ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN
CÁC CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT
(TRÊN CỨ LIỆU TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN, NĂM 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN
CÁC CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT
(TRÊN CỨ LIỆU TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN)
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 8 22 01
02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HOÁ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN LỘC
THÁI NGUYÊN, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kì một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng
Chuyên
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ các thầy cô, gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Văn
Lộc, người thầy đã tận tình giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Phòng đào tạo Sau đại học,
các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, các thầy cô giáo trong Viện Ngôn ngữ, Viện Từ điển học và Bách khoa
thư Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Phụ Dực Thái Bình, các bạn bè, đồng nghiệp, và những người thân trong gia đình đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 04 năm
2018
Tác giả
Nguyễn Thị Hồng
Chuyên
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................ii
MỤC
LỤC
..........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................iv MỞ
ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 2
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ
SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN.............................................................................. 3
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 3
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chu tố của động từ trong tiếng
Việt................. 3
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trong “Truyện ngắn chọn
lọc Nguyễn Công Hoan”...................................................................................... 8
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn ............................................................................ 12
1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị ........................................................................ 12
1.2.2. Khái niệm diễn tố, chu tố ........................................................................ 18
1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của chu tố ......................................................... 20
1.2.4. Mối quan hệ (sự tương ứng) giữa chu tố với trạng ngữ và vai nghĩa ..... 23
1.2.5. Các kiểu chu tố ........................................................................................ 25
1.2.6. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn
Công Hoan ......................................................................................................... 26
1.3. Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 28
iii
Chương 2. CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC
NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP......... 29
2.1. Kết quả khảo sát ......................................................................................... 29
2.1.1. Về số lượng.............................................................................................. 29
2.1.2. Về kiểu loại.............................................................................................. 32
2.2. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan
xét về mặt cách biểu hiện .................................................................................. 33
2.2.1. Chu tố được biểu hiện bằng thể từ (danh từ, cụm danh từ, đại từ) ......... 33
2.2.2. Chu tố được biểu hiện bằng vị từ, cụm vị từ ........................................... 35
2.3. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan
xét về mặt phương thức kết hợp ........................................................................ 37
2.3.1. Chu tố kết hợp gián tiếp với vị ngữ hoặc vị từ ........................................ 37
2.3.2. Chu tố kết hợp trực tiếp với vị ngữ hoặc vị từ ........................................ 41
2.4. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan
xét về mặt vị trí .................................................................................................. 41
2.4.1. Các vị trí mà chu tố chiếm giữ trong câu ................................................ 41
2.4.2. Khả năng cải biến vị trí của các chu tố trong câu.................................... 48
2.5. Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................... 53
Chương 3. CHU TỐ CỦA ĐỘNG TỪ TRONG TRUYỆN NGẮN CHỌN
LỌC NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA
VÀ NGỮ DỤNG............................................................................................... 54
3.1. Chu tố của động từ xét về mặt ngữ nghĩa................................................... 54
3.1.1. Vai trò ngữ nghĩa của chu tố trong câu ................................................... 54
3.1.2. Các kiểu chu tố của động từ xét về mặt ngữ nghĩa ................................. 56
3.2. Chu tố của động từ xét về mặt ngữ dụng.................................................... 73
3.2.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 73
3.2.2. Vai trò của chu tố trong việc tham gia tạo lập cấu trúc đề thuyết của câu
.... 74
3.2.3. Chu tố trong vai trò tạo lập cấu trúc thông tin của câu ........................... 82
3.3. Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................... 85
KẾT LUẬN....................................................................................................... 86
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN........88
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 89
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:
Số câu có chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn
Công Hoan ...............................................................................................
30
Bảng 2.2:
Số lượng chu tố của động từ trong 1510 câu ở Truyện ngắn chọn lọc
Nguyễn Công Hoan..................................................................................
31
Bảng 2.3:
Các kiểu loại chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc
Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp
................................................ 32
Bảng 3.1:
Các kiểu loại chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc
Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ nghĩa
............................................... 57
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề
tài
Người Việt Nam chúng ta ai cũng biết đến câu “Phong ba bão táp không
bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả đúng như vậy, câu ví thể hiện sự phong phú và
phức tạp của ngữ pháp tiếng Việt. Khi phân tích câu tiếng Việt, ngoài thành
phần thuộc nòng
cốt (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) ta thấy còn xuất hiện các thành phần khác với cấu
tạo, chức năng và các kiểu ý nghĩa khác nhau. Chu tố của động từ (về cơ bản,
tương ứng với cả trạng ngữ của câu lẫn trạng ngữ hay trạng tố của động từ
theo quan niệm truyền thống) là thành tố cú pháp phổ biến trong câu, có vai
trò ngữ pháp và ngữ nghĩa quan trọng đối với tổ chức của câu.
Việc nghiên cứu về chu tố hay thành tố phụ tự do của động từ (với các
tên gọi khác nhau trong ngữ pháp học truyền thống) mặc dù được đề cập đến
trong một số công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt nhưng đến nay,
chúng tôi thấy có rất ít công trình khảo sát có hệ thống và chuyên sâu về chu
tố của động từ theo lí thuyết kết trị trong một tác phẩm của một nhà văn cụ
thể. Theo chúng tôi, việc
nghiên cứu theo hướng này có ý nghĩa cả về lí luận lẫn thực
tiễn.
Về lí luận, kết quả nghiên cứu về đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm
đặc điểm cú pháp của chu tố nói chung, chu tố của động từ nói riêng với tư cách
là thành tố cú pháp phụ thuộc thể hiện kết trị tự do của vị từ với những biến thể
phong phú, đa dạng khi nó xuất hiện trong câu văn gắn với cách dùng của một
tác giả cụ thể.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu theo hướng này sẽ cung cấp thêm những
tư liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam trong
nhà trường.
Với những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Các chu tố của
động từ tiếng Việt (Trên cứ liệu Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công
Hoan) để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên
cứu
Trên cơ sở sự khảo sát, thống kê, phân loại các chu tố của động từ được sử
dụng trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, luận văn phân tích làm rõ
đặc điểm về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của chu tố với tư cách là
thành tố phụ tự do của động từ; qua đó, góp phần làm sáng tỏ thêm một số khía
cạnh lí thuyết kết trị và lí thuyết ngữ pháp chức năng liên quan đến chu tố hay
thành phần phụ tự do của vị từ nói chung trong lời nói sinh động; đồng thời,
1
cung cấp một tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ văn
Việt Nam.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chu tố của động từ trong tiếng
Việt được sử dụng trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đặc điểm của các chu tố của
động từ xuất hiện trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan (NXB Văn
học, 2013) về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, và ngữ dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả
với
các thủ pháp: thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp.
Ngoài ra, để làm nổi bật các khía cạnh ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của
các chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, luận văn
còn sử dụng các thủ pháp: lược bỏ, bổ sung, thay thế, cải biến cho phù hợp với
đặc điểm không biến hình của tiếng Việt.
5. Đóng góp của đề tài
Về lí luận: Với đề tài Các chu tố của động từ tiếng Việt (Trên
cứ liệu Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan), luận văn đã làm rõ các
biểu hiện phong phú và đa dạng về hình thức ngữ pháp, về vai trò ngữ nghĩa và
ngữ dụng của các chu tố của động từ trong lời nói sinh động gắn với cách dùng
của một tác giả cụ thể có uy tín về sử dụng ngôn ngữ. Qua đó, luận văn cũng
góp phần làm sáng tỏ thêm một số quan điểm lí thuyết mới về thành phần chu
tố hay về trạng ngữ (với tư cách là thành phần phụ mở rộng tự do cho vị ngữ
hay vị từ chứ không phải là thành phần phụ có quan hệ cú pháp với cả cụm chủ
vị như quan niệm truyền thống).
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Việt Nam trong nhà
trường.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận, thực tiễn
Chương 2. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công
Hoan
xét về mặt ngữ pháp
Chương 3. Chu tố của động từ trong Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công
Hoan
xét về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ
SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chu tố của động từ trong tiếng Việt
Chu tố của động từ được nói đến ở đây được nhìn từ góc độ lí thuyết kết trị
và là thành tố cú pháp vừa có sự tương ứng nhất định với trạng ngữ (gia ngữ, bổ
ngữ của câu, thành phần tình huống của câu), vừa có sự tương ứng với trạng ngữ
hay bổ ngữ tự do của động từ theo cách hiểu truyền thống. Đây là một trong
những thành phần cú pháp xuất hiện phổ biến trong câu và từ lâu đã được đề
cập đến trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt theo quan niệm
truyền thống với các tên gọi như trạng ngữ, gia ngữ, bổ ngữ của câu, thành phần
tình huống và bổ ngữ tự do của vị từ.
Trong việc nghiên cứu về trạng ngữ (mà theo quan niệm truyền thống
được coi là thành phần phụ bổ sung cho cụm chủ vị nòng cốt của câu), một số
vấn đề được giải quyết khá tốt và đạt được sự nhất trí tương đối cao như: vai trò
cú pháp của trạng ngữ trong câu, đặc điểm ý nghĩa, hình thức của trạng ngữ. Tuy
nhiên, cũng còn những vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. Dưới đây, chúng
tôi xin nêu khái quát tình hình nghiên cứu về trạng ngữ và bổ ngữ tự do của vị từ
(theo cách hiểu truyền thống) trong tiếng Việt.
1.1.1.1. Về bản chất cú pháp của chu tố (trạng ngữ của câu, bổ ngữ tự do của vị
từ)
a. Theo quan niệm truyền thống: Hầu như các tác giả Việt Nam theo
khuynh
hướng truyền thống đều cho rằng trạng ngữ là thành phần thứ yếu hay thành
phần phụ
của câu có quan hệ cú pháp với cả nòng cốt câu.
Nguyễn Kim Thản cho rằng: "trạng ngữ là thành phần thứ yếu của câu
biểu thị các ý nghĩa về thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương tiện,
hay tình thái” [45, 565]. Phân biệt trạng ngữ với bổ ngữ tự do của vị từ, ông cho
rằng trạng ngữ “là thành phần phụ thêm vào cho cả câu…sự tồn tại của nó
không phụ thuộc vào một từ nào, cũng không phụ thuộc vào loại hay tiểu loại
của từ nào” [45, 521]; còn "bổ ngữ thời hạn thì phụ thuộc vào vị từ” [45, 565].
Hoàng Trọng Phiến cũng coi trạng ngữ "là thành phần thứ yếu của câu, có
ý nghĩa địa điểm, không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích” [39, 124].
4
Tập thể các tác giả (Trung tâm Khoa học xã hội Việt Nam) gọi trạng ngữ
là "thành phần tình huống" và cho rằng "thành phần này có tác dụng bổ sung ý
nghĩa cho cả nòng cốt câu” và "nó là một thành phần thứ yếu so với các thành
phần chủ
yếu trong nòng cốt” [57, 239].
Diệp Quang Ban gọi trạng ngữ là "bổ ngữ của câu" và quan niệm "bổ ngữ
của câu là những thành phần phụ của câu nêu lên cái hoàn cảnh trong đó diễn
ra sự việc nói ở nòng cốt câu” [2, 180]. Chủ trương phân biệt thành phần phụ
của câu với thành phần phụ của từ, ông cho rằng: "thành phần phụ của câu có
tính chất tự lập tương đối về mặt ngữ pháp, tức là nó không phụ thuộc về mặt cú
pháp vào yếu tố ngôn ngữ nào trong nòng cốt mà có quan hệ cú pháp với toàn
bộ nòng cốt câu” [2, 175].
Hai tác giả Bùi Minh Toán - Nguyễn Thị Lương trong cuốn "Giáo trình ngữ
pháp tiếng Việt" cho rằng "trạng ngữ là thành phần phụ của câu, biểu thị các ý
nghĩa thời gian, nơi chốn, phương tiện, cách thức, mục đích, nguyên nhân…
của sự tình được nêu ra trong câu” [56, 122]. "Cấu tạo của trạng ngữ khá đa
dạng, nó có thể là một từ, một cụm từ, tổ hợp từ” [56, 126].
Trạng ngữ với tư cách là thành phần phụ của câu, có quan hệ cú pháp và ý
nghĩa với nòng cốt câu như quan niệm trên đây được phân biệt với bổ ngữ tự do
(bổ tố, trạng tố) của vị từ. Các tác giả đều cho rằng việc phân biệt thành phần
phụ của câu nói chung, trạng ngữ nói riêng, với thành phần phụ của từ, trong đó
có bổ ngữ tự do của vị từ là vấn đề phức tạp và sự phân biệt này không phải bao
giờ cũng "thật rạch ròi được”.
Thực tế cũng cho thấy đến nay, hầu như cũng chưa có tác giả nào đưa ra
được sự phân biệt rạch ròi, thật sự có sức thuyết phục hai kiểu thành tố cú pháp
này.
Theo Nguyễn Văn Hiệp, các tiêu chí cho phép phân biệt trạng ngữ với các
thành tố phụ thuộc cấu trúc bậc dưới câu của vị từ là:
+ Quan hệ phụ thuộc với nòng cốt câu.
+ Khả năng cải biến vị trí mà không làm thay đổi quan hệ giữa các
thành tố
còn lại trong câu.
Tác giả cho rằng có thể dùng thủ pháp chen một thành tố đồng vị đã xác
định chức năng để thấy được quan hệ phụ thuộc vào nòng cốt câu của trạng ngữ
và phân biệt nó với bổ tố tự do của vị từ. Cùng với thủ pháp chen một yếu tố
đồng vị, thủ pháp cải biến vị trí cũng được tác giả sử dụng để chỉ ra sự khác biệt
giữa trạng ngữ và bổ tố của vị từ [21, 209-222].
5
b. Các quan niệm khác: Ngoài quan niệm phổ biến trên, cần phải kể đến ý
kiến của tác giả V.S.Panfilov trong cuốn Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt. Tác giả cho
rằng: “trạng ngữ là yếu tố mở rộng tự do của vị ngữ, có ý nghĩa sự kiện và có
khả năng thay thế bằng mệnh đề phụ” [38, 315].
Tác giả Nguyễn Mạnh Tiến cũng cho rằng "trạng ngữ chính là thành phần
phụ của câu thể hiện kết trị tự do của vị từ (hoặc trạng ngữ là chu tố của vị
từ)… Mối quan hệ cú pháp giữa trạng ngữ với vị từ (vị ngữ) được khẳng định bởi
sự có mặt đồng thời của cả mối quan hệ ý nghĩa lẫn mối quan hệ hình thức giữa
chúng (khả năng dùng độc lập của tổ hợp do chúng tạo thành)” [54, 60].
Nhận xét về quan niệm truyền thống đối với trạng ngữ, tác giả Nguyễn
Mạnh Tiến còn cho rằng "việc xác định nội dung và hình thức của trạng ngữ (có
quan hệ cú pháp với nòng cốt của câu, có tính biệt lập về hình thức và khả năng
cải biến vị trí) cũng như việc dựa vào những đặc điểm đó để phân biệt nó với bổ
ngữ tự do của vị từ, qua đó, khẳng định sự đối lập về bản chất giữa hai kiểu
thành tố cú pháp này mặc dù có những cơ sở nhất định nhưng nhìn chung chưa
được luận giải một cách thật sự có sức thuyết phục dựa vào một quan niệm rõ
ràng, nhất quán về quan hệ cú pháp và thành phần cú pháp của câu” [54, 51].
Qua các quan niệm trên, có thể thấy về tính chất của mối quan hệ cú
pháp giữa trạng ngữ với bộ phận còn lại của câu, đến nay, có hai quan niệm
chính:
1/ coi trạng ngữ là thành phần phụ của câu có quan hệ cú pháp với cả nòng
cốt câu;
2/ coi trạng ngữ là thành phần phụ mở rộng tự do của vị ngữ hay vị từ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lộc, để xác định bản chất của mối quan hệ cú
pháp giữa trạng ngữ và các thành tố khác của câu “cần phải dựa vào khái niệm
quan hệ cú pháp và cách xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các
từ (cụm từ) trong câu’’ (theo đó, “hai từ, cụm từ được coi là có quan hệ cú
pháp với nhau nếu giữa
chúng có thể xác định một kiểu quan hệ ngữ nghĩa nhất định và ngữ đoạn chứa
chúng có khả năng hoạt động độc lập hoặc tư cách biến thể tỉnh lược của câu”)
[30, 343]. Với cách hiểu về quan hệ cú pháp, cách xác định sự có mặt của mối
quan hệ cú pháp giữa các từ như đã chỉ ra, có cơ sở để cho rằng trạng ngữ, về
bản chất cú pháp, là thành tố phụ không bắt buộc của vị ngữ (vị từ) hoặc "là yếu
tố mở rộng tự do của vị ngữ” [30, 343]. Cụ thể: Về nội dung, trạng ngữ đều bổ
sung cho vị ngữ hay vị từ một
6
ý nghĩa nhất định. Về hình thức, trạng ngữ có thể cùng với vị ngữ hay vị từ
tạo thành một tổ hợp dùng độc lập hoặc dùng với tư cách là biến thể tỉnh lược
của câu [30, 346]. Chúng tôi cho rằng đây là quan niệm có cơ sở.
1.1.1.2. Về đặc điểm nội dung của chu tố (trạng ngữ truyền
thống)
Về đặc điểm nội dung của chu tố (trạng ngữ), các tác giả có ý kiến tương
đối thống nhất. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: “…trạng ngữ biểu thị những ý
nghĩa
về không gian, thời gian, mục đích, nguyên nhân, phương tiện…cho sự tình được
biểu đạt trong câu” [21, 206].
Nhận xét về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa thành phần phụ của câu (trong
đó có trạng ngữ) với các từ ngữ còn lại của câu, Diệp Quang Ban viết: "Về mặt
nghĩa, bộ phận nằm ngoài nòng cốt này có thể liên hệ rõ rệt với một yếu tố nào
đó trong nòng cốt câu” [3, 177]. Về ý nghĩa cụ thể của trạng ngữ, tác giả xác
định các kiểu chính như: trạng ngữ không gian, thời gian, tình hình, nguyên
nhân, mục đích, nhượng bộ…[3, 179].
Nguyễn Kim Thản cũng cho rằng: "Trạng ngữ là thành phần thứ yếu của
câu biểu thị các ý nghĩa thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương
tiện hay tình thái” [45, 565]. Tác giả còn chỉ rõ: "Khi đặt ở cuối câu, trạng ngữ
có tác dụng miêu tả hoàn cảnh tiến hành của hoạt động hay trạng thái biểu thị
trong bộ phận vị ngữ” [45, 569] hoặc "Trạng ngữ thời gian thường đặt ở đầu câu.
Nó có thể biểu thị thời điểm cụ thể của đặc trưng (do vị ngữ biểu thị)…” [45,
565].
Đề cập đến đặc điểm nội dung của trạng ngữ, Nguyễn Văn Lộc cho rằng:
Về nội dung, trạng ngữ có ba đặc điểm chính: tính phụ thuộc, tính không bắt
buộc (tự do) và ý nghĩa tình trạng, hoàn cảnh (chỉ không gian, thời gian, nguyên
nhân, mục đích, công cụ, tính chất, cách thức…) [30, 348].
1.1.1.3. Về đặc điểm hình thức của chu tố (trạng ngữ truyền
thống)
a. Về cấu tạo (cách biểu hiện)
Hầu hết các tác giả đều cho rằng trạng ngữ có thể được biểu hiện bằng
danh từ
(cụm danh từ) hoặc vị từ (cụm vị từ, cụm chủ
vị).
Tác giả Nguyễn Văn Lộc cho rằng: “Trạng ngữ được biểu hiện bằng hai
hình thức chủ yếu là danh từ (cụm danh từ) và vị từ (cụm vị từ, cụm chủ vị)” [30,
351].
Tác giả Nguyễn Thị Nhung cho rằng: “trạng ngữ có thể cấu tạo là một từ,
7
là đoản ngữ, cụm từ đẳng lập hay cũng có thể có cấu tạo là cụm chủ vị” [37, 164
].
8
b. Về vị trí
Hoàng Trọng Phiến khẳng định "trạng ngữ có khả năng ở đầu câu, ở giữa
và ở cuối câu nhưng vị trí phổ biến nhất là đầu câu” [39, 156].
Diệp Quang Ban quan niệm: "trạng ngữ thường đứng ở trước nòng cốt
câu,
tuy nhiên, vẫn gặp nó sau nòng cốt câu hoặc giữa chủ ngữ và vị ngữ” [3, 178179].
Nguyễn Kim Thản cho rằng: hai vị trí thường thấy của trạng ngữ là "đầu
câu và cuối câu” [45, 565]. Trạng ngữ "có nhiều khả năng tự do về vị trí ở trong
câu”, còn "bổ ngữ thời hạn thì…chỉ có một vị trí cố định sau vị từ” [45, 565].
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: "trạng ngữ là thành phần phụ của câu
có khả năng tham gia cải biến vị trí: đứng trước, đứng sau nòng cốt hoặc chen
vào giữa chủ ngữ và vị ngữ” [21, 206].
Điều đáng chú ý là các tác giả trên đây chỉ nói đến vị trí "phổ biến nhất”
hoặc vị trí thường thấy của trạng ngữ chứ không xác định cụ thể trong các vị trí
mà trạng ngữ có thể chiếm giữ, vị trí nào là vị trí cơ bản (xuất phát).
Trong bài viết "Về vị trí cơ bản của trạng ngữ trong câu xét trong mối
quan hệ kết trị với vị từ”, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến khẳng định mặc dù có sự tự
do về vị trí nhưng "vị trí cơ bản, vị trí xuất phát, vị trí thuận của trạng ngữ là
ở sau vị từ” [54, 49]. Điều này không chỉ thể hiện ở sự xuất hiện phổ biến của
nó ở vị trí này như Nguyễn Kim Thản đã xác nhận [45, 565] mà còn thể hiện ở
chỗ sự xuất hiện của nó ở vị trí này hầu như không bị hạn chế bởi điều kiện đặc
biệt nào [45, 565].
Nguyễn Văn Lộc cũng khẳng định: Về vị trí, "trạng ngữ được đặc trưng bởi
tính linh hoạt, tự do về vị trí trong câu, nhiều trạng ngữ có khả năng chiếm các
vị trí: trước cụm chủ vị, giữa chủ ngữ, vị ngữ hoặc sau chủ ngữ, vị ngữ " [30,
352]. Tuy nhiên, tác giả khẳng định rằng: "Vị trí sau vị từ của trạng ngữ chính là
vị trí có tính phổ biến cao nhất” [30, 352].
c. Về phương thức kết hợp
Ý kiến tương đối thống nhất của các tác giả là trạng ngữ thường kết hợp
gián tiếp với vị ngữ hay vị từ. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Lộc cho rằng: “trạng ngữ
chủ yếu kết hợp gián tiếp với vị ngữ hay vị từ thông qua một quan hệ từ nhất
định. Khi kết hợp gián tiếp với vị ngữ hay vị từ, trạng ngữ có thể xuất hiện trong
hai biến thể: biến thể có quan hệ từ và biến thể vắng quan hệ từ” [30, 352].
9
1.1.1.4. Về cách phân loại chu tố và các kiểu chu tố (trạng ngữ truyền thống)
Trạng ngữ được phân loại dựa vào các tiêu chí cụ thể khác nhau, trong đó
cách phân loại của Nguyễn Văn Lộc vừa khái quát, vừa cụ thể. Tác giả dựa vào
đặc điểm cấu tạo chia trạng ngữ thành: trạng ngữ được biểu hiện bằng danh từ
(cụm danh từ),
và trạng ngữ được biểu hiện bằng vị từ (cụm vị từ, cụm chủ vị) [30, 364].
Dựa vào phương thức kết hợp, có thể chia trạng ngữ thành: trạng ngữ kết
hợp trực tiếp với vị ngữ, vị từ và trạng ngữ kết hợp gián tiếp với vị ngữ, vị từ (với
hai biến thể có và vắng quan hệ từ) [30, 364].
Dựa vào khả năng cải biến, có thể chia trạng ngữ thành: trạng ngữ có
khả năng cải biến vị trí và trạng ngữ không có khả năng cải biến vị trí [30, 364].
Dựa vào ý nghĩa, có thể chia trạng ngữ thành nhiều kiểu cụ thể khác
nhau: trạng ngữ không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích, điều kiện,
nhượng bộ, công cụ (phương tiện, phương thức), số lần hoạt động, tính chất,
cách thức, phạm vi, phương diện, chỉ kẻ cùng tham gia hoạt động, hoàn cảnh,
tình huống, kết quả, biểu thị ý "loại trừ” [30, 365].
Qua một số công trình nghiên cứu trên đây, có thể thấy mặc dù trạng ngữ
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau
nhưng việc nghiên cứu cách dùng trạng ngữ (mà về bản chất chỉ là chu tố hay
thành phần phụ mở rộng từ do của vị từ) trong một tác phẩm cụ thể của một
nhà văn vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu.
Chọn đề tài: Các chu tố của động từ tiếng Việt (Trên cứ liệu Truyện
ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan) làm đối tượng nghiên cứu khoa học,
trên cơ sở tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu, chúng tôi mong muốn làm
rõ hơn đặc điểm của chu tố với tư cách là thành tố phụ tự do của vị từ gắn với
cách dùng của một tác giả
cụ thể trong một tác phẩm văn học cụ thể.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trong “Truyện ngắn
chọn lọc
Nguyễn Công Hoan”
Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn
của văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa
dạng, phong phú như một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là
xã hội thực dân
10
phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác, ông đã chứng tỏ là
bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm của ông có sức hấp
dẫn lớn đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu là các nhà
nghiên cứu: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê,
Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn Đức
Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà , Thiếu Sơn, Hải Triều…
Nguyễn Khắc Thuần khi Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan khẳng định: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu hết các loại kiểu
dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử dụng tài tình, linh
hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ năm chữ trở xuống.
Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì dùng độc lập ở đầu, ở
giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở trong cùng một đoạn văn
để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan số lượng câu dài và câu ngắn tương đương nhau nhưng khi đọc truyện
ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong truyện ngắn của ông câu
ngắn trong truyện ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn đã tạo
nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với tác giả
khác”[50, 85].
Trong số các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan, nhà nghiên cứu Lê
Thị Đức Hạnh đã dành nhiều tâm huyết cho truyện ngắn của ông. Khi nhận xét
về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công
Hoan khá gọn gàng, sáng sủa, thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công
Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca
dao, tục ngữ…chữ dùng của ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so
sánh ví von” [15, 201-202]. Tác giả còn cho rằng "Nguyễn Công Hoan luôn giữ
cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện trong sáng, chính xác mang bản sắc của văn
hóa dân tộc” [15, 208]. Tác giả còn chỉ ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong
ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong
truyện của Nguyễn Công Hoan cũng mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã
hội của từng nhân vật, trộn cũng không lẫn” [15, 117]. Nhà nghiên cứu còn so
sánh sự khác nhau giữa văn phong của Nguyễn Công Hoan với các nhà văn hiện
thực phê phán khác với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế.
11
Tác giả Nguyễn Thanh Tú khi nghiên cứu chất hài trong câu văn
Nguyễn Công Hoan nhận xét: "Ngôn ngữ của nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ
suồng sã. (…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu
thuẫn hài hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh,
độc đáo, những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan
thường ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật
gia tăng sắc thái hài hước” [43, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong
Đồng hào có ma” tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ suồng sã để "lật
ngửa”, "lộn trái” đối tượng, tài sử dụng tổ chức lời văn nhằm mục đích mỉa mai,
phê phán đối tượng.
Trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan, tác giả Lò Thị Duyên đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc
thoại về đặc điểm từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn
ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm.
Theo dòng thời gian, các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan càng được khám phá sâu hơn. Năm 2000, với luận văn thạc
sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”, Nguyễn Thị
Hương Lan đã đề cập đến các dạng thức nói mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp
độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp độ văn bản… để rồi tạo nên những
trùng lớp, góp phần quan trọng vào nghệ thuật trào phúng độc đáo, đặc sắc của
Nguyễn Công Hoan.
Năm 2001, Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm tình
huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, đã trực tiếp đề cập đến
ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhưng ở phương diện
tình huống đối thoại, tức là tìm hiểu tình huống ngữ cảnh của cuộc thoại dựa
trên lí thuyết ngữ dụng học và phong cách học.
Năm 2006, tác giả Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách
xưng hô của các vai giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã khảo sát
một cách có hệ thống lớp từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ
đó nêu bật mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa xã hội.
Tác giả Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây
cười qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan năm 2008 đã
vận dụng lý thuyết hội thoại để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của nghệ
thuật gây cười và
12
nguyên lý gây cười mang phong cách Nguyễn Công Hoan. Tác giả Trần Thị Thủy
lại Đối sánh ngôn ngữ trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Đây là công trình so sánh đặc điểm ngôn ngữ
trào phúng: so sánh tính chất trào phúng của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ
nhân vật trong các tác phẩm thuộc hai thể loại khác nhau của hai nhà văn trào
phúng bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại.
Năm 2010, tác giả Hà Thị Tuyết trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu Câu
có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của nguyễn Công Hoan. Tác giả Hoàng Thị
Tố Quyên đã So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện
ngắn Thạch Lam về phương diện cấu tạo và biện pháp tu từ. Luận văn góp phần
nêu ra những điểm tương đồng và khác biệt về câu văn trong ngôn ngữ truyện
ngắn của hai nhà văn lớn. Tác giả Võ Thị Dung trong luận văn thạc sĩ Chức năng
ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật nhất về mặt cấu tạo, sự hành chức
cũng như ngữ nghĩa của các từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
Năm 2013, trong Tạp chí văn học nghệ thuật, số 343, tác giả Thành Đức
Bảo Thắng với bài Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan cho rằng ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn trào phúng của ông
có ba kiểu chủ yếu: người kể chuyện đối thoại với nhân vật, người kể chuyện đối
thoại với độc giả và nhân vật đối thoại với nhân vật…Vận dụng sáng tạo và
linh hoạt ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo mạch nối giữa tiếng
cười dân gian và tiếng cười hiện đại…Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan hướng tới phơi bày bản chất của con người, của xã hội bằng
tiếng cười trào phúng giàu kịch tính. Đó là thứ ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp
dẫn, tạo được sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi bày mâu thuẫn hài hước…
Ngôn ngữ giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan. Khi kết hợp với thủ pháp tăng cấp, tác giả đưa người đọc từ
ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện.
Năm 2016, tác giả Đặng Thị Thanh Hoa đã nghiên cứu Vai trò của đoạn
một câu trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Đoạn một câu được nhà văn
dùng với năm vai trò: nhấn mạnh; liệt kê; dẫn dắt mạch truyện, liên kết các tình
tiết; phương tiện của phép tu từ vĩ thanh; liên kết các đoạn.
13
Điểm lại một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng các tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan được soi chiếu từ nhiều góc nhìn và có không ít
những lời bàn về ngôn ngữ trong tác phẩm của ông. Tuy nhiên, chưa có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về Các chu tố của động từ trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Có thể xem đây là lối ngỏ để tác giả luận
văn có thể tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị
1.2.1.1. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ
Thuật ngữ kết trị (tiếng Nga: valentnost, tiếng Pháp: valence) vốn được
dùng trong hóa học để chỉ thuộc tính kết hợp của các nguyên tử với một số
lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật ngữ này mới chỉ được dùng rộng rãi
trong ngôn ngữ học từ
cuối những năm bốn mươi của thế kỷ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ
hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung.
Theo cách hiểu hẹp thì kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc
một số từ loại nhất định. Bàn về kết trị của động từ, L. Tesniere trong cuốn
"Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” cho rằng động từ trong vai trò ngữ pháp
truyền thống gọi là vị ngữ thực chất chính là thành tố hạt nhân tạo nên cái nút
chính của câu. Với vai trò hạt nhân, động từ quy định số lượng và đặc tính của
các thành tố có quan hệ với nó. Các thành tố này, xét theo mức độ gắn bó với
động từ được chia ra thành diễn tố (actant) (thành tố bắt buộc) hay chủ ngữ và
bổ ngữ truyền thống và chu tố (circonstant) (thành tố tự do) hay trạng ngữ
truyền thống (Dẫn theo, [26, 26] ).
Cùng bàn về kết trị của động từ, N.I.Tijapkina cho rằng kết trị của động từ
được xác định dựa vào toàn bộ các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó.
Tác giả chia kết trị thành kết trị hạt nhân (kết trị bắt buộc) và kết trị phi hạt nhân
(kết trị tự do). Kết trị hạt nhân (bắt buộc) là khả năng kết hợp của vị từ với các
actant (diễn tố: gồm chủ ngữ, bổ ngữ). Kết trị tự do là khả năng kết hợp của động
từ và các chu tố (circonstant).
Nhà ngôn ngữ A.M.Mukhin cũng cho rằng ngoài khả năng kết hợp của
động từ với các thành tố bắt buộc (diễn tố, actant), cần tính đến khả năng kết
hợp của động từ với các thành tố tự do (chu tố, circonstant). A.M.Mukhin còn xác
định các kiểu kết trị tự do như kết trị nguyên nhân, mục đích, phương tiện…(Dẫn
theo [26, 29]).
14
Với quan niệm dùng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu rộng, M.D.Stepanova,
kết trị được hiểu là khả năng kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ, kết
trị vừa là tiềm năng vừa là sự hiện thực hóa tiềm năng này, nghĩa là, kết trị đồng
thời vừa là sự kiện của ngôn ngữ, vừa là sự kiện của lời nói (Dẫn theo [26, 29]).
Các ý kiến nêu trên cho thấy rõ khuynh hướng phát triển của lí thuyết kết
trị. Kết trị của động từ, theo cách hiểu hẹp, thường được xác định là thuộc tính
kết hợp cú pháp bắt buộc của động từ, tức là khả năng của động từ kết hợp
vào mình các thành tố bắt buộc của câu (các diễn tố, tức là chủ ngữ và bổ ngữ
truyền thống). Theo cách hiểu rộng thì kết trị của động từ là toàn bộ thuộc tính
kết hợp của động từ (gồm cả khả năng kết hợp từ vựng lẫn khả năng kết hợp cú
pháp, cả khả năng kết hợp bắt buộc lẫn tự do, tức là khả năng kết hợp của động
từ với chu tố hay trạng ngữ).
Ở Việt Nam, lí thuyết kết trị lần đầu tiên được nghiên cứu có hệ thống
trong công trình nghiên cứu Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc.
Tác giả đã định nghĩa về kết trị của động từ như sau: Kết trị của động từ là khả
năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy
bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định.
Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ kết hợp vào mình
những thành tố cú pháp bắt buộc, tự do. Thuộc tính kết hợp này hàm chứa
trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó chính là sự phản ánh những đòi hỏi
hoặc khả năng của động từ được cụ thể hóa về mặt nào đó [26, 34]. Kết trị của
động từ được xác định theo số lượng các vị trí mở bao quanh nó còn bản thân
các vị trí mở lại được xác định dựa vào số lượng các thành tố bổ sung (các kết
tố) làm đầy các vị trí mở này. Như vậy, xác định và phân tích kết trị của động
từ thực chất chính là xác định và phân tích các kết tố làm đầy
các vị trí mở bên động từ [26, 35].
Trên cơ sở cách hiểu của các tác giả về khái niệm kết trị được trình bày t
rên đây, trong luận văn này, chúng tôi hiểu kết trị và kết trị của động từ theo
nghĩa rộng. Kết trị được hiểu là thuộc tính kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ
cùng cấp độ. Ở cấp độ từ, kết trị theo nghĩa rộng được hiểu là thuộc tính kết
hợp cú pháp của từ với tư cách là đại diện của các từ loại, tiểu loại. Kết trị của
động từ theo nghĩa rộng là toàn bộ thuộc tính kết hợp cú pháp của động từ.
Đó là khả năng của động từ tham gia
15
vào các mối quan hệ cú pháp nói chung (gồm cả khả năng kết hợp của động
từ với tư cách là thành tố chính, tức là thành tố tạo ra các vị trí mở hay các ô
trống cần làm đầy bởi các thành tố phụ (các diễn tố, chu tố) lẫn khả năng kết
hợp của động từ với tư cách là thành tố phụ (thành tố làm đầy các vị trí mở
hay các ô trống được tạo ra bởi các từ loại khác nhau).
1.2.1.2. Nguyên tắc và các thủ pháp hình thức trong nghiên cứu kết trị của
động từ
Là đơn vị ngữ pháp, các thành tố phụ (các kết tố) của động từ được đặc
trưng bởi hai mặt: mặt ý nghĩa và mặt hình thức ngữ pháp. Tính hai mặt của
các thành tố phụ hay các kết tố đòi hỏi khi xác định, phân tích kết trị của động
từ phải tính đến cả mặt nội dung lẫn mặt hình thức. Ý nghĩa đặc trưng cho mặt
nội dung của các kết tố là tổ hợp các nghĩa có quan hệ tôn ti với nhau. Nghĩa
chung đặc trưng cho tất cả các kết tố là nghĩa xác định (bổ sung). Nghĩa cụ thể
hơn là các nghĩa cú pháp kiểu như: nghĩa
chủ thể, nghĩa đối thể, nghĩa công cụ, nguyên
nhân…
Nghĩa của các kết tố luôn được biểu hiện bằng những hình thức nhất
định. Hình thức ngữ pháp của các kết tố bao gồm khả năng thay thế bằng từ
nghi vấn, cách biểu hiện về mặt từ loại, vị trí so với động từ, sự có mặt hay
vắng mặt ở bên chúng
các quan hệ từ và ngữ
điệu.
Khi xác định phân tích kết trị của động từ, để tránh sự chủ quan, cảm
tính, và để phát hiện đầy đủ đặc điểm của các kết tố, cần phải dựa vào những
thủ pháp hình thức nhất định như: lược bỏ, bổ sung, thay thế, cải biến.
Lược bỏ là bỏ bớt một thành tố trong câu hay cấu trúc nhất định với mục
đích xác định mức độ cần thiết, tầm quan trọng của thành tố đó đối với tổ chức
của cấu trúc. Bằng thủ pháp lược bỏ, ta có thể xác định phân biệt thành tố bắt
buộc (diễn tố, kết tố bắt buộc hay chủ ngữ, bổ ngữ) với thành tố tự do (chu tố
hay trạng ngữ). Chẳng hạn, với cấu trúc: (1)“Nam tìm bạn ở Hà Nội”, khi dùng
thủ pháp lược bỏ, ta sẽ lần lượt có các cấu trúc:
1a. Nam tìm bạn ở Hà Nội.
1b. Tìm bạn ở Hà Nội. (lược thành tố chủ thể)
1c. Nam tìm ở Hà Nội. (lược thành tố đối thể)
1d. Nam tìm bạn . (lược thành tố vị trí)
16
Như các ví dụ cho thấy, việc lược các thành tố chủ thể (chủ ngữ) và đối
thể (bổ ngữ) sẽ khiến cho nghĩa của động từ hạt nhân (tìm) trở nên không xác
định và khiến câu mất đi tính trọn vẹn tối thiểu (trở thành câu không đầy đủ).
Trong khi đó, việc lược thành tố vị trí (chu tố, trạng ngữ) nói chung, không ảnh
hưởng đến tính xác định về nghĩa của động từ hạt nhân và tính trọn vẹn của câu.
Bổ sung là thêm một hay một số từ vào câu hay cấu trúc nhất định với
mục đích xác định các ô trống còn chưa được làm đầy trong cấu trúc, qua đó,
làm rõ đặc điểm nào đó của cấu trúc.Thí dụ, với câu (2)“Cuốn sách vừa mua
rất hay”, việc có thể bổ sung thành tố chủ thể (tôi) vào trước “vừa mua” (Cuốn
sách tôi vừa mua rất hay) cho thấy trong câu này vẫn còn một vị trí mở (ô trống)
chưa được làm đầy. Việc bổ sung vừa thực hiện cho phép rút ra nhận xét: câu
thứ nhất không phải là câu đơn điển hình mà có nét trung gian giữa câu đơn và
câu phức (vì khi bổ sung chủ ngữ vào, ta sẽ có câu gồm hai cụm chủ vị).
Thay thế là thay một yếu tố nào đó trong câu hay cấu trúc nhất định
bằng một yếu tố có chức năng tương đương với mục đích xác định bản chất,
đặc điểm của yếu tố được thay thế hay đặc điểm của cấu trúc.Thí dụ, trong câu
(3)“Cô giáo đang giảng bài trên lớp là giáo viên giỏi” có thể thay tổ hợp “đang
giảng bài trên lớp” bằng đại từ xác định ấy (kia, đó): “Cô giáo ấy là giáo viên
giỏi”. Khả năng thay thế này cho phép khẳng định rằng “đang giảng bài trên
lớp” là định ngữ chứ không phải vị ngữ và do đó, chủ ngữ của câu trên đây (Cô
giáo đang giảng bài trên lớp) không phải là cụm chủ vị mà là cụm (nhóm, ngữ)
danh từ. Cũng bằng thủ pháp thay thế, ta có thể nhận ra nét gần gũi hay tương
đồng giữa thành tố chủ thể (chủ ngữ) với thành tố đối
thể (bổ ngữ), xét trong mối quan hệ cú pháp với động từ.
Ví dụ:
(4) Cha tìm con
Ai tìm ai?
(5) Anh nhớ em
Ai nhớ ai?
Cải biến là biến đổi một câu hay cấu trúc nhất định thành một câu hay
cấu trúc khác với điều kiện không thêm vào một thực từ và không làm thay đổi
cơ bản ý nghĩa của câu hay cấu trúc. Thủ pháp cải biến cho phép xác định nét
tương đồng giữa các thành tố cú pháp (thành phần câu) và các kiểu câu về mặt
cú pháp hay về mặt ngữ nghĩa. Dưới đây là một vài kiểu cải biến thường gặp:
17
Thí dụ:
- Cải biến vị trí:
(6) Nước sôi rồi.
Sôi nước rồi.
(7) Tôi viết thư.
Thư, tôi viết.
(8) Hai bên đã liên lạc được với nhau bằng điện thoại.
Bằng điện thoại, hai bên đã liên lạc được với nhau.
- Cải biến danh hóa:
(9) Đứa trẻ ra đời (đã làm thay đổi bầu không khí trên tàu).
Sự ra đời của đứa trẻ (đã làm thay đổi bầu không khí trên tàu).
- Cải biến bị động:
(10) Địch đốt xóm Chùa.
Xóm Chùa bị địch đốt.
- Cải biến nguyên nhân:
(11) Đứa bé thức giấc vì tiếng động mạnh.
Tiếng động mạnh làm đứa bé thức giấc.
1.2.1.3. Cách xác định thành tố bổ sung (các kết tố) của
động từ
Về nội dung, các thành tố bổ sung hay các kết tố của động từ cụ thể
hóa ý nghĩa của động từ, tức là bổ sung cho tình huống mà động từ miêu tả
một ý nghĩa nhất định.
Về hình thức, chúng luôn có khả năng được thay thế bằng từ nghi vấn, tức
là luôn có thể dựa vào động từ để đặt câu hỏi về chúng. Chẳng hạn, trong câu
(12) "Họ ăn cơm bằng đũa” thì "cơm” và "đũa” là các kết tố của động từ "ăn” vì
về nội dung, chúng cụ thể hóa ý nghĩa cho động từ "ăn” ("cơm” bổ sung ý nghĩa
đối thể, "đũa” bổ sung ý nghĩa công cụ), còn về hình thức, chúng đều có khă
năng thay thế bằng từ nghi vấn (thí dụ: Ăn gì? Ăn bằng gì?).
Khi xác định các kết tố của động từ, thủ pháp đặt câu hỏi đặc biệt tiện lợi,
có hiệu quả. Thủ pháp này cũng giúp cho việc xác định khả năng có hay không
một kiểu kết trị nào đó ở một nhóm động từ nhất định. Khi kết hợp thủ pháp đặt
câu hỏi với thủ pháp phân tích ngữ nghĩa, ta còn có thể phân biệt được kết trị
đích thực của động từ với kiểu kết trị thuần nội dung có thể có ở động từ.
18