ tại UBND xã Mai
Trang thể hiện:
+ Bản đồ đo đạc năm 1964 tu chỉnh năm 1995, thửa đất của gia đình Bà
Hoàng Thị Quý là thửa số 452, tờ bản đồ số 06, thửa đất của gia đình bà Nguyễn
Thị Vân là thửa số 451, tờ bản đồ số 06, không thể hiện diện tích, ranh giới thửa
đất, không có sổ mục kê. Phần diện tích đất gia đình bà Nguyễn Thị Vân xây
dựng trước cửa nhà Bà Quý là đất công (hành lang đường liên thôn) UBND xã
quản lý.
-Theo bản đồ đo đạc và sổ mục kê năm 1995:
+ Thửa đất số 451, tờ bản đồ số 06, diện tích 549.1m2 mang tên ông
Nguyễn Văn Nam (là chồng của Bà Vân).
+ Thửa đất số 452, tờ bản đồ số 06, diện tích 348.2m2 mang tên ông
Nguyễn Quốc Kim là chồng Bà Hoàng Thị Quý hiện tại.
- Sau khi tiếp nhận đơn thư UBND xã đã thành lập ban hòa giải tiến hành
kiểm tra hiện trạng và thửa đất bà Nguyễn Thị Vân đã tách ra thành 2 thửa, một
thửa mang tên bà Nguyễn Thị Vân và 1 thửa mang tên Nguyễn Quốc Tiến con
trai Bà Vân. Cán bộ địa chính tiến hành đo đạc lại các thửa đất bà Nguyễn Thị
Vân, Bà Hoàng Thị Quý và Ông Nguyễn Quốc Tiến kết quả cụ thể như sau:
+ Phần diện tích đất gia đình Bà Vân phía đông giáp đường liên thôn là
19.3 m, phía Nam giáp đất Bà Quý là 17.1 m, với diện tích 330m2.
+ Diện tích đất ông Tiến con Bà Vân, phía Đông giáp đất Bà Vân 19.3 m,
Nam giáp đất Bà Quý là 11.8 m, với diện tích là 227.7 m2.
=> Cộng 2 diện tích của gia đình Bà Vân là 557.7m2.
+ Diện tích Bà Hoàng Thị Quý có phía Đông giáp đường liên thôn 11,8 m,
phía Bắc giáp đất bà Nguyễn Thị Vân là 28.9 m, với diện tích 341m2.
Như vậy, phần đất gia đình Bà Vân, ông Tiến con trai Bà Vân đã lấn sang
phần đất Bà Quý là 8.6m2.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
6
* Nguyên nhân khách quan:
- Đất đai là một loại tài nguyên có giá trị chính vì vậy đã tác động đến tính
chất của vụ tranh chấp không thể tự thương lượng giữa hai bên;
- Trong một thời gian dài, công tác quản lý đất đai bị buông lỏng, quy
trình quản lý thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học. Hồ sơ địa chính, tài liệu lịch sử làm
căn cứ giải quyết không đầy đủ;
- Các chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý đấ đai có
nhiều thay đổi, có những vấn đề chưa thật cụ thể. Mặt khác, công tác cập nhật
văn bản pháp luật của cán bộ còn yếu, vì vậy việc vận dụng, thực thi trên thực tế
gặp nhiều khó khăn;
- Do trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật về đất đai của người dân
không cao nên dẫn đến tình trạng vi phạm các định của nhà nước trong sử dụng
và quản lý đất đai;
- Do xu hướng ích kỷ và lòng tham của con người nên một số bộ phận
người dân đã lợi dụng việc quản lý thiếu chặt chẽ của nhà nước để thực hiện các
hành vi vi phạm đất đai nhằm mục đích đem lại lợi ích cho bản thân.
Nguyên nhân chủ quan:
- Trình độ quản lý hành chính nhà nước nói chung về đất đai của các cấp,
các ngành từ huyện đến cơ sở còn nhiều bất cập, đặc biệt với huyện Lộc Hồ là
một huyện mới thành lập có trình độ phát triển kinh tế và dân trí còn ở mức thấp.
Công tác quản lý đất đai ở địa phương còn bị buông lỏng, chưa được chú trọng,
hồ sơ địa chính không đầy đủ, không cập nhật, thiếu chặt chẽ, thủ tục hành chính
không đảm bảo;
- Đối với UBND xã Mai Trang đội ngũ cán bộ chuyên trách công việc
quản lý đất đai qua các thời kỳ còn thể hiện nhiều yếu kém, hạn chế về mặt trình
độ chuyên môn, hiểu biết về quy định pháp luật. Mặt khác do đội ngũ cán bộ
quản lý chưa phát huy được hết vai trò trong việc quản lý, kiểm soát các hành vi
vi phạm về đất đai trên địa bàn xã nên không kịp thời ngăn chặn được hành vi vi
phạm ngay từ ban đầu;
7
- Trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND xã Mai
Trang và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lộc Hồ đã không quản lýchặt
chẽ, không thẩm định cẩn thận, không thực hiện đúng quy trình cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị Vân;
- Về phía bà Nguyễn Thị Vân đã lợi dụng lòng tin của hàng xóm cũng như
sự quản lý thiếu chặt chẽ của chính quyền địa phương xã Mai Trang để cố ý thực
hiện những hành vi vi phạm trong việc sử dụng đất đai.
* Hậu quả:
- Vụ việc tranh chấp làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của những bên
liên quan đến vụ việc, đồng thời gây mất tình làng nghĩ xóm giữa hai giai đình
xảy ra tranh chấp, gây ảnh hưởng chung đến tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
trong xóm, làng;
- Gây ra thiệt hại về kinh tế: Vụ tranh chấp khiến cho gia đình Bà Quý
không thể hoàn thiện việc xây dựng nhà ở trên phần diện tích đất của gia đình
nhà mình do phần phía trước cổng nhà bị chắn bởi phần công trình phụ và trụ
cổng nhà Bà Vân; Vụ tranh chấp xảy ra cho thấy những bất cập, hạn chế, quản
lý lỏng lẻo của địa phương trong công tác quản lý đất đai gây mất lòng tin của
nhân dân đối với các cấp chính quyền.
4. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải sớm giải quyết dứt điểm vụ việc này và
đưa ra được hướng giải quyết tối ưu nhất nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết,
đáp ứng tình hiện quản lý đất đai hiện nay của địa phương. Xét thấy đây là một
khiếu nại nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên liên quan,
không những thế có thể gây lan truyền thông tin lệch lạc trong nhân dân làm mất
lòng tin của nhân dân đối với chính quyền địa phương. Vì vậy vụ việc cần được
xử lý với những mục tiêu sau đây:
- Xử lý dứt điểm đơn thư kéo dài lên tất cả các cấp, các cơ quan có thẩm
quyền, đúng điểm dừng theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai
hiện hành.
8
- Việc giải quyết đơn khiếu nại của Bà Hoàng Thị Quý phải đảm bảo đúng
pháp luật, đúng trình tự thủ tục, hợp tình, hợp lý, bảo vệ được quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của Bà Hoàng Thị Quý là người sử dụng đất có khiếu nại trực tiếp.
- Xử lý nghiêm minh đúng pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp
luật về Đất đai đai, khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức, chính quyền có liên
quan đế vụ khiếu nại tranh chấp đất đai này nhằm tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, bảo vệ uy tín, củng cố lòng
tin của công dân đối với chính quyền địa phương các cấp;
- Thông qua việc giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp đất đai giữa Bà Hoàng
Thị Quý và bà Nguyễn Thị Vân tại thôn Ích Mỹ, huyện Lộc Hồ, Hà Tĩnh để góp
phần tuyên truyền phổ biến giáo dục ý thức của người dân trong việc tuân thủ
các quy định của pháp luật về đất đai;
- Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan đến vụ tranh
chấp;
- Căn cứ vào Luật đất đai năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật về
đất đai, các loại bản đồ hiện có tại địa phương làm căn cứ để giải quyết vụ việc
theo đúng trình tự thủ tục của nhà nước;
- Giảm tối đa các mức thiệt hại kinh tế đối với các bên liên quan đến vụ
tranh chấp, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân;
- Giải quyết hài hòa giữa các lợi ích trước mắt và lâu dài, các lợi ích kinh
tế - xã hội và tính pháp lý.
5. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Phương án 1:
Hòa giải ở cấp xã UBND xã Mai Trang tiến hành hòa giải vụ tranh chấp
đất đai giữa Bà Hoàng Thị Quý và bà Nguyễn Thị Vân với nội dung như sau:
Đối với bà Nguyễn Thị Vân phải phá dỡ phần trụ cột và các công trình
khác xây lấn sang đất nhà Bà Quý, gia đình Bà Quý không phải hỗ trợ chi phí
cho việc phá dỡ công trình nhà Bà Vân, còn về phần diện tích nhà Bà Vân đang
sử dụng phía trước mảnh đất nhà Bà Quý thì do phần diện tích đó đã được thể
9
hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Bà Vân nên gia đình Bà
Vân vẫn tiếp tục được sử dụng.
Lợi thế và thuận lợi: Vụ việc khiếu nại được kết thúc sớm, giảm áp lực
giải quyết vụ việc đối với cơ quan cấp trên. Hạn chế và bất cập: Hướng giải
quyết đơn giản, chưa đáp ứng được hết khía cạnh “lý” và khía cạnh “tình” khiến
cho các bên liên quan trong vụ việc khó chấp nhận phương án hòa giải.
Phương án 2: Hòa giải tại cấp huyện
Khi các bên liên quan trong vụ tranh chấp không nhất trí với hướng hòa
giải tại UBND xã Mai Trang thì vụ việc được chuyển lên Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện Lộc Hồ giải quyết. Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức
hội nghị hoà giải tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Vânvà Bà Hoàng Thị
Quý với nội dung như sau:
Bà Nguyễn Thị Vân phá rỡ toàn bộ công trình phụ và 1 trụ cổng, bể phốt
nằm dưới nền công trình phụ trước thửa đất gia đình Bà Quý và cắt bỏ phần diện
tích là 8.6m2 và đề nghị chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất phần diện tích 8.6m2 là đất của Bà Quý.
Bà Quý có hỗ trợ một phần chi phí cho việc phá dỡ và xây dựng mới cho
gia đình Bà Vân với số tiền là 2 triệu đồng. Bà Hoàng Thị Quý cam kết sẽ ký
vào biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất cho gia đình Bà Vân khi
UBND xã Mai Trang chỉnh lý biến động trong GCN QSD đất cho Bà Vân.
Những lợi thế và thuận lợi của phương án: Là phương án tối ưu vừa hợp
tình vừa hợp lý giúp giải quyết được dứt điểm vụ tranh chấp đúng pháp luật, dựa
trên cơ sở phân tích làm rõ vấn đề của vụ việc theo đúng quy định của pháp luật,
vụ việc được giải quyết bằng sự kết hợp của các quy định pháp luật và đạo lý
tình làng nghĩa xóm giúp các bên liên quan trong vụ việc dễ dàng chấp thuận
theo phương án hòa giải.
Những hạn chế, bất cập của phương án: Để thực hiện được phương án này
đòi hỏi cán bộ địa chính xã phải có sự giám sát, theo dõi sát sao trong quá trình
các bên thực hiện chấp hành các nội dung của phương án nhằm đảo bảo quyền
10
lợi của các bên liên quan, nếu không đảm bảo được sự giám sát chặt chẽ có thể
các bên liên quan không thực hiện đúng với các nội dung của biên bản hòa giải
thành.
Phương án 3: Chuyển vụ tranh chấp đến Toà án nhân dân giải quyết
Căn cứ Khoản 1 Điều 203, Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai: Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại
Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án
nhân dân giải quyết.
Vì vậy khi các bên liên quan trong vụ việc tranh chấp không đồng ý với
phương án hòa giải tại cơ sở thì Phòng Tài nguyên và Môi trường tiến hành hoàn
thiện hồ sơ chuyển vụ việc đến tòa án nhân dân huyện Lộc Hồ để giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các hồ sơ pháp lý liên quan đến vụ việc do UBND xã Mai
Trang và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lộc Hồ cung cấp. Tòa án nhân
dân huyện Lộc Hồ tiến hành giải quyết vụ việc như sau: Năm 2013 UBND xã
Mai Trang xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
gia đình bà Nguyễn Thị Vân, gia đình Bà Quý khẳng định không ký biên bản
xác định ranh giới, mốc giới thửa đất mà chữ ký trong biên bản là mạo danh chữ
ký của ông Hiền (là con trai Bà Quý), chỉ căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ đo đạc năm 1985 không căn cứ vào bản đồ đo đạc năm 1964 và tu chỉnh
năm 1995. Căn cứ bản đồ đo đạc năm 1964 tu chỉnh năm 1995 thửa đất của gia
đình bà Nguyễn Thị Vân là thửa số 451, tờ bản đồ số 06 phần diện tích đất gia
đình bà Nguyễn Thị Vân xây dựng trước cửa nhà Bà Quý là đất công (đường
liên thôn) UBND xã quản lý.
Do đó việc Bà Hoàng Thị Quý đề nghị gia đình bà Nguyễn Thị Vân giải
toả công trình nằm trên đất công trước thửa đất gia đình Bà Quý là có cơ sở. Đề
nghị UBND huyện thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ bà
Nguyễn Thị Vân.
11
Lợi thế và thuận lợi của phương án: Phương án giải quyết là theo đúng
thầm quyền mà pháp luật quy định, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
trong lĩnh vực quản lý đất đai. Những hạn chế và bất cập: Phương án không thể
hiện được khía cạnh “tình” trong việc xử lý vụ tranh chấp. Mỗi phương án đã
nêu trên đều có những ưu, nhược điểm nhất định.
Tuy nhiên dựa trên những cơ sở nội dung và những ưu nhược điểm của
các phương án giải quyết vụ tranh chấp đất đai giữa Bà Hoàng Thị Quý và bà
Nguyễn Thị Vân, theo bản thân tôi phương án 2 là phương án tối ưu nhất vì nó
thỏa mãn được nhiều yêu cầu giải quyết nhất. Đây là một phương án có tính khả
thi trong thực tiễn, giải quyết theo phương án này không những sẽ kết hợp được
hài hòa giữa pháp lý và đạo lý, mà còn phù hợp với thực tế cuộc sống của đông
đảo nhân dân ở địa phương, giữ vững lòng tin của quần chúng nhân dân trong
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
6. Lập kế hoạch tổ chức phương án đã lựa chọn
- Bước 1: Xác định Nội dung thực hiện: giải quyết tranh chấp đất đai của
2 hộ liền kề trên địa bàn xã Mai Trang, huyện Lộc Hồ.
- Bước 2: Phân công trách nhiệm: Cử cán bộ chuyên môn kiểm tra thực
địa và làm việc trực tiếp với 2 hộ dân
- Bước 3: Triển khai thực hiện: Ra quyết định thành lập ban hòa giải của
xã gồm các đồng chí lãnh đạo UBND, Mặt trận TQ và các đoàn thể;Trực tiếp
mời các hộ lên làm việc.
- Bước 4: Tổng kết rút kinh nghiệm và báo cáo cấp huyện
STT
Nội dung thực hiện Chủ thể thực hiện
Làm việc với
1
nguyên đơn là ông
Vũ Đặng cán bộ
địa chính xã
Thời gian
thực hiện
Cán bộ địa chính
xã được giao giải
quyết vụ việc
15/12/2017
Các điều kiện
phục vụ thực
hiện
Phòng họp tiếp
công dân
12
2
Làm việc với bị
Cán bộ địa chính
đơn bà Nguyễn
xã được giao giải
Thị Vân
quyết vụ việc
Làm việc với thôn
3
Ích Mỹ và cán bộ
thôn qua các thời
Lãnh đạo UBND
xã và cán bộ địa
5
6
7
20/11/2017
chính
kỳ
4
16/12/2017
Làm việc với ông
Cán bộ địa chính
Nguyễn Quốc
xã được giao giải
Hiền
quyết vụ việc
Khảo sát thực địa
Cán bộ địa chính
và đo mốc giới 2
xã được giao giải
hộ
quyết vụ việc
Tổ chức hội nghị
Ban hòa giải của
hòa giải
xã
Tổng kết báo cáo
cấp huyện
21/12/2017
Phòng họp tiếp
công dân
Tại NVH thôn
Ích Mỹ
Phòng họp tiếp
công dân
Tại thực địa, các
24/12/2017
phương tiện
công cụ đo đạc
25/12/2017
Hội trường
UBND xã
Phòng Tài
UBND xã
28/12/2017
nguyên Môi
trường
7. Kết luận và Kiến nghị
* Kết luận
- Tranh chấp đất đai là một vấn đề hết sức phức tạp, vì trong xã hội hiện
nay việc sở hữu đất đi thay đổi qua từng giai đoạn và sự phân chia các loại đất
đai luôn luôn biến động do chuyển đổi mục đích sử dụng. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa là phương tiện quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, quản lý nền kinh
tế. Nhưng nếu nhà nước chỉ ban hành pháp luật mà không đảm bảo được thực
hiện thì pháp luật không thể phát huy được vai trò của mình.
- Cho nên cùng với việc ban hành pháp luật, Nhà nước còn phải đảm bảo
cho pháp luật được thi hành.
13
- Qua vụ việc tranh chấp đất đai giữa Bà Hoàng Thị Quý và bà Nguyễn
Thị Vân là hai hộ có đất liền kề nhau trên địa bàn xã Mai Trang, huyện Lộc Hồ,
Hà Tĩnh cho thấy những sai phạm của cá nhân trong sử sụng đất đai và cho thấy
công tác quản lý đất đai tại địa phương còn bị buông lỏng nên đã gây ra những
hậu quả nhất định.
- Dựa trên là những chứng cứ thu thập, hồ sơ địa chính, bản đồ đo đạc qua
các năm tại địa phương để làm cơ sở đưa ra được phương án giải quyết phù hợp
nhất đối với vụ việc đảm bảo hợp tình, hợp lý, góp phần nâng cao vai trò của
chính quyền địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến
lĩnh vực đất đai.
* Kiến nghị
- Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, đặc biệt là các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, đảm bảo ổn
định được tình hình trật tự xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội, tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
- Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai được đầy đủ, hệ
thống và đồng bộ, rà soát những quy định chưa phù hợp hoặc những vấn đề mới
phát sinh để kịp thời sửa đổi, bổ sung tháo gỡ các vướng mắc, chú ý các quy
định và ngôn ngũ của Luật, văn bản dưới Luật phải được thể hiện hoặc được giải
thích đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất là những vấn đề có liên quan đến tranh
chấp, khiếu nại. Hướng dẫn để Ích Mỹ nội dung giải quyết tranh chấp, khiếu nại
về đất đai và có sự tư vấn về pháp luật.
- Đồng thời tăng cường tuyên truyền, phổ biến kịp thời, đầy đủ các chủ
trường, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mọi người dân bằng
nhiều hình thức nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp cận với pháp luật đất đai hiểu
biết, đồng thuận giữa người ra quyết định, người khiếu nại và người giải quyết
khiếu nại; Cần tăng cường, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý
đất đai các cấp, nhất là ở cấp cơ sở trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai.
Củng cố hội đồng giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện để đủ sức giải quyết
dứt điểm các tranh chấp đất đai.
14
- Tiếp tục tăng cường các đoàn, tổ công tác của UBND cấp huyện song
song với việc trang bị kiến thức pháp luật cho các bộ ngành quản lý đất đai có
liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kiến thức và sự hiểu biết pháp
luật của cán bộ chính là một trong những điều kiện đảm bảo cho người cán bộ
khi tiếp dân có khả năng tuyên truyền, giáo dục và vận động người dân chấp
hành pháp luật;
- Kinh nghiệm cho thấy, việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
thời gian qua hiệu quả nhất là hòa giải, không chỉ chú trọng hòa giải khi phát
sinh tranh chấp, mà khi giải quyết khiếu nại tiếp tục hòa giải cũng đạt được
nhiều kết quả và trong nhiều trường hợp tòa án xét xử hòa giải thành cũng đạt tỷ
lệ cao.
- Hòa giải thành càng nhiều càng tốt vì giải quyết tranh chấp, khiếu nại về
đất đai ngoài việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo sự ổn
định còn phải tăng cường sự đoàn kết giữa Nhà nước với dân, giữa dân với dân
và trong thân tộc.
- Các quy định hướng dẫn phải cụ thể về việc giải quyết từng loại tranh
chấp đất đai như tranh chấp liên quan đến ranh giới các thửa đất, tranh chấp liên
quan đến quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp liên quan đến các giao
dịch đất đai (chuyển nhượng, cho thuê…), tranh chấp liên quan đến bồi thường,
giải phóng mặt bằng./.
15