Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

skkn đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.6 KB, 10 trang )

Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC …………………………………………………………….
I. TÊN ĐỀ TÀI ………………………………………………………..
II.PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………...
1.Lí do chọn đề tài ……………………………………………………
1.1. Cơ sở lí luận ………………………………………………………
1.2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………
3. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………..
4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm………………………………….
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………..
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu ………………………………….
III. PHẦN NỘI DUNG ………………………………………………..
1.Cơ sở lí luận ………………………………………………………….
2.Thực trạng tình hình ………………………………………………..
3. Nguyên nhân ……………………………………………………….
4. Biện pháp giúp học sinh học tốt,nâng cao chất lượng bài vẽ …….
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………
1.Kết luận ………………………………………………………………
2.Kiến nghị ……………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………...

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

1

1
1
1


2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
4
4
5
7
7
7
10

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
I.TÊN ĐỀ TÀI
Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh Tiểu học thông qua phân môn vẽ tranh
I . PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1Cơ sở lí luận
Dạy học Mĩ thuật ở trường Tiểu học không nhằm đào tạo họa sĩ hay người
làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Chủ yếu tạo
điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái

đẹp vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày. Để làm được điều đó cần
hiểu về cách nhình, cách cảm nhận, lý giải hiện tượng sự vật...của học sinh. Hay
nói cách khác là ngôn ngữ tạo hình của học sinh Tiểu học trong bộ môn Mĩ
thuật, mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này được tìm hiểu thông qua phân môn vẽ
tranh.
Với mong muốn trở thành người giáo viên dạy tốt, dạy giỏi, hoàn thành tốt
công tác nhiệm vụ cần có rất nhiều yếu tố. Đó là chuyên môn nghiệp vụ, kiến
thức, kinh nghiệm và lòng say mê yêu nghề yêu trẻ.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, an
ninh, quốc phòng. Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát
triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục , thì mỹ dục
cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống
của mỗi con người và nhất là thế hệ trẻ. Đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh
TH.
1.2.Cơ sở thực tiển
Với bộ môn mĩ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy còn ít kinh
nghiệm. Không có hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng tiết
còn ít, mỗi trường chỉ có một giáo viên. Việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều
khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mới dược đưa vào trường học gần đây
nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm
kiếm và sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng
cao cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng
thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là
đối với người lớn mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Giảng dạy mỹ thuật ở trường Tiểu học cũng nhằm mục tiêu trên. Trong
quá trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lứa tuổi học sinh, mỗi
lứa tuổi sẽ có cách cảm nhận, suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người
lớn có cách cảm nhận lôgic khoa học tạo nên cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì

có cách cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng
bận những nguyên tắc, trăn trở mà tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào
bài vẽ. Cho nên bài vẽ của học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình
cảm mới lạ. Nói là vậy, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người mỗi đổi thay.
Là người giáo viên dạy mĩ thật cần nắm bắt được đặc điểm này của học sinh để
Người thực hiện: Lê Thị Niềm

2

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực, sự đam mê của học
sinh. Đây cũng là lý do tôi chọn để viết sáng kiến này “Đặc trưng ngôn ngữ tạo
hình ở học sinh TH thông qua phân môn vẽ tranh”.
3. Đối tượng nghiên cứu
Ở đây đối tượng nghiên cứu là đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh Tiểu
học,
4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm
Học sinh trường Tiểu học Hướng Phùng – khối lớp ,2,3,4,5( cụ thể các lớp
2E,2H,3A,3B,3E,3H,4A,4B,4E,5A,5B,5E )
5.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài này sử dụng phương pháp chính sau
5.1. Phương pháp trực quan
5.2. Phương pháp vấn đáp
5.3. Phương pháp gợi mở
5.4. Phương pháp phân tích
6.Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
6.1.Phạm vi nghiên cứu: Trường tiểu học Hướng Phùng thuộc xã Hướng

Phùng huyện Hướng Hóa ,tỉnh Quảng Trị
6.2. Kế hoạch nghiên cứu:
Tháng 9: Đăng kí tên đề tài sang kiến kinh nghiệm
Tháng 10 : Lập đề cương .
Tháng 11,12: Đọc tài liệu tham khảo,thu thập các bài vẽ.
Tháng 1,2: Tiến hành viết,khảo sát số liệu.
Tháng 3: Nghiên cứu bài vẽ, tổng hợp rút kết luận.
Tháng 4: Hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm.
III . PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh,
quốc phòng. Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự
phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát
triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục , thì mỹ dục
cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống
của mỗi con người và nhất là thế hệ trẻ. Đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh
Tiểu học.
Với bộ môn mĩ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy còn ít kinh nghiệm.
Không có hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng tiết còn ít, mỗi
trường chỉ có một giáo viên. Việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều khó khăn.
Đồng thời đây cũng là bộ môn mới dược đưa vào trường học gần đây nhằm đáp
ứng nhu cầu thị hiếu của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và
sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng
với sự phát triển kinh tế, xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp
Người thực hiện: Lê Thị Niềm

3

Trường Tiểu học Hướng Phùng



Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với
người lớn mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
2. Thực trạng tình hình.
Qua việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên ta thấy rằng, việc nắm
bắt vấn đề và tìm phương hướng giải quyết vấn đề đó là điều hết sức quan
trọng, đảm bảo cho tiết dạy bài dạy hiệu quả hơn, đem lại sự thành công trong
công tác giảng dạy.
2.1. Thực trạng học tập:
1. Học sinh chưa nắm bắt được cách xây dựng hình tượng điển hình. Bài
vẽ còn chung chung, mang nặng tính chất hình thức.
2. Học sinh TH có cách nhìn, cách cảm nhận màu hết sức trong sáng,
lung linh đầy màu sắc. Là một sự kết hợp những màu sắc tươi sáng tạo
sự trẻ trung cho bài vẽ.
3. Trong khi tiến hành bài vẽ các em không theo trình tự tiến hành các
bước làm bài mà làm theo ngẫu hứng, thích vẽ cái gì thì vẽ cái ấy, ít
chú trọng trước sau hay chính – phụ trong bài vẽ.
4. Học sinh Tiểu học chưa có thói quen sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài
vẽ hiệu quả hơn, chưa có thói quen quan sát nhận xét sự vật hiện tượng
cho bài vẽ có chiều sâu và hiệu quả hơn.
5. Kỹ năng sử dụng màu nước, màu bột của học sinhTiểu học còn kém.
Khảo sát số liệu đầu năm học cho thấy
Khối
2
3
4
5

Số lượng

43
90
72
66

Bài vẽ hoàn thành
37
86%
68
76%
62
86%
57
86,3%

Bài vẽ chưa hoàn thành
6
14%
22
24%
10
14%
9
23,7%

2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân thứ nhất : Do đặc điểm tâm lý:
Ở học sinh Tiểu học tâm lí chưa bền vững, đa số các em thích vẽ theo suy nghĩ,
ý thích của mình hơn là vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nghĩ gì và vẽ nấy,
đặt bút vào là vẽ không theo trình tự khuôn khổ các bước vẽ. Chính vì vậy người

giáo viên cần hiểu và hướng dẫn các em dần dần, để các em nắm bắt và thấy
được tác dụng của việc vẽ tranh đúng đem lại cho bài vẽ của mình có một kết
quả tốt.
Nguyên nhân thứ hai: Khả năng cảm nhận trong phân môn vẽ tranh
của học sinh Tiểu học:
Học sinh TH có ngôn ngữ tạo hình có gì đó rất đơn giãn nhưng cũng rất
sáng tạo phong phú. Các em thường vẽ tranh theo nhiều nội dung đề tài khác
nhau, một số em cũng tìm cho mình nội dung và cách thể hiện rất dí dỏm, có
nhiều bố cục lạ, đẹp mắt. Nhưng cũng không ít bố cục thể hiện sự lõng lẽo vụng
về, lúng túng của các em trong khi xây dựng bố cục. Về hình tượng thì phần đa
Người thực hiện: Lê Thị Niềm

4

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
các em chưa có suy nghĩ tìm tòi về dáng, hình, động tác và nhất là những đặc
điểm điển hình trong từng loại đề tài hay nội dung mà các em chọn. Bởi hình
tượng các em chọn để vẽ còn chung chung, thiếu cái động, tĩnh; thiếu chiều sâu
bức tranh. Các em vẽ tranh đơn giãn chỉ là kể, tả lại những hoạt động, động tác
của nhân vật, người hay vật hay một quang cảnh nào đó. Đa số học sinh thể hiện
màu sắc trong tranh thường rực rỡ, đôi khi trở nên đối lập về màu sắc khiến
trong tranh trở nên khô cứng ngay cả tranh về đề tài thơ mộng.Những đề tài
được các em ưa thích nhất thường là tranh phong cảnh. Bởi vì đó là thứ gần gũi
được các em quan sát thu nhận một cách thường xuyên thể hiện trí tưởng tượng
ghi nhớ của các em hết sức phong phú đa dạng. Nghệ thuật ngôn ngữ tạo hình
cũng từ đó mà được hình thành. Bộc lộ với những đặc trưng riêng của từng lứa
tuổi.

Chất liệu mà các em thể hiện chủ yếu là bút sáp, bút dạ. Chính vì thế mà
tranh của các em thường là những gam màu rất sống động, tươi vui. Vì vậy đa
phần những bài vẽ của các em có sự chênh lệch về gam màu đậm nhạt rất lớn.
Nhưng nhìn chung các em đã thể hiện được đâu là hình ảnh chính - phụ để vẽ
màu.
Nguyên nhân thứ ba: Do hứng thú học tập trong phân môn vẽ tranh ở học
sinh Tiểu học:
Từ nguyên nhân do đặc điểm tâm lí nên phần nào cũng ảnh hưởng đến hứng thú
vẽ bài của các em. Đa số các em có hứng thú vẽ bài ,vì sau những giờ học mệt
mỏi các em thích tự do thể hiện nên không theo trình tự các bước vẽ dẫn đến
những bài vẽ lệch bố cục .
2.3. Biện pháp giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở
phân môn vẽ tranh:
2.3.1.Chuẩn bị:
Trước khi dạy một bài vẽ tranh đề tài thì khâu chuẩn bị là rất quan trọng,
nhất là đồ dùng dạy học.
Về phía giáo viên ngoài việc chuẩn bị giáo án, phương pháp dạy học thì
một điều không thể thiếu đó là đồ dùng trực quan ( tranh, ảnh minh họa ) vì ở
lứa tuổi trẻ em thì tranh ảnh nó có tác dụng rất mạnh đến khía cạnh thị giác và trí
nhớ của các em. Do vậy cần phải có đồ dùng trực quan phong phú và phải biết
sử dụng đúng lúc.
Về phía học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy đủ sách vở, giấy vẽ, màu,
chì, tẩy những đồ dùng cần thiết cho học sinh. Ngoài ra phải tìm hiểu và quan
sát tham khảo những đề tài mà mình sẽ thể hiện trước khi làm bài.
Khi soạn giáo án cần soạn kỹ, biết chắt lọc những lời thoại, câu hỏi chính
và câu hỏi gợi mở phải rõ ràng, dễ hiểu nhằm tạo hứng thú và sôi nổi trong từng
đối tượng học sinh. Nên tránh những câu hỏi dài khó hiểu và những câu hỏi
lững.
Đối với học sinh kém :cần gợi mở cụ thể hơn giúp các em nhận ra chỗ
chưa đúng, chưa đẹp để bài vẽ đẹp hơn. Ví dụ: bố cục còn lõng lẽo quá không,

hay mau sắc có lộn xộn quá không?...

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

5

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
Đối với học sinh khá, trung bình :Ta có thể gợi mở để các em tự tìm ra, tự
điều chỉnh hay sửa chữa. Ví dụ: Chỗ này, màu này như thế nào? Làm sao cho
bài vẽ đẹp hơn?
Với học sinh giỏi :Ta yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Thử tìm xem bài vẽ có chỗ
nào chưa hợp lý? Có thể vẽ khác được không?
Để phục vụ cho quá trình lên lớp tốt, giáo viên cần phải có thời gian và quá
trình thâm nhập giáo án kĩ càng, phải nắm vững tiến trình bài dạy. Để vừa đảm
bảo tiến trình bài dạy vừa giúp học sinh tiếp thu bài một cách có hiệu quả nhất
điều cốt yếu nhất là phát huy tính tích cực sáng tạo của từng em, đồng thời phải
tạo được bầu không khí vui vẻ thoải mái trong khi các em làm bài.
Giáo viên phải phân tích kỹ các bước tiến hành một bài vẽ tranh đề tài được
thực hiện theo những bước nào? Những bước đó là gì? Kết hợp đồ dùng để học
sinh dễ nắm bắt và bài vẽ của học sinh năm trước để các em có thể thấy được
mức độ thể hiện bài, tham khảo tranh của các họa sĩ về nội dung. Tùy vào số
lượng bài mà những bài sau có thể giảm thời lượng lý thuyết, tăng dần thời gian
thực hành, hướng các em đi vào trình tự các bước vẽ tranh.
Vận dụng triệt để lợi thế khoa học công nghệ thông tin để đem lại hiệu quả
cao trong công tác giảng dạy. Cho nên là người giáo viên nói chung, giáo viên
mĩ thuật nói riêng cần phải nhanh chóng tiếp cận nắm bắt những lợi thế mà khoa
học đem lại, tạo hứng thú và sự đổi mới trong cách giảng dạy.

2.3.2. Phần lên lớp:
Giáo viên phải linh hoạt trong thời gian lên lớp. Phải đảm bảo quy trình thời
gian, phân chia lớp hợp lý, giúp các em nhận thức và hiểu được bài học ngay tại
lớp, giúp các em vẽ được một bài vẽ tranh theo ý thích đúng quy trình thực hiện
các bước vẽ.
Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung:
Qua hình minh họa, giáo viên gợi ý giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài, tìm
ra được cách thể hiện ( cách vẽ ) khác nhau, tìm ra những ý tưởng hay dí dỏm
cho tranh của mình.
Hướng dẫn học sinh cách vẽ:
Nên giới thiệu qua đồ dùng minh học và kết hợp trực tiếp minh họa bảng để
học sinh nhận thức rõ ràng hơn trình tự các bước cũng như ưu điểm khi tiến
hành theo trình tự các bước đem lại vầ nó cụ thể hơn khi chỉ là những lý thuyết
sáo rổng. Nếu như giới thiệu nội dung rồi mới chỉ vào tranh e rằng học sinh
không chú ý, không nhận ra được cách tiến hành ( đâu là mảng, đâu là hình
trong mảng )
Tìm bố cục, phác mảng chính – phụ sao cho hợp lý, cân đối với tờ giấy rõ
trọng tâm, rõ nội dung thể hiện được chủ đề.
Vẽ hình, vẽ màu phải rõ đặc điểm của đối tượng không vẽ chung chung. Vẽ
màu thì không vẽ quá chi tiết cụ thể sẽ rất khó để thể hiện, màu có thể vẽ như
thực hoặc theo cảm hứng. Song cần chú ý giữa tương quan giữa các màu, không
vẽ độc lập từng màu, chú ý đến độ đậm nhạt của các gam màu để thể hiện được
tính chất bài vẽ.
Hướng dẫn học sinh làm bài:
Người thực hiện: Lê Thị Niềm

6

Trường Tiểu học Hướng Phùng



Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
Giáo viên cố gắng làm việc với nhiều học sinh và bao quát tổng thể lớp
giúp các em tìm cách thể hiện ý tưởng của bản thân, bố cục mảng, vẽ hình, tìm
màu. Dùng phương pháp gợi mở trong khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh sẽ đạt
hiệu quả cao cả.
Bên cạnh đó phương pháp giảng dạy phù hợp ở phần thực hành cũng rất
quan trọng. Cần xác định được nội dung kiến thức trọng tâm và yêu cầu hợp lý
với đối tượng học sinh.
Luôn tạo được bầu không khí thoải mái nhẹ nhàng vui vẻ trong từng tiết
dạy theo đặc điểm riêng trong từng phân môn.
Phải dự kiến được các tình huống sư phạm có thể xảy ra và xử lý linh hoạt
đem lại hiệu quả giáo dục cao. Ngoài ra cần phải cho học sinh thấy được tầm
quan trọng của việc nắm vững kiến thức lý thuyết, vận dụng kiến thức vào bài
vẽ một cách linh hoạt không máy móc để làm cho bài vẽ sống động hơn, có hồn
hơn. Tiến tới việc nắm bắt cách thức sáng tạo một bức tranh riêng đi sâu vào
chuyên ngành mình lựa chọn.
Kết quả đạt được qua khảo sát giai đoan cuối năm học
Khối
2
3
4
5

Số lượng
43
90
72
66


Bài vẽ hoàn thành
43
100%
90
100%
72
100%
66
100%

Bài vẽ chưa hoàn thành
0
0%
0
0%
0
0%
0
0%

IV . KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
Để trở thành người giáo viên tốt dưới mái trường xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nói chung và giáo viên giảng dạy tỉnh Quảng Trị nói riêng, trước hết mỗi
chúng ta phải không ngừng trau dồi kiến thức, tìm tòi học hỏi. Đồng thời bổ
sung tinh thần yêu nghề, mến trẻ thể hiện sự nhiệt huyết của bản thân với ngành
nghề mình đã chọn. Mĩ thuật là loại hình nghệ thuật tạo ra cái đẹp, vì vậy dạy mĩ
thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng cần phải làm cho học sinh phấn
khởi mong muốn vẽ đẹp, thể hiện cảm xúc của mình qua bài vẽ.
Phân môn vẽ tranh hoạt động thực hành là chủ yếu vì vậy cần phải luyện

tập nhiều bài. Trong khi dạy học sinh làm bài, giáo viên cần bao quát lớp để
theo dõi giúp đỡ, gợi ý, điều chỉnh, bổ sung những gì cần thiết cho các em.
2.Kiến nghị
Do đồ dùng học tập của Bộ Giáo Dục hiện có còn thiếu nhiều: tranh, ảnh
minh họa trong sách giáo khoa còn sơ sài, nhiều màu còn sai.

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

7

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh
Đã thực hiện học môn mĩ thuật trong trường TH từ năm 2006 theo quy định
của Bộ giáo dục và đào tạo nhưng đồ dùng môn mĩ thuật 1,2,3,4,5 vẫn chưa có,
có chăng cũng chỉ sơ sài làm cho giáo viên mất nhiều thời gian làm, chọn đồ
dùng.
Kiến nghị : Tranh, ảnh minh họa số lượng cần phải tương đối đầy đủ để đáp
ứng bài giảng ngày càng tốt hơn, nhất là những tiết thường thức mĩ thuật.
Cần đầu tư cơ sở vật chất cho các trường TH một số phòng học chức năng
riêng để phù hợp với đặc thù từng môn học.

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

8

Trường Tiểu học Hướng Phùng



Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hướng Hóa, ngày 27 tháng 3 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác
(Ký ghi rõ họ tên)

Lê Thị Niềm

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

9

Trường Tiểu học Hướng Phùng


Đăc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh tiểu học qua phân môn vẽ tranh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình bố cục I. NXB Đại học sư phạm năm 2004.Tác giả Đàm Luyện.
2. Giáo trình bố cục II.NXB Đại học sư phạm năm 2004.Tác giả Đàm Luyện.
3. Nghệ thuật bố cục và khuôn hình ( sách tham khảo )
4. Giáo trình kí họa. NXB Đại học sư phạm năm 2004. Tác giả Nguyễn Lăng
Bình.
5. Sách giáo khoa mĩ thuật 1,2,3,4,5. NXB Giáo dục.

6. Sách chuẩn kỹ năng kiến thức. NXB Giáo dục

Người thực hiện: Lê Thị Niềm

10

Trường Tiểu học Hướng Phùng



×