Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học học THUYẾT NHÂN, lễ, CHÍNH DANH của KHỔNG tử và sự tác ĐỘNG đến VIỆC xây DỰNG GIA ĐÌNH văn hóa ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.12 KB, 19 trang )

Học Thuyết “nhân - lễ - chính danh” của khổng tử và sự tác động
tới việc xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay
======================================

MỞ ĐẦU
Nghiên cứu lịch sử triết Trung Quốc, đặc biệt khi chúng ta nghiên cứu
tư tưởng triết học của Nho gia, với những triết lý hết sức sâu sắc với những
quan niệm về luân lý, đạo đức, chính trị xã hội và những triết lý của Nho gia
đã có sự tác động sâu rộng, trong đời sống, chính trị xã hội ở đất nước Trung
Quốc. Cùng với quá trình lịch sử du nhập vào Việt nam, tư tưởng của Triết
học Nho gia đã tác động sâu sắc đến đời sống, luân lý, đạo đức, chính trị xã
hội ở Việt nam. Đại biểu suất sắc của triết học Nho gia mà chúng ta đề cập
tới là Khổng Tử.
Khổng Tử sinh năm 551, mất 479 trước công nguyên, tên là Khổng
Khâu, tự là Trọng Ni; ông là người nước Lỗ- nơi bảo tồn được nhiều di sản
văn hoá cũ của nhà Chu. Thời đại của ông là thời đại “vương đạo suy vi, bá
đạo trị vì”, lễ nhạc của nhà Chu bị đảo lộn. Với hoài bão chính trị của
mình, ông đã xây dựng học thuyết “Nhân – lễ – chính danh” nhằm góp
phần lập lại kỷ cương, lễ nhạc của nhà Chu, giải quyết những vấn đề xã hội
– những vấn đề cấp bách đặt ra trong thời đại ông đang sống. Do sự chi
phối mang tính quyết định của điều kiện xã hội lịch sử, sự hạn chế của bản
thân Khổng Tử, bên cạnh những cống hiến to lớn còn tồn tại một số hạn
chế nhất định của học thuyết này, những hạn chế ấy đã bộc lộ ngay cả khi
được áp dụng vào trong xã hội của thời đại Khổng Tử, cũng như trong thời
đại ngày nay. Bởi vậy, chúng ta cần biết bóc tách, kế thừa và lọc bỏ những
gì trong học thuyết này để nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng gia đình văn
hoá mới ở nước ta hiện nay.


2


1. Những tư tưởng cơ bản về “Nhân – lễ – chính danh” trong triết
học chính trị xã hội của Khổng Tử.
Khổng Tử- Nhà triết gia nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ cổ đại đã có
những đóng góp đáng kể trong những quan niệm của ông về thế giới, ông đã nêu
lên những tư tưởng về trời, đạo trời, mệnh trời, nhiều khi ông đã coi trời là giới tự
nhiên, như quy luật vận hành của tự nhiên, muôn vật luôn tự vận động không
ngừng “Thiên hà ngôn tại? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên”, nghĩa là trời có
nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh ra). Nhưng có lẽ cống hiến lớn
hơn cả của Khổng Tử là ở tư tưởng triết học chính trị xã hội của ông, mà trong đó
tiêu biểu nhất, trung tâm nhất là học thuyết về “Nhân – lễ – chính danh”.
“Nhân – lễ – chính danh” tuy là ba phạm trù khác nhau, nhưng giữa
chúng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu tách rời nhau sẽ không
chỉ làm hạn chế tác dụng của nhau mà còn làm cho chúng không thể tồn tại,
không có giá trị gì trong cuộc sống; bởi vì trong nhân đã có lễ và chính danh,
cũng như trong lễ đã có nhân và chính danh, và đương nhiên trong chính danh
cũng đã có nhân và lễ. Song, không phải vị trí vai trò của ba phạm trù ấy như
nhau, mà phạm trù “nhân” luôn được xem là cốt lõi, là hạt nhân bao trùm toàn
bộ học thuyết chính trị của ông.
Nhân trong tư tưởng triết học của Khổng Tử không phải là cái bất biến,
chật hẹp, tuỳ vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể để nội dung của nhân biểu
hiện ra, do đó nhân còn luôn hàm chứa nhiều vấn đề rất sâu sắc. Theo ông,
nhân là đức tính toàn diện, là cái gốc đạo đức của con người, là lòng yêu
thương con người, giúp đỡ mọi người.Tư tưởng ái nhân của Khổng Tử rõ ràng
là thời đại nào cũng rất cần, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện nay. Nếu như ở thời đại Khổng Tử do xã hội loạn lạc, do tồn tại chế
độ áp bức bóc lột, nên tư tưởng ái nhân là một tư tưởng tiến bộ và cần thiết,
thì ngày nay không kể là xã hội loạn lạc hay áp bức bóc lột tư tưởng ái nhân


3


ấy vẫn rất cần thiết, thậm chí còn là vấn đề bức thiết khi trong xã hội đã có
không ít người trà đạp lên nhân phẩm, coi thường tính mạng người khác, đối
xử với nhau trên cơ sở giá trị của đồng tiền, trong nhiều mối quan hệ xã hội
hiện nay đã và đang có xu hướng “tiền hoá”, thậm chí ngay cả trong quan hệ
huyết thống, gia đình, dòng họ... Có lẽ vì thế mà ngay từ xa xưa Khổng Tử đã
nhận thức được mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, nên ông đã cho rằng ái
nhân là phải biết lấy “hiếu lễ” làm gốc, muốn có quan hệ xã hội tốt thì phải có
các quan hệ huyết thống tốt. Tư tưởng ái nhân của Khổng Tử được xuất phát
từ nguyện vọng điều chỉnh có tinh phổ biến của quan hệ giữa con người với
con người, của quan hệ đạo đức có tính chất giai tầng. Để có ái nhân tốt thì
không được phân biệt đẳng cấp, sang hèn mà phải luôn yêu thương lẫn nhau
“ái hữu sai đẳng”, phải có “ôn, cung, nhượng, khoan, tín, mẫn, huệ…” nghĩa
là phải ôn hoà, cung kính, nhường nhịn, khoan dung, tín cẩn, cần cù và ra
ơn…Nhưng, trong tư tưởng về nhân của Khổng Tử lại chứa đựng sự phân biệt
giai cấp, điều này vừa làm hạn chế tư tưởng ái nhân, vừa làm “bó hẹp” phạm
vi phát triển của nhân, ông cho rằng chỉ có người quân tử (tức giai cấp thống
trị) mới có thể đạt được đức nhân, còn kẻ tiểu nhân (tức nhân dân lao động)
không thể có đức nhân, ông nói, “Quân tử nhi bất nhân giả hữu hỹ, vị hữu tiểu
nhân nhi nhân giả dã” (đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp
thống trị, bậc tiểu nhân không có đạo nhân).
Nhân trong triết học của Khổng Tử còn được thể hiện ở tư tưởng (tôn trọng
người hiền tài), đã là người hiền tài thì ta phải kính trọng, phải nhường nhịn, nếu
không nhường tức là “ăn cắp địa vị”, ông cho rằng “học tập lễ nhạc trước, rồi mới
làm quan, chính là những kẻ dã nhân (tức dân thường), làm quan trước rồi mới
học lễ nhạc chính là người quân tử (con cháu quý tộc); nếu dùng người thì ta chọn
những người học tập lễ nhạc trước”. Tư tưởng “thượng hiền” của Khổng Tử được
nhiều triết gia, nhiều nhà nghiên cứu về chính trị xã hội sau này tiếp tục phát triển,



4

đến thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen tư tưởng ấy được nâng lên thành tư tưởng
về vị trí, vai trò của cá nhân lãnh tụ trong phong trào quần chúng.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần…càng cần phải có nhiều hiền tài. Hơn nữa, công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay càng đặt ra yêu cầu cấp
thiết của việc lựa chọn và phát huy vai trò những người vừa có đức, vừa có tài
phục vụ cho đất nước và trên thực tế họ đã và đang đóng góp không nhỏ cho
sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ điều này Đảng ta luôn chăm lo “bồi
dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài”, ngày càng có nhiều chính sách để thu hút
nhân tài, vì hiền tài là nguyên khí quốc gia, quốc gia nào càng có nhiều người
hiền tài thì càng có điều kiện phát triển mạnh và ngược lại. Lẽ đương nhiên,
đã là người vừa có đức, vừa có tài thì từ việc gia đình đến việc xã hội họ luôn
tận tụy, làm hết sức mình, chăm lo xây dựng cho gia đình và xã hội ấy ngày
càng phát triển tốt đẹp.
Nhân trong tư tưởng của nhà triết học Khổng Tử không phải chỉ là yêu
thương người khác, mà còn phải biết yêu thương, quý trọng chính bản thân
mình, phải biết làm cho mọi người yêu quý mình, tôn trọng mình. Song, đây
không phải là tư tưởng đề cao cá nhân, không phải là cá nhân chủ nghĩa, mà
thực chất đây là một đức tính đáng quý, một yêu cầu rất cao để có thể đạt
được nhân. Ngày nay, tư tưởng ấy được chúng ta hiểu tôn trọng hay yêu
thương người khác chính là tôn trọng hay yêu thương bản thân mình, tôn
trọng bản thân mình cũng chính là đã tôn trọng người khác. Tư tưởng này của
Khổng Tử như một thang giá trị trong quá trình xây dựng, thực hiện các
chuẩn mực đạo đức xã hội, nó cần được nhân rộng và phát huy vai trò hơn
nữa trong xã hội ta hiện nay.



5

Cùng với những tư tưởng tiến bộ về nhân, Khổng Tử còn đưa ra tư
tưởng về lễ, theo ông lễ là toàn bộ những nghi lễ, nghi thức, phong tục tập
quán, chuẩn mực, quy tắc, quy chế, kỷ cương, thể chế pháp luật của nhà nước,
tôn ti, trật tự của cuộc sống, cũng như trong quan hệ giữa con người với con
người, ai ở phận nào (danh) thì được dùng lễ ở phận ấy, tuỳ vào tính chất công
việc khác nhau mà dùng những lễ khác nhau. Nội dung lễ mà Khổng Tử
muốn nói đến là những quy phạm đạo đức thời Tây Chu; lễ được hiểu như là
cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo cho sự phân định trên dưới rõ ràng,
như là một đức bên trong ngũ thường, là sự thực hành đúng giáo huấn kỷ
cương theo tư tưởng của Nho giáo. Đã là một con người thì bất cứ ai cũng
phải học lễ, biết lễ và có lễ, nếu không thì sẽ là phi lễ, mà đã phạm phi lễ thì
không được nhìn, không được nghe, không được nói, không được làm; đồng
thời khi đã phi lễ, mất lễ thì cùng không thể đạt được đức nhân, vì theo Khổng
Tử người biết sửa mình, hành động theo điều lễ mời là người có đức nhân
“khắc kỷ phục lễ vi nhân” và ông luôn khuyên mọi người nên làm đúng theo
lễ. Lễ trong tư tưởng của Khổng Tử luôn hoà quyện với nhân, trong mối quan
hệ biện chứng này lễ bao giờ cũng được coi là hình thức biểu hiện ra bên
ngoài của nhân, còn nhân luôn là nội dung sâu sắc, phong phú ẩn chứa trong
lễ.
Tư tưởng về lễ của Khổng Tử còn được phát triển, mở rộng bởi những
nội dung mới; quá trình áp dụng tư tưởng về lễ trong xã hội thời nhà Chu đã
được ông phát triển từ lễ thuần tuý là hình thức thể hiện của hành vi và ý thức
tôn giáo có tính chất tín điều lên thành lễ với tư cách là một phạm trù có ý
nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc. Ông khẳng định, lễ là một nội dung thuộc
về phạm trù văn hoá, lễ phải là cái có sau bản tính tự nhiên của con người (ở
đây ông chưa thấy được sự ảnh hưởng to lớn của điều kiện kinh tế-xã hội đến
lễ), ông ví lễ như “bức tranh vẽ trên nền trắng”(Hội sự hậu tố – Luận ngữ, Bát



6

dật). Bản tính tự nhiên của con người, theo ông phải là “hiếu lễ”, tức là con
cái phải hiếu thảo với cha mẹ, kính thuận với anh em và người lớn tuổi. Tư
tưởng này của ông được học trò Hữu Nhược làm rõ hơn: Những người có
lòng hiếu thảo với cha mẹ, kính yêu hoà thuận với anh em và người lớn tuổi,
ít ai có tư tưởng phạm thượng, mà đã không có tư tưởng phạm thượng thì
không thể có tư tưởng phản loạn-tức giữ được lễ. Xuất phát từ luận điểm này
Khổng Tử cho rằng “hiếu lễ” là cái gốc của điều nhân, ông luôn yêu cầu các học
trò của mình trước hết phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ, kính thuận với anh em
và người lớn tuổi, cẩn trọng trong mọi việc làm, trung thực trong lời nói, có lòng
yêu thương mọi người, hay gần người có đức nhân, những ai thực hiện được các
yêu cầu đó thì ông mới dạy tiếp học lễ, học văn. Nâng lên cao độ tư tưởng hiếu
lễ ấy, Khổng Tử cho rằng trong xã hội còn có vua nên phải thờ phụng nhà vua,
từ những phép tắc trong gia đình phải được nâng lên và vận dụng vào trong việc
xây dựng thể chế, nghi thức và tổ chức bộ máy cai trị đất nước của thần dân.
Ngày nay những cống hiến trong tư tưởng về lễ của Khổng Tử vẫn còn
có nhiều giá trị to lớn trong xây dựng xã hội mới, con người mới cũng như gia
đình văn hoá mới ở nước ta. Nếu cách đây hàng ngàn năm ông đã nói đến
quan hệ hiếu lễ trong gia đình, thì nay tư tưởng ấy vẫn đang là một vấn đề cấp
thiết, nổi cộm trong xã hội ta, khi một số luân lý xã hội bị đảo lộn, đạo đức xã
hội bị xuống cấp, quan hệ trong nội gia đình đang được đặt lên “bàn cân của
vật chất (tiền của)”…Nếu chúng ta biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống,
chúng ta sẽ có thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp, xây dựng được những
con người giàu lòng nhân ái, vị tha, những gia đình văn hoá mang đậm màu
sắc của dân tộc Việt Nam.
Trong học thuyết của mình, Khổng Tử không chỉ bàn đến nhân và lễ,
mặc dù đó là những biểu hiện không thể thiếu của mỗi một con người, mà ông
còn nêu lên tư tưởng chính danh. Theo ông, chính danh là phải làm mọi việc



7

cho ngay thẳng, trong xã hội mỗi người đều có địa vị, bổn phận (danh) nhất
định, nên người có chính danh phải là người luôn làm tròn bổn phận, nghĩa
vụ, công việc của mình; từ trên xuống dưới, từ vua đến tôi, từ cha đến con, từ
chồng đến vợ…phải phân minh rõ ràng, mỗi người sống làm sao phải cho
xứng với từng cương vị ấy, “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” nghĩa là
vua phải xứng cho đạo làm vua, cha phải xứng là người làm cha, con phải
xứng đúng đạo làm con, nếu không làm được như vậy thì cũng không thể đạt
được đức nhân. Chúng ta đều thấy điều quan trọng trong cuộc sống không
phải là hữu danh vô thực, mà phải là từ cái thực ấy làm nổi lên cái danh, đó
mới là cái đáng quý, đó mới là người sống đúng chính danh. Trong xã hội ta
hiện nay đang không ít kẻ hữu danh vô thực, có người dựa vào chỗ này, chỗ
kia để cố tạo ra cái danh cho mình, còn thực chất trình độ, năng lực và phẩm
chất rất yếu kém. Những con người đó chúng ta cần phải lên án, đấu tranh để
cho những người có tài, có đức thực sự được đứng vào vị trí ấy, hàng ngũ ấy
để họ cống hiến nhiều hơn cho xã hội và cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh ở nước ta được tốt hơn. Khổng Tử cũng
nhấn mạnh muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì nếu
“danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không
thành, việc không thành thì lễ nhạc không hưng thịnh, lễ nhạc không hưng
thịnh thì hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì dân không biết đặt
tay làm, đặt chân đứng vào đâu”. Để đạt được chính danh, ông đã đề cao tư
tưởng nhân trị, ông mong muốn vừa bằng giáo hoá, vừa bằng sự nỗ lực của
bản thân mỗi cá nhân mà con người có thể đạt được điều nhân, có thể tự sửa
mình cho hợp với lễ, và như vậy cũng tự bản thân họ ắt sẽ đạt được chính
danh. Đây là một mong ước chính đáng, tốt đẹp, một tư tưởng nhân từ, “trọng
hiền” của ông, nhưng chỉ tiếc rằng trong xã hội loạn lạc ấy không thể dùng lễ

trị, đức trị, nhân trị mà phải dùng biện pháp mạnh- đó là pháp trị mới có thể


8

làm ổn định xã hội. Bên cạnh tư tưởng nhân trị, ông cũng như phái nho gia
còn chủ trương “tu thân” theo ngũ luân, ngũ thường để thực hiện chính danh.
Trong ngũ luân ông rất coi trọng ba mối quan hệ cơ bản được coi là mối quan
hệ rường cột – gọi là tam cương (quan hệ vua tôi, cha con , chồng vợ). Trong
quá trình tu thân phải tuân thủ nguyên tắc: Quân nhân – thần trung, phụ từ –
tử hiếu, phu nghĩa – phụ thính, huynh lương - đệ đễ và bằng hữu phải thành
tín; phải rèn luyện theo năm phẩm chất của con người: Nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín. Vì vậy, để đạt được đức nhân con người nhất thiết phải chính danh, phải
có trí và dũng. Theo ông khi con người mà có đức nhân thì chẳng việc gì lo
buồn, có đức trí thì chẳng bao giờ sai lầm, có đức dũng thì chẳng bao giờ
kinh sợ, con người có thể có trí hoặc có dũng mà không nhân, nhưng không
thể có nhân mà thiếu trí và dũng. Trí là sự hiểu biết điều hay lẽ phải, là cơ
sở để nhận thức đúng đắn và có hành vi phải đạo trong các mối quan hệ xã
hội. Muốn có trí thì phải học, đặc biệt là tự học, học suốt đời, “học không
biết chán, dạy không biết mỏi”. Từ đó trí sẽ giúp con người có đủ khả năng
xét đoán mọi việc để hành động đúng với lễ, biết mình phải làm gì để cho
chính danh. Do đó, nhân – lễ – chính danh luôn hoà quyện vào nhau, chúng
là một thể thống nhất không tách rời trong mỗi một con người, nếu ta tách
chúng ra khỏi nhau thì sẽ không còn là nhân, lễ hay chính danh một cách
trọn vẹn, và như vậy cũng sẽ không thể có con người toàn diện được.
Nhân – lễ – chính danh là các phạm trù cơ bản trong học thuyết
triết học về chính trị xã hội của Khổng Tử, mỗi phạm trù chứa đựng
những nội dung nhất định, chúng vừa nằm trong nhau, vừa là của riêng
nhau nhưng không tách rời nhau, sự linh hoạt, mềm dẻo của ba phạm trù
ấy đã nói lên một mẫu người lý tưởng theo quan điểm của Nho gia nói

chung, quan niệm của Khổng Tử nói riêng. Đây cũng chính là những gì


9

mà Khổng Tử và phái Nho gia đã cố gắng làm trong những năm trước
của thời kỳ cổ đại ở Trung Quốc.
Nhìn chung, tư tưởng của Khổng Tử về nhân – lễ – chính danh có nhiều
điểm hợp lý, có nhiều đóng góp cho tư tưởng triết học về chính trị xã hội của
nhân loại, nhiều nội dung mang giá trị nhân văn, vĩnh hẵng như:Tư tưởng “ái
nhân”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”…Trong thời đại ngày nay, khi cách mạng
khoa học kỹ thuật và công nghệ đang ngày càng đi sâu vào mọi lĩnh vực của
cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển mạnh về mọi mặt, thì nó cũng đang làm
cho tình người khô khan hơn, một số tổ chức phản động, lưu vong ra sức tìm
cách chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, tình cảm giữa con người với con người…tư
tưởng nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử càng tỏ rõ vai trò to lớn của mình
trong quá trình giáo dục nhân cách của con người, trong tiến trình phát triển
chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong tư tưởng của học thuyết này vẫn còn một số hạn chế
nhất định, như tư tưởng nhân của ông còn mang tính giai cấp, ông quả
quyết rằng người quân tử mà phạm vào điều bất nhân còn có thể có, chứ
chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân (Luận ngữ, hiến văn),
nghĩa là chỉ người quân tử mới có thể làm được và trở thành đức nhân, còn
kẻ tiểu nhân thì không bao giờ có được đức nhân. Do bị ước thúc bởi lễ để
quy về chính danh, nên trên thực tế nhân không vượt ra khỏi được lễ. Tư
tưởng về lễ còn một số nội dung mang tính chất hà khắc, áp đặt, bảo thủ.
Tư tưởng về chính danh chưa dám nói lên sự vận động, phát triển của nó
trong quần chúng nhân dân, nhất là giai cấp nông dân, những người dân lao
động. Từ đây đặt ra cho những người nghiên cứu phải biết “gạn đục khơi
trong”, biết chắt lọc và kế thừa những tư tưởng tiến bộ, phù hợp để vận

dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao.


10

Nước ta, trong những năm gần đây thành tựu to lớn của thời kỳ đổi
mới đã và đang làm rạng rỡ bộ mặt toàn xã hội, nền kinh tế phát triển
mạnh, tổng sản phẩm quốc dân tăng, thu hút đầu tư từ nước ngoài ngày
càng mạnh, tình hình chính trị- xã hội ổn định, đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội có bước phát triển nhất định, phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng tổ - ấp - khu phố
văn hoá, xây dựng gia đình văn hoá đang thu được những thắng lợi ban
đầu. Song, nước ta đang còn tồn tại không ít vấn đề xã hội bức xúc cần
phải giải quyết, như nạn tham nhũng, các tệ nạn xã hội ngày càng có chiều
hướng gia tăng, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam…vì vậy cần phải có nhiều giải pháp
đồng bộ cùng giải quyết.
2. Một số ảnh hưởng của học thuyết nhân – lễ – chính danh đến quá
trình xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay
Gia đình là tế bào của xã hội, chăm lo xây dựng gia đình văn hoá tốt là
cơ sở, nền tảng xây dựng nền văn hoá tiến bộ cho toàn xã hội. Đảng ta đã xác
định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 -2010 là “làm
cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống
của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng
chống văn hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [4, 213], “khuyến khích
các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hoá” [5,
214]. Quá trình xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay vừa tuân thủ
theo định hướng của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa chịu

ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… nước ta,
trong đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của tư tưởng Nho giáo, đặc biệt là tư
tưởng về nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử.


11

Khái niệm gia đình văn hoá do Bộ văn hoá kết hợp với Trung ương Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam nêu ra ngày 12-5-1975, được hiểu như là một mục
tiêu để phấn đấu xây dựng gia đình ở nước ta. Gia đình văn hoá cũng được coi
là một kiểu gia đình mới khác với kiểu gia đình truyền thống, khác với kiểu
gia đình cũ trong các chế độ xã hội phong kiến, thực dân; bởi vì trong gia
đình hiện nay ngoài những yếu tố truyền thống đã được chọn lọc, kế thừa và
phát huy còn có những yếu tố mới của thời đại mới, nhất là những yếu tố mới
nảy sinh từ trong công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay.Trong một gia đình
hiện nay phần lớn là kiểu gia đình hai hoặc ba thế hệ, trong đó thường có ông
bà, cha mẹ và con cháu; kiểu gia đình này khá phổ biến ở vùng nông thôn Việt
Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng gia đình văn hoá chúng ta cần chú ý đặc
điểm gia đình ở các vùng miền, cũng như sự ảnh hưởng của điều kiện bên
ngoài đến từng kiểu gia đình ấy.
Do điều kiện lịch sử xã hội từng thời kỳ khác nhau, nên việc xây dựng
gia đình văn hoá ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể cũng không giống nhau, tiêu
chí xây dựng khác nhau, sự ảnh hưởng của các yếu tố đến quá trình xây
dựng cũng khác nhau, nhưng trong giai đoạn hiện nay nói đến xây dựng gia
đình văn hoá là phải nói đến gia đình có đời sống kinh tế, vật chất ổn định,
phát triển; có đời sống văn hoá, tinh thần phong phú, lành mạnh; có các
thành viên trong gia đình luôn hoà thuận, dân chủ, vợ chồng bình đẳng, con
cháu yêu quý và kính trọng ông bà, cha mẹ, còn cha mẹ, ông bà phải yêu
thương và có trách nhiệm với con cháu, biết kính trên nhường dưới, trong
gia đình luôn có tôn ti trật tự, có kỷ cương nề nếp; mọi thành viên trong gia

đình phải tuân thủ đúng pháp luật, thực hiện tốt các nghĩa vụ công dân, có
tinh thần tương trợ cộng đồng tốt.[1, 14] Những tư tưởng về xây dựng gia
đình văn hoá ấy ít nhiều ta thấy có sự ảnh hưởng nhất định của Nho giáo,
đặc biệt là tư tưởng của Khổng Tử về nhân – lễ – chính danh. Nói cách khác,


12

tư tưởng về nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử có giá trị rất lớn trong quá
trình xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay.
Như vậy xây dựng gia đình văn hoá là phải xây dựng gia đình có sự phát
triển cả về vật chất lẫn tinh thần, mọi người trong gia đình đó phải thực sự
hoà thuận, có tinh thần dân chủ, cởi mở, đoàn kết, yêu thương và có trách
nhiệm chăm sóc lẫn nhau, bầu không khí trong gia đình luôn vui vẻ, đầm ấm,
tôn thờ, kính trọng tổ tiên, xây dựng các quy chuẩn riêng phù hợp với từng
thời đại lịch sử cụ thể, với nền văn hoá chung mà xã hội đang xây dựng.
Ở nước ta ngay từ thế kỷ XIV, các gia đình Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
ngày càng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nói chung, tư tưởng về nhân – lễ –
chính danh của Khổng Tử nói riêng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vốn đã là nét
truyền thống lâu đời của dân tộc, của các gia đình người Việt, đến nay được
Nho hoá càng trở thành mối dây tinh thần liên kết, gắn bó mọi người trong gia
đình với nhau, tục lệ này được diễn ra trong cả năm, nhất là những ngày giỗ
mọi thành viên dù có đi làm ở xa nhưng cũng nhớ về hội tụ để bày tỏ lòng
thành kính, không quên cội nguồn, gốc rễ của mình. Ngày nay trong mọi gia
đình người Việt vẫn duy trì đều phong tục thờ cúng tổ tiên, mỗi gia đình
thường có một nơi thờ tự được bố trí ở chỗ trang nghiêm nhất, sạch đẹp nhất.
Ngày cúng giỗ tổ tiên thực sự là ngày lễ (ngày hội tụ) của gia đình và họ hàng
gần xa. Những nghi thức lễ bái càng làm tăng thêm tinh thần tông tộc, thắt chặt
thêm mối dây huyết thống vừa có ý nghĩa tưởng niệm người xưa, vừa có ý
nghĩa giáo dục đạo hiếu uống nước nhớ nguồn trong mỗi gia đình. Những năm

gần đây, tình hình kinh tế ổn định và phát triển, thu nhập của đại đa số nhân
dân được nâng lên, đời sống ngày một khá hơn, nên không ít các gia đình đã và
đang thể hiện lòng thành tín, nhớ tới cội nguồn bằng việc tu sửa nhà thờ, xây
cất mồ mả.v.v. Nếu lọc bỏ những hạn chế (lãng phí, ganh đua…của các gia


13

đình) trong lĩnh vực này chúng ta sẽ thấy giá trị văn hoá của đời sống gia đình
ở trong đó.
Hiếu vốn là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống, được hình thành
từ rất xa xưa và gắn liền với phong tục, tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên, từ khi có
ảnh hưởng tư tưởng nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử đã phát triển lên với
nhiều nét mới đặc sắc, thậm chí nó còn phát triển vượt ra ngoài phạm vi gia đình
trở thành luân lý xã hội. Việc kính trọng người cao tuổi, kính trọng ông bà, cha
mẹ, anh em, những người có công sinh thành và dưỡng dục là nét đẹp của đạo
hiếu dân tộc ta. Do đó, quá trình xây dựng gia đình văn hoá mới ở nước ta hiện
nay cần phát huy, phát triển nội dung này. Tư tưởng hiếu lễ của Khổng Tử vừa
như một tiêu chí, vừa như những lời nhắc nhở mọi người trong gia đình không
bao giờ được lãng quên hay xem nhẹ. Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau
đã và đang dẫn đến tình trạng một số gia đình có con, cháu ăn chơi, đua đòi, bất
nghĩa, bất hiếu, chẳng những không phụng dưỡng được ông bà, cha mẹ mà còn
lăng mạ, bỏ rơi hoặc anh em, con cháu chia nhau chăm sóc theo kiểu bị bắt buộc
phải nuôi. Để đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện
nay, chúng ta cần tích cực đấu tranh, lên án những hành vi bất hiếu ấy, tăng
cường công tác giáo dục của mọi gia đình và toàn xã hội.
Tư tưởng về nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử cho chúng ta thấy các
thành viên trong mỗi gia đình phải luôn có trách nhiệm với nhau, người trên
phải làm gương, dạy dỗ chỉ bảo cho người dưới. Con cái nếu có lỗi thì cha mẹ
phải trách cứ, em có lỗi thì anh chị phải chỉ bảo nghiêm khắc trên nền tảng

tình cảm ruột thịt, chân thành chứ không được chèn ép, áp đặt các em. Tình
cảm chân thành cùng với thái độ nghiêm khắc trong gia đình của mỗi người
sẽ là cơ sở giúp cho mọi thành viên hướng đến lựa chọn và noi theo giá trị của
cái chân – thiện – mỹ. Mỗi người trong gia đình cần phải hiểu và làm tròn bổn
phận của mình, ông bà phải giữ đúng mực là những người lớn tuổi trong gia


14

đình, từ lời nói đến hành động, từ việc sinh hoạt đến giải quyết các mối quan
hệ hàng ngày; cha mẹ cũng vậy, ngoài ra còn phải làm tròn được vai trò là trụ
cột vững chắc trong gia đình, còn con cháu, anh em thì phải giữ đúng đạo
hiếu là con, là “anh em như chân với tay”, “chị ngã em nâng”.
Tư tưởng ái nhân của Khổng Tử được hoà quyện với truyền thống
“thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam, làm tăng thêm
tinh thần nhân văn, nhân nghĩa, thương yêu giống nòi của người Việt, ảnh
hưởng sâu sắc đến tình cảm máu mủ, ruột thịt không gì chia cắt của các thành
viên trong mỗi gia đình người Việt Nam. Tình cảm, tình yêu, tình nghĩa vợ
chồng, cha mẹ với con cái luôn được đặt lên hàng đầu, họ sống tất cả vì nhau;
nên đã là vợ chồng ai cũng biết và tự bảo nhau “thuận vợ thuận chồng tát biển
đông cũng cạn”, cùng nhau gánh vác công việc gia đình, lo toan mọi bề để
mong sao cho các con của mình có cuộc sống hạnh phúc. Tình yêu thương
con người trong xã hội nói chung vốn đã không thể mang ra cân đong, đo đếm
được, thì trong gia đình tình yêu thương ấy còn sâu nặng hơn bội phần, không
có cái gì đo được, sánh được. Trong gia đình tất cả các thành viên quan hệ với
nhau hoàn toàn trên cơ sở tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau, họ coi nhẹ vật
chất trong các mối quan hệ ấy, họ thường sống quen với câu ca “người làm ra
của chứ của không làm ra người”, trong quan hệ làng xóm là “bà con vì tình
vì nghĩa chứ không phải vì đĩa xôi đầy”. Thực tế cho thấy, nhiều gia đình còn rất
nghèo khó, nhưng nhờ có tình yêu thương ấy mà họ đã vượt qua tất cả, họ đã

vươn lên và thành đạt trong cuộc sống. Nhưng cũng cần phải lên án khi ở trong
xã hội ta hiện nay còn một số gia đình quá coi nặng về vật chất, làm phai nhạt,
thậm chí đánh mất đi tình cảm yêu thương đó, mọi người trong gia đình đòi phân
chia tài sản, khi bố mẹ về già cần sự chăm sóc của các con thì con cái cũng lại
“chia ra” phần trách nhiệm, hoặc gia đình nào bố mẹ có nguồn thu cao thì lại


15

tranh giành nhau “chăm sóc” để lấy của “hồi môn”.v.v. Những hành vi đó đã và
đang làm kìm hãm phong trào xây dựng gia đình văn hoá của nước ta hiện nay.
Tư tưởng nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử còn toát lên đức tính cần
cù, siêng năng, chịu khó của con người; đức tính này không chỉ cần cho xã
hội, mà còn rất cần cho mỗi gia đình, sự kết hợp tốt đức tính này với các
phẩm chất khác của mỗi người sẽ làm tăng thêm của cải vật chất cho gia đình
và xã hội. Người phụ nữ nhất thiết phải thực hiện được “công, dung, ngôn,
hạnh”, phải luôn biết lấy chữ công làm đầu. Đấng nam nhi phải làm được và
giám làm những công việc nặng nhọc, khó khăn. Vợ chồng, con cái hoà thuận
cùng tích cực làm ăn, cùng nhau chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế gia
đình, tích cực tham gia vào phong trào xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia đình
có ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Đặc biệt, những gia đình có
thu nhập thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, nếu ngại việc, lười biếng, sợ khó,
ngại khổ, thích ăn ngon, mặc đẹp, thích nhà cao cửa rộng mà không chịu tìm
việc làm thì chẳng những ước muốn ấy không bao giờ đạt được, mà còn ngày
càng nghèo đi, khó khăn càng khó khăn thêm, không khí trong gia đình ắt sẽ
nặng nề, tình cảm con người trong đó cũng dễ bị sứt mẻ và như vậy sẽ không
thể xây dựng được gia đình văn hoá.
Xã hội muốn bình yên, thịnh trị thì phải có (lễ) các quy định, chuẩn mực
hay luật pháp, gia đình muốn hiền hoà phát triển thì phải có tôn ti trật tự, phải
có những quy định riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình. Mọi

người quan hệ, ứng xử với nhau theo đúng bề bậc, có trên có dưới, cư xử theo
đúng đạo lý. Hiện nay tư tưởng tam cương, ngũ thường, ngũ luân vẫn chiếm
vị trí quan trọng trong cuộc sống của các gia đình người Việt, vẫn đóng vai trò
là khuôn mẫu, chế ước hành vi của từng thành viên trong gia đình; tuy nhiên
sự ảnh của nó rất khác nhau và không nguyên nghĩa như thời kỳ Khổng Tử,
hay như ở Trung Quốc. Những tư tưởng ấy một mặt đã bị Việt hoá, mặt khác


16

do sự biến đổi của điều kiện xã hội lịch sử nên một số nội dung không còn
phù hợp, cần phải thay đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu xây dựng gia đình
văn hoá ở nước ta trong tình hình hiện nay. Như việc người chồng không may
chết sớm, thì người vợ vẫn có thể được đi lấy chồng lần hai, không bắt buộc
phải ở vậy nuôi con như quan điểm “phu tử tòng tử” trong triết học chính trị xã
hội của Khổng Tử. Cha mẹ mất vẫn để tang ba năm, nhưng nếu cưới gả con cái
thì có nơi chỉ đợi cho qua một năm. Trước sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế
thị trường, của thời kỳ mở rộng hội nhập và hợp tác quốc tế, phẩm chất đạo đức
con người của một bộ phận nhân dân đang xuống cấp, hiện tượng coi thường
luân lý xã hội, xem nhẹ kỷ cương phép nước, phá vỡ khuôn phép gia đình khá
phổ biến, đang là trở lực đáng lo ngại trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá
mới ở khu dân cư, xây dựng gia đình văn hoá trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Vì vậy, chúng ta tiếp tục vận dụng tư tưởng về nhân – lễ – chính danh của
Khổng Tử vào xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay là việc nên làm,
cần làm.
Hiện nay các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến thuần phong mỹ tục, đến lối sống của mỗi người, mỗi gia đình
cũng như toàn xã hội, làm đảo lộn sự bình yên, hạnh phúc của nhiều gia đình.
Thậm chí trong số đó có không ít gia đình khá giả, quan chức, hoặc gia đình
có địa vị, có uy tín trong xã hội. Kiểu mang mặc, trang điểm…đang bị Tây

hóa, ngoại lai; cách cư xử với người xung quanh, lối sống đua đòi, trụy lạc,
thực dụng, mất nhân tính…đang có xu hướng làm mất dần những nét đẹp
truyền thống của dân tộc bốn ngàn năm văn hiến. Cảnh chia ly của những
người thân, cảnh tù tội của những thành viên trong gia đình do không giữ
được đức nhân, vi phạm vào lễ nhạc, không thực hiện được chính danh, mà
phạm vào nhiều tội lỗi như tham nhũng, đánh, giết nhau, đua xe trái
phép.v.v. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác giáo


17

dục, tuyên truyền vận động thực hiện nếp sống văn hoá, lối sống có văn hoá
tới mọi người, mọi tổ chức, mọi cơ quan, đơn vị, tạo ra môi trường văn hoá
lành mạnh ở mọi lúc, mọi nơi.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu tư tưởng triết học Nho gia về nhân – lễ
– chính danh của Khổng Tử chúng ta không chỉ thấy rõ những giá trị sâu sắc
của Triết học Nho gia trong xã hội Trung Quốc cổ đại trước đây, mà còn thấy
rõ vai trò không nhỏ của triết học Nho gia trong quá trình xây dựng xã hội
mới, xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.Nếu chúng
ta biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng của Triết học Nho gia vào quá
trình xây dựng gia đình văn hoá, thì sẽ đạt được những kết quả to lớn và góp
phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hội nhập, đổi mới, xây dựng
đất nước hiện nay.

KẾT LUẬN
Học thuyết về nhân – lễ – chính danh của Khổng Tử có nội dung vừa
sâu sắc, phong phú, vừa linh hoạt; mục đích của học thuyết là nhằm góp phần
xây dựng một xã hội nhân ái, nhân văn, êm đềm, nên đều có thể vận dụng vào



18

quá trình xây dựng của mọi chế độ xã hội. Tuy còn một số hạn chế nhất định,
còn một số nội dung không phù hợp với sự phát triển của thực tiễn lịch sử
hiện nay, nhìn chung đây là những tư tưởng tiến bộ không chỉ thời kỳ Khổng
Tử, mà ngay cả thời đại mới hiện nay. Do đó, bằng phương pháp gạn đục khơi
trong, vừa phê phán, vừa kế thừa có chọn lọc những tư tưởng này, chúng ta sẽ
có cơ sở, điều kiện để “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc”[2, 126], phát huy được vai trò, “trách nhiệm của gia đình trong việc
xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho
gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”
[3, 116], từ đó thúc đẩy phong trào xây dựng gia đình văn hoá cũng như xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ văn hoá thông tin, Hỏi đáp về xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá,
tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb CTQG, Hà nội. 1999.
2. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, H.2001.


19

3. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, H.2001.
4. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, H.2006.
5. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, H.2006.

6. Nguyễn Hữu Vui, lịch sử triết học , Nxb CTQG, H. 1995.
7. Nguyễn Tài Thư, ảnh hưởng của các hệ tư tưởng tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, H.1997.



×