Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THU HẰNG

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN, NĂM 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THU HẰNG

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: LL&PPDH BỘ MÔN LLCT
Mã số: 8.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỒNG VĂN QUÂN

THÁI NGUYÊN, NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS.Đồng Văn Quân, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên
quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm
bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả

Phan Thị Thu Hằng

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện luận văn “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên”, trước
hết em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS Đồng Văn Quân, người đã tận
tâm hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo và các phòng
ban khác của trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện, giúp đỡ
cho em được học tập và nghiên cứu khoa học. Em cũng xin chân thành cảm
ơn các thầy cô Khoa Giáo dục chính trị đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em
trong suốt thời gian qua.
Xin được gửi lời cảm ơn tới anh em, bạn bè, những người thân trong
gia đình đã động viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Phan Thị Thu Hằng

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC ..................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................ iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..............................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................4
5. Những đóng góp mới của đề tài ..................................................................4
6. Giả thiết khoa học .......................................................................................5
7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN ........................................6
1.1. Lịch sử nghiên cứu của đề tài ..................................................................6
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài ..........................................................6
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu ở trong nước ..........................................................9
1.2. Một số khái niệm cơ bản ....................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm môi trường ........................................................................ 11
1.2.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, khủng hoảng môi trường, bảo vệ
môi trường và thanh niên ............................................................................. 14

1.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên ........................... 19
1.3. Tầm quan trọng và nội dung giáo dục, hình thức giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường cho thanh niên ................................................................ 22
1.3.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên ..................................................................................................... 22
1.3.2. Nội dung, hình thức giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên ............................................................................................................... 25
iii


Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ
MINH HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN ............................. 32
2.1. Đặc điểm của thanh niên, hoạt động đoàn và công tác thanh niên
tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .......................................... 32
2.1.1. Đặc điểm của thanh niên huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện
nay ................................................................................................................ 32
2.1.2. Hoạt động đoàn và công tác thanh niên tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.................................................................................. 35
2.2. Những thành tựu và nguyên nhân của việc giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .................................................................... 38
2.2.1. Thành tựu đạt được trong giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên hiện nay........................................................................................... 38
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được trong giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .......................................................... 45
2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân trong giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ,

tỉnh Thái Nguyên hiện nay ........................................................................... 47
2.3.1. Hạn chế trong giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên
của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện
nay ................................................................................................................ 47
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .................................................................... 52
iv


Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS
HỒ CHÍ MINH HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN ....................54
3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng
Hỷ, Tỉnh Thái Nguyên ................................................................................ 55
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi ....................................................... 55
3.1.2. Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn .................................................... 55
3.2. Các giải pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trường cho thanh niên
của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ, Tỉnh Thái Nguyên ............... 56
3.2.1. Nhóm giải pháp tuyên truyền ............................................................. 56
3.2.2. Nhóm giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách ................................... 63
3.2.3. Nhóm giải pháp thực tiễn ................................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................ 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 75
PHỤ LỤC

v



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCHTW

Ban chấp hành trung ương

BĐKH

Biến đổi khí hậu

BVMT

Bảo vệ môi trường

CT/TW

Chỉ thị trung ương

ĐVTN

Đoàn viên thanh niên

IUCN

Hiệp hội quốc tế về bảo vệ môi trường

NQ/TW

Nghị quyết trung ương


TN&MT

Tài nguyên và môi trường

TNCS

Thanh niên cộng sản

UBND

Uỷ ban nhân dân

UNEP

Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường tự nhiên là một trong những điều kiện khách quan, thường
xuyên và tất yếu của đời sống xã hội, có ảnh hưởng rất to lớn lên sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư (Cách mạng Công nghiệp 4.0), vấn đề khủng hoảng môi trường
sinh thái vẫn là một trong những vấn đề toàn cầu, đe doạ sự tồn vong của loài
người và của cả hành tinh xanh của chúng ta. Những quốc gia chịu ảnh hưởng
sâu sắc nhất của sự khủng hoảng môi trường chính là những nước nghèo, chậm
phát triển, nơi bị coi là “bãi rác thải” của các nước tiên tiến, trong đó có Việt
Nam.

Trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã góp phần cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng, GDP tăng
mạnh, khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển, máy móc từng bước thay thế lao
động thủ công, góp phần nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả thu được, quá trình công nghiệp hóa cũng tạo ra những tác hại to
lớn như: ô nhiễm môi trường, chất thải công nghiệp, gây ra nhiều hậu quả xấu
đối với môi trường sống của con người, xuất hiện nhiều căn bệnh nguy hiểm
không vacxin phòng bệnh.
Dân số tăng nhanh, nhu cầu sinh hoạt của con người đa dạng phong phú
dẫn đến chất thải ngày càng nhiều. Vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày
càng trở nên nghiêm trọng hơn ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại
chúng hằng ngày, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông
tin về việc môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường,
tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng.
Không nằm ngoài xu hướng trên, Thái Nguyên cũng đang là điểm nóng về
ô nhiễm môi trường, với hàng loạt khu công nghiệp (nhiệt điện, Gang Thép, công
nghiệp Sông Công, Samsung…) kéo theo đó môi trường cũng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
1


Đồng Hỷ là một huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên. Diện
tích 457,75 km2, dân số 114.608 người (tháng 7 năm 2008). Đồng Hỷ giáp huyện
Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía Bắc, huyện Võ Nhai về phía Đông Bắc; giáp huyện
Phú Lương về phía Tây; giáp thành phố Thái Nguyên và huyện Phú Bình về phía
Nam và giáp huyện Yên Thế thuộc tỉnh Bắc Giang về phía Đông. Tuy không có
những khu công nghiệp lớn đóng trên địa bàn huyện, nhưng Đồng Hỷ vẫn chịu
ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng môi trường sinh thái.
Vậy nguyên nhân của những sự việc trên là do đâu?
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách

nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không
ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, gây ô nhiễm môi trường. Bên
cạnh đó, chính sự chưa chặt chẽ trong việc quản lý bảo vệ môi trường của nhà
nước cũng đã tiếp tay cho các hành vi phá hoại môi trường tiếp diễn. Luật pháp
chưa thực sự nghiêm minh, chưa đủ mạnh để ngăn chặn mọi sự vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường... Việc giáo dục ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường
sống chưa được quan tâm đúng mức, chưa được tổ chức thường xuyên. Thiếu
những chính sách và quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và do đang thu
hút mạnh các nguồn vốn đầu tư để phát triển nên dễ mắc vào "cạm bẫy" trở thành
nơi tiếp nhận nhiều ngành công nghiệp "bẩn", thải ra những chất thải nguy hại
cho môi trường. Ngoài ra, lượng xe cô lưu thông ngày càng nhiều cũng góp phần
không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
Mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn có những chương
trình kêu gọi ý thức bảo vệ môi trường của con người nhưng chúng quá ít ỏi,
không đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu và học hỏi của người dân. Do đó mà trình
độ hiểu biết của người dân còn thấp dẫn đến thái độ tuân thủ nội quy nơi công
cộng chưa đi vào nề nếp.
2


Ô nhiễm môi trường gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng nên cần có những
biện pháp để ngăn chặn. Bản thân con người phải ý thức được những tác hại to
lớn khi môi trường ô nhiễm. Tốt nhất là các cơ quan nhà nước cần đưa ra những
bộ luật thật cụ thể về vấn đề xâm hại môi trường. Giáo dục ý thức cộng đồng về
bảo vệ môi trường. Trong thời gian gần đây, chúng ta thường được nghe nói đến
phong trào “Giờ Trái Đất” - một phong trào mang một ý nghĩa vô cùng to lớn
của nhân dân toàn cầu trong việc góp phần giảm bớt tình trạng trái đất nóng lên.
Đó cũng là một trong những hoạt động thiết thực để góp phần bảo vệ môi trường.
Và chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ, thường
xuyên để khắc phục những hậu quả của sự ô nhiễm môi trường, tạo ra môi trường

sống trong lành cho con người.
Như vậy, công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho nhân dân mà
trước hết là đội ngũ thanh niên là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Đây
là lý do chính để tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận của việc giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường, luận văn tập trung làm rõ thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho thanh niên của đoàn TNCS Hồ Chí Minh tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, rút ra những vấn
đề có tính mâu thuẫn, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác trên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Một là, làm rõ cơ sơ lý luận của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thanh niên.
3


- Hai là, phân tích thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của những
hạn chế và vấn đề rút ra.
- Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn và giải pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi

trường cho thanh niên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên địa bàn huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên, trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về bảo vệ
môi trường, đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu, các bài viết trước đó
có liên quan đến đề tài luận văn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử logic; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học;
phương pháp quy nạp - diễn dịch; phương pháp hệ thống hóa; phương pháp lấy
ý kiến chuyên gia; phương pháp phỏng vấn…
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục
ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên nói chung và thanh niên huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
4


- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các đề tài nghiên cứu về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên hiện nay.
6. Giả thiết khoa học
Hiện nay,việc tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh
niên ở huyện Đồng Hỷ mặc dù đã được chú trọng thực hiện nhưng hiệu quả chưa
cao và còn mang tính hình thức.Nếu luận văn đề xuất được các giải pháp tuyên
truyền giáo dục phù hợp với thực tế,mang tính hiện thực góp phần nâng cao hiệu

quả công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên huyện Đồng Hỷ
hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương và 11 tiết.

5


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG CHO THANH NIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài
Môi trường là tài sản chung, vô giá của cả nhân loại. Môi trường có vai trò
vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người, ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Cùng với dân số, môi
trường đã trở thành vấn đề quan tâm của toàn thể nhân loại không chỉ bởi vai trò
vô cùng to lớn của nó đối với chất lượng cuộc sống mà còn là chỉ số đánh giá trình
độ phát triển của đất nước.Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt nền tảng
cho việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề đạo đức sinh thái.
Ngay từ năm 1844, khi viết tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học”,
C.Mác đã chứng minh rằng: con người - xã hội và tự nhiên nằm trong hệ thống
thống nhất, trong đó giới tự nhiên là nguồn gốc sinh thành và quyết định hoạt
động của con người; nếu con người huỷ hoại tự nhiên, phá vỡ mối quan hệ hài
hoà giữa con người và tự nhiên cũng đồng nghĩa với sự phá hoại chính bản
thân con người. Ph.Ăngghen đã cho rằng, “trong giới tự nhiên, không có cái
gì xảy ra một cách đơn độc cả. Hiện tượng này tác động đến hiện tượng khác
và ngược lại” [17;652]. Vì lẽ đó, khi phân tích mối quan hệ giữa con người

với giới tự nhiên ông đã từng cảnh báo rằng: ... chúng ta hoàn toàn không
thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác,
như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta,
với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng
ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới
tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các loài sinh vật khác, là chúng ta
nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy
luật đó một cách chính xác [17;655].
6


Nhiều chương trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường được xây dựng, triển khai hoạt động, nhiều Nghị định thư và Công ước
liên quan đến môi trường đã được ban hành:
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) được thành lập và
nhiều hội nghị bàn về những vấn đề liên quan đến giáo dục đạo đức sinh thái đã
được triển khai rộng khắp. Từ ngày 14 đến ngày 26 tháng 10 năm 1977, Hội nghị
quốc tế về giáo dục môi trường được tổ chức tại Tbilisi (Cộng hoà Grudia), gồm
có 66 đại biểu của 66 nước thành viên của UNESCO tham dự. Hội nghị này là
đỉnh cao của giai đoạn xây dựng chương trình và đặt cơ sở cho giáo dục đạo đức
sinh thái trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, từ ngày 17 đến ngày 22 tháng 8 năm
1987, Hội nghị quốc tế về giáo dục môi trường do UNESCO và UNEP được tổ
chức tại Mátxcơva, có 300 chuyên gia của 100 nước và các quan sát viên IUCN
(Hội Bảo vệ tài nguyên và Thiên nhiên quốc tế) cùng nhiều tổ chức quốc tế đã
tham gia. Hội nghị đã họp bàn, thảo luận, đề ra 9 mục tiêu, chiến lược hành động
quốc tế trong lĩnh vực giáo dục môi trường và đào tạo giáo viên cho thập kỷ 90.
Hội nghị thượng đỉnh của thế giới về Môi trường và Phát triển được tổ
chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), có sự tham gia của hơn 170 các nguyên
thủ quốc gia các nước trên thế giới, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Rio de
Janeiro về môi trường và phát triển, gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình

Nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế
giới trong thế kỷ XXI. Hội nghị cũng khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều
kiện, đặc điểm cụ thể của nước mình để xây dựng Chương trình Nghị sự 21 ở
cấp quốc gia, cấp ngành và địa phương. Hội nghị về môi trường ở Stockhomlm
(Thuỵ Điển) năm 1972 đặt ra vấn đề cần phải có một quan điểm chung và những
nguyên tắc chung, để hướng sự quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới vào việc
bảo vệ môi trường và cải thiện môi trường sống, thì đến năm 1992 Tuyên bố của
Hội nghị Rio de Janeiro (Braxin) đã nói lên sự cần thiết phải có những hoạt động
để đạt đến những hiệp định quốc tế nhằm tôn trọng quyền lợi của tất cả con

7


người, các quốc gia và bảo vệ sự toàn vẹn của hệ thống môi trường và phát triển
toàn cầu.
Từ năm 1992 - 2010 sau 18 năm đã có ba Hội nghị Thượng đỉnh quốc tế
bàn về vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững.
Ngoài ra, trong nhiều Hội nghị quốc tế khác như Hội nghị Kiôto, Cancul, Thượng
Hải... những vấn đề sinh thái và đạo đức sinh thái, giáo dục đạo đức sinh thái
cũng đã được đề cập dù chỉ ở cấp các tiểu ban, các phiên họp thảo luận. Điều
chung nhất trong các bản Tuyên bố, Công ước, Nghị định thư của các hội nghị
nêu trên đều đã đưa việc nhận thức, ý thức về bảo vệ môi trường lên hàng đầu,
trước khi đưa ra những nguyên tắc hành động cụ thể trong từng lĩnh vực của hoạt
động bảo vệ môi trường. Đầu thế kỷ XX, với cương vị đứng đầu Nhà nước Liên
Xô trong một thời gian ngắn, V.I.Lênin đã ký gần 100 sắc lệnh, đạo luật bảo vệ
thiên nhiên và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, còn có nhiều học giả nước ngoài cũng đã nghiên cứu ở những
khía cạnh khác nhau về vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường, như:
Tác giả Noriko Hashimoto (2005), “Viễn cảnh mới cho thế kỷ XXI nhìn từ

góc độ một nền đạo đức học mới - đạo đức học sinh thái”, Người dịch Nguyễn
Thị Lan Hương, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1/16). Trong công trình này, tác
giả đã khái quát được những nội dung cơ bản của môi trường sinh thái, yêu cầu
của việc xây dựng một nền đạo đức mới - đạo đức sinh thái. Đồng thời, tác giả
cũng chỉ ra vai trò của đạo đức sinh thái đối với đời sống con người và những viễn
cảnh mới nếu con người không chú trọng tới đạo đức sinh thái.
Tác giả Tômnobu Imamichi (2005), “Khái niệm đạo đức học sinh thái và
sự phát triển tư tưởng đạo đức”, Người dịch Nguyễn Thị Lan Hương, Tạp chí
Nghiên cứu con người, (6/21). Tác giả đã nêu ra những quan niệm khác nhau về
đạo đức học sinh thái của các nhà khoa học trên thế giới và khẳng định: đạo đức
học sinh thái là xu hướng phát triển cao của tư tưởng đạo đức nhân loại.
Tác giả Paul Kennedy (1995) với cuốn sách “Chuẩn bị cho thế kỷ XXI”,
8


Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, cũng đã nêu ra vai trò của môi rường tự nhiên,
vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự sống của con người. Con người cần
phải có những ứng xử đúng đắn với môi trường để xây dựng một xã hội tươi đẹp
trong tương lai.
Còn nhóm tác giả A.Terry Ramloo, Lê Trọng Cúc (1995), Một số vấn đề
sinh thái nhân văn Việt Nam, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, đã đưa ra sự tổng quan
về vấn đề sinh thái ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay đối với môi trường
Việt Nam như vấn đề cơ chế chính sách, ý thức trách nhiệm của người dân và
các doanh nghiệp Việt Nam đối với môi trường sinh thái, việc cần thiết phải
hướng tới xây dựng môi trường sinh thái nhân văn.
Như vậy, nghiên cứu về vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường và giáo dục
ý thức bảo vệ môi trường là nội dung cấp bách được các học giả quan tâm, nghiên
cứu với nhiều mức độ khác nhau.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu ở trong nước
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường

cho thanh niên, nhiều bài giảng, cuốn sách, bài báo, công trình nghiên cứu khoa
học đã nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là:
Bài giảng phát triển bền vững của Học viện Hành chính quốc gia (2006) đã
bàn về sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm
nhằm phát triển bền vững. Trong bài giảng đã chỉ ra nhiệm vụ cấp bách mà con
người cần phải làm đó là: chống thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất,
bảo vệ môi trường nước, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước, khai thác hợp lý và
sử dụng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, bảo vệ rừng, biển, giảm ô nhiễm không
khí ở các đô thị và các khu công nghiệp, quản lý chất thải rắn và chất thải nguy
hại, bảo tồn đa dạng sinh học, thực hiện các biện pháp nhằm mục đích làm giảm
nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Cứu lấy trái đất chiến lược cho cuộc sống bền vững (1993), Nxb Khoa

9


học và kỹ thuật, Hà Nội… Trong công trình này, tác giả đưa ra vai trò quan trọng
của môi trường, thực trạng môi trường hiện nay; từ đó đưa ra lời kêu gọi toàn
nhân loại hãy cứu lấy trái đất, bảo vệ sự sống bền vững chính là bảo vệ nguồn
sống của con người. Chương trình “Cứu lấy trái đất chiến lược cho cuộc sống
bền vững” đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm, hưởng ứng của các ban ngành,
đoàn thể, tổ chức, cá nhân.
Tác giả Trần Lê Bảo (2001) với cuốn sách “Văn hóa sinh thái nhân văn”,
Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội, đã nghiên cứu từ góc độ văn hóa sinh thái nhân
văn, đề cập đến những cách ứng xử của con người với môi trường sinh thái nhằm
bảo vệ môi trường một cách đúng đắn, phù hợp, giúp cho con người có môi
trường sống tốt nhất.
Quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên ở các tỉnh
miền núi Đông Bắc Việt Nam, Nguyễn Thị Khương (2015), Nxb Đại học Thái
Nguyên, Thái Nguyên. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã phân tích để

thấy được tính tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên; mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế với việc bảo vệ môi trường tự nhiên nói chung và ở các tỉnh miền
núi Đông Bắc Việt Nam nói riêng. Qua sự phân tích của tác giả cho thấy, việc
bảo vệ môi trường tự nhiên đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho mọi tỉnh thành và
cho mọi người dân trong quá phát triển đời sống xã hội.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, đề tài nghiên cứu khoa học cũng tập trung
xoay quanh việc đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh như: TS Trần Văn Miều, “Tuổi trẻ Việt Nam với sự nghiệp
bảo vệ môi trường”, NXB Thanh niên năm (2002).
Dự án cấp bộ “Nghiên cứu và xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu
và tổ chức tập huấn giáo dục bảo vệ môi trường ở các tỉnh vùng núi phía Bắc”
(năm 2004) do TS Phạm Hồng Quang chủ trì.
Phạm Khôi Nguyên: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công
tác bảo vệ môi trường” (2009)
Các công trình trên đã đứng trên nhiều góc độ khác nhau để đưa ra nhiều
10


vấn đề về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên để nghiên cứu tìm ra các biện pháp nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thanh niên đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, huyện Đồng Hỷ-tỉnh Thái Nguyên trong điều kiện biến đổi
khí hậu toàn cầu như hiện nay thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống và đầy đủ. Do vậy, đề tài mà tác giả nghiên cứu thực hiện không
trùng lặp với nội dung của các công trình đã nghiên cứu trước đó.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm môi trường
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội cần
thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên,
không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ, xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên mà

chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng
cuộc sống con người.
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 đưa ra khái niệm: Môi trường bao gồm
những yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao
quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát của con
người với thiên nhiên.[28;7]
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê đưa ra khái niệm: Môi
trường là “toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một
sinh vật tồn tại phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy” [31;635].
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để
sống và phát triển.
Môi trường sống của con người được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động thực
vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để trồng trọt,
chăn nuôi, đất để xây nhà cửa và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung
11


cấp cho chúng ta cảnh quan thiên nhiên đẹp để giải trí làm cho cuộc sống con
người thêm phong phú.
Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... Ở các cấp khác nhau như:
Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, các quốc gia, tỉnh, huyện, thành phố, thị trấn,
cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể... Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định
tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống con
người khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm

tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành tiện nghi trong cuộc sống, như
ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, công viên nhân tạo... Tuy nhiên ở
góc độ đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên, tức là các hoạt động bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, bảo vệ động vật, thực vật
nói chung. Theo nghĩa này, môi trường có bốn chức năng sau:
Thứ nhất, môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi con người đều cần có một không gian nhất định
để phục vụ cho hoạt động sống như: nhà ở, nghỉ ngơi, đất để sản xuất nông
nghiệp, thuỷ sản, kho tàng, bến cảng... Trung bình mỗi ngày, mỗi người đều cần
khoảng 4m3 không khí để thở, 2,5 lít nước để uống, 1 lượng lương thực và thực
phẩm tương ứng 2000 - 2400 kalo. Như vậy, chức năng này đòi hỏi môi trường
phải có phạm vi không gian thích hợp cho mỗi người.
Thứ hai, môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống
và hoạt động sản xuất của con người:
Bắt đầu từ khi con người biết canh tác vào thời kỳ đồ đá cho đến khi phát
minh ra máy hơi nước vào thế kỷ XVIII, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Xét về bản chất thì mọi hoạt động
của con người để duy trì cuộc sống đều nhằm vào việc khai thác các hệ thống
12


sinh thái tự nhiên thông qua lao động cơ bắp, vật tư công cụ và trí tuệ.
Thứ ba, môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo
ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình:
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn thải
ra môi trường chất thải. Các chất thải dưới tác động của các vi sinh vật và các
yếu tố môi trường khác sẽ bị phân huỷ biến đổi từ phức tạp tới đơn giản và tham
gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Trong thời kỳ sơ khai khi
dân số nhân loại còn ít, chủ yếu do quá trình phân huỷ tự nhiên làm cho chất thải

sau một thời gian biến đổi nhất định lại trở lại trạng thái nguyên liệu tự nhiên.
Sự gia tăng dân số thế giới nhanh chóng cộng với quá trình công nghiệp hoá, đô
thị hoá làm cho số lượng chất thải tăng lên không ngừng dẫn đến chức năng này
ở nhiều nơi, nhiều chỗ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường làm cho chất
lượng môi trường giảm và môi trường bị ô nhiễm nặng.
Thứ tư, môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Môi trường cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá
của vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển của văn hoá loại người.
Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tính chất tín hiệu, báo
động sớm các hiểm họa đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như phản
ứng sinh lý của cơ thể trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên, các hiện tượng tai
biến tự nhiên như bão, động đất, núi lửa…
Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gen, các loài
động vật, thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan
có giá trị thẩm mỹ, tôn giáo, văn hoá khác.
Đặc trưng của môi trường:
Một là, tính cấu trúc phức tạp: Hệ thống môi trường bao gồm nhiều
thành phần hợp thành. Các thành phần đó có bản chất khác nhau (tự nhiên,
kinh tế, dân cư, xã hội) và bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, đôi khi đối
lập nhau.
Hai là, tính động: Hệ thống môi trường không phải là một hệ tĩnh, mà luôn
13


luôn thay đổi trong cấu trúc của nó, trong quan hệ tương tác giữa các thành phần
cơ cấu và trong từng thành phần cơ cấu. Bất kỳ một sự thay đổi nào của hệ thống
đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ thống đó lại có xu
hướng lập lại thế cân bằng mới. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ bản của
môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính đến trong hoạt
động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người.

Ba là, tính mở: Môi trường, dù với quy mô lớn hay nhỏ như thế nào, cũng
đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục “chảy”
trong không gian và thời gian. Vì thế, các vấn đề môi trường mang tính vùng, tính
toàn cầu, tính lâu dài và cần được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng,
bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với một tầm nhìn xa,
trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và của thế hệ mai sau.
Bốn là, khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh: Trong hệ thống môi trường,
có các thành phần cơ cấu là vật chất sống hoặc là các sản phẩm của chúng. Các
thành phần này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh
để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hoá, quy luật giảm
entropy nhằm hướng tới trạng thái ổn định. Đặc tính cơ bản này của hệ thống
môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng
thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp
bách hiện nay.
1.2.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, khủng hoảng môi trường, bảo vệ môi
trường và thanh niên
1.2.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Theo khoản 8, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường ban hành ngày 23/6/2014 định
nghĩa ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật. Theo
Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam: "Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính
chất của môi trường, vi phạm Tiêu chuẩn môi trường".[28;12]
Môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ
14


hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con
người, sinh vật. Các tác nhân gây ô nhiễm bao gồm chất thải có thể ở dạng rắn,
lỏng hoặc khí và các dạng năng lượng như nhiệt độ, tiếng ồn. Trong môi trường
tự nhiên luôn có yếu tố này. Tuy nhiên, môi trường chỉ gọi là ô nhiễm nếu nồng

độ các chất trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật
và vật liệu. Hay nói cách khác, nồng độ các chất có thể gây ô nhiễm không theo
tiêu chuẩn môi trường.
* Khái niệm khủng hoảng môi trường
Hiện nay, thế giới đang đứng trước 5 cuộc khủng hoảng lớn là: dân số,
lương thực, năng lượng, tài nguyên và sinh thái. Năm cuộc khủng hoảng này đều
liên quan chặt chẽ với môi trường và làm cho chất lượng cuộc sống của con người
có nguy cơ suy giảm. Nguyên nhân gây nên các cuộc khủng hoảng là do sự bùng
nổ dân số và các yếu tố phát sinh từ sự gia tăng dân số. Do đó, xuất hiện một
khái niệm mới là khủng hoảng môi trường.
"Khủng hoảng môi trường là các suy thoái về chất lượng môi trường sống
trên quy mô toàn cầu, đe doạ cuộc sống của loài người trên trái đất". Những biểu
hiện của khủng hoảng môi trường bao gồm:
Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm không khí (bụi, SO2, CO2 v.v...) vượt tiêu
chuẩn cho phép tại các đô thị, khu công nghiệp; nguồn nước bị ô nhiễm; đất đai
bị thoái hóa, bạc màu, mặn hoá, phèn hoá, khô hạn; hiệu ứng nhà kính đang gia
tăng làm biến đổi khí hậu toàn cầu, tầng ozon bị phá huỷ…
Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên: Rừng đang suy giảm về số lượng và suy
thoái về chất lượng; động - thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng; tài nguyên
khoáng sản bị cạn kiệt
* Khái niệm sự cố môi trường
Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động
của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên gây ô nhiễm, suy thoái
hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.
1.2.2.2. Khái niệm bảo vệ môi trường
15


Cùng với sự tiến triển của lịch sử, con người ngày càng nhận thức được
rằng môi trường đóng vai trò hết quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của

con người, bởi môi trường không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên đầu vào cho
sản xuất và con người tạo ra. Do đó, để bảo vệ môi trường thì phải duy trì các
quy trình sinh thái chủ yếu và các hệ sinh thái quyết định đến đời sống con người,
phải sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là các tài nguyên sinh
vật, tránh làm cạn kiệt hoặc hủy diệt tài nguyên, bảo đảm sẽ có được một chiến
lược phát triển bền vững lâu bền và ổn định. Vì lẽ đó bảo vệ có ý nghĩa tích cực,
nó bao gồm cả sự bảo quản duy trì, sử dụng hợp lý, hồi phục và nâng cao hiệu
suất của môi trường tự nhiên, bao gồm cả các nguồn tài nguyên tái tạo và không
tái tạo.
Bảo vệ môi trường: là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục
các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác,
sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Bảo vệ môi trường tức là bảo vệ môi trường sinh tồn của loài người khỏi
bị ô nhiễm và phá hoại (khiến cho môi trường tự nhiên càng phù hợp với sản
xuất và đời sống của loại người) đồng thời bảo vệ tốt các loài sinh vật trong giới
tự nhiên.
Ở mỗi quốc gia, với mức độ khác nhau đã có những chương trình, kế hoạch
hành động nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Nhiều công ước, hiệp
ước quốc tế nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ các giá trị môi trường
chung của thế giới đã được cộng đồng quốc tế ký kết và thực hiện. Sự bền vững
của việc phát triển kinh tế - xã hội có thể được đánh giá bằng những chỉ tiêu nhất
định về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, chất lượng môi trường và tình trạng xã
hội.
Tại Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Con người được tổ chức tại

16


Stockholm năm 1972, đã khẳng định: Bảo vệ và cải thiện môi trường con người

là một vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh
tế trên toàn thế giới. Mười năm sau, tại Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường
và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro, Braxin (năm 1992) tiếp tục khẳng định
tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường. Theo đó, Hội nghị khẳng định để
thực hiện được sự phát triển lâu bền, sự bảo vệ môi trường nhất thiết sẽ là một
bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và không thể xem xét tách rời quá
trình đó.
Theo quan điểm của Liên hợp quốc, bảo vệ môi trường là những hành
động thực hiện làm bảo vệ môi trường tự nhiên, phòng ngừa hay giảm thiểu
những tác động tiêu cực do các hoạt động kinh tế và xã hội của con người gây ra
cho môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 của Việt Nam cho rằng: “Hoạt động bảo
vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa,
hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học” [28;8-9]
Bảo vệ môi trường còn được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường
trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn
chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi
trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Ở nước ta, bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 ghi rõ “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức,
cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi
trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường”. Để bảo đảm quản lý bảo vệ môi trường có hiệu quả, Việt
Nam quy định: Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường,
thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong cả nước, có chính sách đầu tư, bảo
17



×