Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội trộm cắp tài sản (tại địa phương…)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.27 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài

Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một trong những
yếu tố hàng đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Phương châm phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần đã làm cho các quan hệ pháp luật về kinh tế, dân sự, hình sự…ngày
càng đa dạng, phong phú. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Bên cạnh
sự phát triển đó, thì nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh những mặt trái, đó là sự tha
hoá, biến chất về đạo đức và nhân phẩm của một số bộ phận con người, làm phát sinh tệ
nạn xã hội, dẫn đến tình hình chính trị, an ninh và trật tự xã hội đi theo khuynh
hướng xấu.
Tội phạm ngày một gia tăng, tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nguy
hiểm, tinh vi hơn, trong đó thì loại tội phạm xâm hại đến quyền sở hữu chiếm tỉ lệ lớn
trong các loại tội phạm như: tội “cướp giật tài sản”, “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “lợi
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “trộm cắp tài sản”…xảy ra rất phức tạp dưới nhiều
hình thức, nó xâm phạm trực tiếp đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ, đó là
quyền sở hữu của con người, sở hữu của Nhà nước đã được ghi nhận tại điều Khoản 1 và
Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp 2013 Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác; Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”, đây là một quyền
cơ bản gắn liền với lợi ích cá nhân của mỗi con người, có đảm bảo được quyền này thì
mới khích lệ, động viên mọi người vận dụng hết khả năng của mình để cống hiến cho sự


nghiệp phát triển đất nước.
Nhận thấy, vai trò và tầm quan trọng của đề tài trong thực tiễn, với những kiến
thức đã tích luỹ được trong quá trình học tập tại nhà trường và những kiến thức thực tế có
thể có được trong đợt đi thực tập tại TAND huyện X, em xin được chọn đề tài thực tập
số 19 của bộ môn Luật Hình sự: “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội trộm
cắp tài sản (tại địa phương…)”.
Do trình độ, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm trong thực tế còn hạn chế
nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các thầy, cô giáo đóng
góp ý kiến để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn bài viết của mình.
2.
2.1.

Khái quát về đơn vị thực tập
Cơ cấu tổ chức
2


A:
B
C:
D:
E:
G:
H:
K:
L:
M:
N:
O:
P:



trách mà các Thẩm phán phụ trách chung huyện X trên tất cả các loại án. Các Thư ký
ngoài việc phân công làm Thư ký riêng cho các Thẩm phán thì còn phải phụ trách thêm
các mảng riêng phù hợp với tính chất công việc. Việc phân công nhiệm vụ trong cơ quan
khá phù hợp. Tuy nhiên, do không có sự phân chia ra các Tòa riêng biệt, các Thẩm phán
phải kiêm nhiệm tất cả các công việc Dân sự, Hình sự, Hôn nhân và Gia đình, Lao động
và Kinh doanh thương mại nên công việc của các Thẩm phán khá nặng nề, hiệu quả làm
việc chưa cao so với việc có sự phân thành các Thẩm phán chuyên trách. Đây được xem
là khó khăn nhất định đối với cơ cấu tổ chức của hầu hết các Tòa án cấp huyện mà chưa
thể khắc phục khi số lượng án ngày càng nhiều, tính chất, mức độ phức tạp ngày càng gia
tăng.
Hoạt động của TAND huyện X
Với chức năng là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân thì TAND huyện X dưới sự chỉ đạo của tòa án cấp trên đang từng bước
hoàn thiện hơn về tổ chức hoạt động của mình để đảm bảo cho việc thực hiện các nghiệp
vụ chức năng của Tòa được tốt hơn:
Tòa án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm những tranh
chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); những vụ án hành chính.
Toà án giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu cầu về dân sự; những
yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; những yêu
cầu về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận
cuộc đình công hợp pháp hay không hợp pháp.

2.2.

3.


Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin

3.1.

Thời gian

Trong khuôn khổ thời gian thực tập từ ngày 21/05/2018 đến ngày 24/06/2018 với
phạm vi nghiên cứu thực hiện đề tài tại TAND huyện X, một số cơ quan pháp luật, các xã,
thị trấn thuộc địa bàn huyện X, tỉnh Y.
3.2.

Quá trình thu thập thông tin

- Thu thập hồ sơ lưu; báo cáo thống kê của TAND huyện X trong 3 năm 2016,
2017, 2018; hồ sơ vụ án, thông qua đó lựa chọn ra những nội dung, vấn đề còn tồn đọng
có liên quan.
- Sổ thụ lý các vụ án hình sự sơ thẩm, sổ kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Từ đó thu thập số liệu đưa vào bài viết.
4


- Đối chiếu với những văn bản pháp luật đã học có liên quan.
- Tìm hiểu số liệu tội phạm tại TAND huyện X.
- Học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các cán bộ Tòa án nơi thực tập
Từ những thông tin thu thập được cho ta thấy thực trạng nguyên nhân giải pháp và
các biện pháp khắc phục, xử lý chúng ở TAND huyện X.
3.3.

Phương pháp nghiên cứu đề tài


- Phương pháp quan sát: đây là phương pháp mang tính thực tế cao đó là sự
thu thập các thông tin khác nhau của xã hội về các đối tượng nghiên cứu bằng sự tri giác
trực tiếp, thông qua việc hỏi, ghi nhận các ý kiến của các ông, bà thẩm phán trực tiếp
tham gia hoạt động tố tụng và thực tiễn tham gia xét xử các vụ án tại địa phương nơi tôi
thực tập.
- Phương pháp thống kê: là việc thu thập các tài liệu cần thiết liên quan đến đề tài,
từ đó phân loại tài liệu, sắp xếp theo trình tự thời gian, đặc điểm tội phạm, thủ đoạn và
phương pháp thực hiện tội phạm, công cụ và phương tiện phạm tội trên cơ sở đó tìm ra
những nguyên nhân mục đích của loại tội phạm này.
- Phương pháp phân tích tài liệu: là phương pháp xem xét các chứng cứ có
trong các hồ sơ vụ án, xảy ra trên địa bàn huyện X, từ đó phân tích, đánh giá rút ra những
kết luận nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số
phương pháp, như: phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh phục vụ cho đề
tài của mình.

NỘI DUNG
MỤC 1
TÌNH HÌNH TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN X
1.1.

Giới thiệu đôi nét về huyện X

X là một huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của tỉnh Y. Phía Bắc giáp với huyện
Z. Phía Nam giáp với huyện E. Phía Đông giáp với các huyện C, L, M. Phía Tây giáp với
nước Lào. Với diện tích 127.809,09 ha, có diện tích đất lâm nghiệp là 93.077,86 ha chiếm
72,8% diện tích, đất nông nghiệp 13.933,82ha chiếm 10,9% diện tích. Có hệ thống giao
thông phong phú và đa dạng. Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy dọc, đường mòn Hồ Chí
Minh đi qua 14 xã và đường biên giới việt lào dài 50,2km, quốc lộ 15A dài 15km.
5



Từ năm 2002 đến nay, huyện X đã thực hiện nhiều chính sách phát triển kinh tế với
mục tiêu chú trọng phát triển công nghiêp và giải quyết việc làm, hiện đại hoá nền kinh tế
của tỉnh. Trong tiến trình phát triển kinh tế đó, huyện đã từng bước thu hút vốn đầu tư từ
bên ngoài ngoài và các thành phần kinh tế, góp phần phân công lao động trên địa bàn, tạo
công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân làm cho đời sống
nhân dân ngày càng thay đổi và khởi sắc. Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp mà công
nghiệp cũng từng bước phát triển, nhiều nhà máy xí nghiệp được xây dựng: như nhà máy
sản xuất chế biến gỗ, công ty cao su Y, công ty đá L,…đã tạo ra nhiều việc làm cho hàng
ngàn lao động cho con em địa phương. Song bên cạnh sự phát triển đó,vẫn còn tồn tại
những mặt trái của nó đó là những tệ nạn xã hội như tệ nạn cờ bạc, ma tuý, trộm cắp tài
sản, cướp giật tài sản…Những năm gần đây, các tệ nạn này càng gia tăng làm cho tình
hình an ninh, trật tự trên địa bàn địa phương mất ổn định.
1.2.Tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn huyện X

Trong những năm gần đây tình hình tội phạm trên địa bàn huyện X xảy ra hết sức
phức tạp, số lượng các vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng có xu
hướng gia tăng so với các loại tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.Trong thời gian từ năm
2016-2018 trên địa bàn huyện đã xảy ra rất nhiều vụ án hình sự nghiêm trọng. Trong đó
có nhiều vụ giết người cướp của, đánh nhau gây thương tích và gây hậu quả nghiêm
trọng. Theo số liệu đã được thống kê tại báo cáo tổng kết cuối năm thì tình hình tội phạm
hình sự xảy ra trên địa bàn huyện như sau:
Năm

Số vụ

Bị cáo

2016


57

73

2017

40

55

2018 (Tính đến hết tháng 5)

18

25

(Số liệu từ hồ sơ lưu của TAND huyện X)
1.3.

Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện X

Trong những năm gần đây tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ở huyện X xảy ra rất
phức tạp cả về số lượng đến cách thức thực hiện phạm tội.Theo thống kê của TAND
huyện X về Tội trộm cắp tài sản
Năm

Số vụ

Bị cáo


2016

16

26

2017

13

24
6


2018 (tính đến hết tháng 5)

6

9

(Số liệu từ hồ sơ lưu của TAND huyện X)
Từ các số liệu thống kê trên ta thấy: Năm 2016 TAND huyện X đã đưa ra xét xử 57
vụ với 73 bị cáo, trong đó các vụ án trộm cắp tài sản có 16 vụ chiếm 28%, số lượng bị cáo
là 26 bị cáo, chiếm hơn 35%. Như vậy năm 2016 so với các loại tội phạm khác thì các vụ
án về tội trộm cắp tài sản chiếm một tỉ lệ đáng kể trong tổng số vụ án hình sự xảy ra trên
địa bàn huyện.Năm 2017: Số vụ án hình sự được TAND huyện X xét xử là 56 vụ với 73
bị cáo, trong đó: tội “trộm cắp tài sản” có 26 vụ chiếm hơn 46%, số bị cáo chiếm hơn
43%.Đầu năm 2018 đến nay số vụ án được đưa ra xét xử là 18 vụ, với 25 bị cáo trong đó
tội “Trộm cắp tài sản” có 6 vụ chiếm hơn 33% với 9 bị cáo chiếm 36%.Như vậy, số liệu
trên ta thấy tình hình tội phạm trên địa bàn huyện tuy không có dấu hiệu tăng nhưng vẫn

xảy ra khá nhiều trong các năm 2016, 2017, 2018 và chiếm số lượng lớn trên tổng số các
vụ phạm tội. Năm 2016 tội trộm cắp tài sản chỉ có 16 vụ và đến năm 2017 có 13 vụ, chỉ
giảm được 3 vụ. Tính đến hết tháng 5 năm 2018 đã xảy ra 6 vụ nên có thể đến hết năm
nay, số lượng vụ án là tội trộm cắp tài sản không thay đổi quá nhiều so với các năm qua.
Tình hình tội trộm cắp tài sản xảy ra khá nhiều so với các loại tội phạm khác do
tính phức tạp địa bàn huyện X là huyện có tuyến quốc lộ 15A, đương mòn Hồ Chí Minh
đi qua và tuyến đường sắt Hà Nội – Sài Gòn đi qua dài trên 30 km và nằm trên đó là các
nhà ga U, Y. Đây là một trong những địa bàn hoạt động thuận lợi cho loại tội phạm này.
Chúng hoạt động có tổ chức, hoạt động theo băng nhóm, có sự liên kết chặt chẽ với các
đối tượng ở nhiều huyện, nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, móc nối từ giai đoạn chuẩn bị
đến giai đoạn tiêu thụ, thông tin với nhau bằng phương tiện liên lạc hiện đại, thường
xuyên di chuyển địa bàn và phương thức hoạt động nhằm gây khó khăn cho công tác điều
tra và đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn huyện.
- Về địa bàn hoạt động của tội trộm cắp tài sản: Qua các vụ án về tội trôm cắp tài
sản xảy ra trên địa bàn huyện X thì phần lớn tập trung ở những nơi như:
+ Dọc theo theo quốc lộ 15A từ xã D đến xã B, dọc theo đường mòn HCM từ xã A
đến xã C và trung tâm chợ S, mà trọng tâm là ở các quán và nhà hàng bên đường, chúng
thường đóng giả là khách ăn của quán rồi lợi dụng sơ hở của khách hàng để thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản.
+ Nhà ga, các bến xe: Bọn tội phạm thường lợi dụng lúc đông người trà trộn với hàng
khách rồi móc túi của họ.

7


+ Khu vực thị trấn X: Đây là một trong những khu vực tập trung nhiều trường học,
chợ, công sở, vì vậy đây là khu vực thường xuyên xảy ra mất trộm tài sản, chủ yếu là xe
đạp, xe máy.
+ Khu vực nông thôn: Tội phạm thường lợi dụng lúc đêm tối để tiến hành thực hiện
hành vi trộm cắp, đối tượng mà chúng thực hiện chủ yếu là gia súc, gia cầm, xe đạp, xe

máy,
- Thời điểm thực hiện tội phạm: Đa số các vụ án “Trộm cắp tài sản” trên địa bàn
huyện X thường xảy ra vào ban đêm, một số ít xảy ra vào ban ngày. Qua công tác đấu
tranh và phòng chống tội phạm cho thấy các loại tội phạm trộm cắp vào ban đêm thì đối
tượng phạm tội chủ yếu là người địa phương, do chúng thông thạo đường đi lối lại, am
hiểu lối sống sinh hoạt của người dân, nên đêm tối là thời điểm thích hợp để chúng thực
hiện hành vi nhằm che giấu bộ mặt thật của mình tránh sự phát giác của quần chúng.
Đối với tội trộm cắp tài xảy ra vào ban ngày, ngoài đối tượng là người địa phương
còn có một số đối tượng ở nơi khác đến, như ở Q, R…. Chúng thường hoạt động theo
từng nhóm, từ hai đối tượng trở lên ít mang tính đơn lẻ, thường có sự liên kết với nhau.
MỤC 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI TAND HUYỆN X, TỈNH Y
2.1.
Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản
2.1.1. Phân tích ví dụ

Ví dụ: Vào khoảng 8h30’ ngày 29/9/2017 Phạm Quốc D vào nhà anh Võ Văn H ở
tổ dân phố X, thị trấn H, không thấy ai ở nhà, bị cáo thấy 01 chiếc điện thoại di động
Iphone 6 để trên bàn, nên bị cáo lén lút lấy bỏ vào túi quần và chiếm đoạt chiếc điện thoại
trên trị giá 4.500.000đ. Đồng thời, quá trình điều tra Phạm Quốc D đã khai nhận hành vi
trước đó là vào khoảng 16h30’ ngày 30/8/2017 Phạm Quốc D đến khu nhà trọ của ông Từ
Khắc T ở tổ dân phố Y thị trấn H, thấy phòng trọ trong cùng không có ai ở nhà nên Phạm
Quốc D đi mượn cờ lê phá khóa vào phòng trọ lấy trộm 01 máy tính xách tay và sạc pin
của anh Phan Hữu M trị giá 7.500.000đ.
Vụ án trên, TAND huyện X đã định tội danh Phạm Quốc D về tội “Trộm cắp tài
sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999.
Xét trên các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản:
-Chủ thể: Bị cáo Phạm Quốc D là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
8



- Khách thể: Quyền sở hữu tài sản là chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng của
Võ Văn H và quyền sở hữu chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell N5548 màu bạc của
Phan Hữu M.
- Mặt chủ quan: Bị cáo Phạm Quốc D nhận thức được hành vi của mình xâm phạm
đến quyền sở hữu của anh Võ Văn H và Phan Hữu M nhưng vẫn thực hiện và mong muốn
gây ra hậu quả tác hại. Do đó đây là lỗi cố ý của Phạm Quốc D.
- Mặt khách quan: Phạm Quốc D đã thực hiện hành vi lấy chiếc điện thoại di động
Iphone 6 màu vàng của Võ Văn H và chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell N5548 màu
bạc của Phan Hữu M mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Hành vi được Phạm Quốc
D thực hiện khi D nhận thấy nhà anh Võ Văn H cửa mở và không có ai, tương tự đối với
anh Phạm Quốc M. Theo đó, đây là hành vi chiếm đoạt nhằm để che giấu hành vi phạm
tội để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó. Do đó, hành
vi của Phạm Quốc D được thực hiện một cách lén lút, bí mật. Đây là điểm đặc trưng của
tội trộm cắp tài sản.
Theo đó, việc TAND huyện X đã định tội danh Phạm Quốc D về Tội Trộm cắp tài
sản là hoàn toàn chính xác.
2.1.2. Nhận xét chung
Phân tích tương tự đối với các vụ án trộm cắp tài sản khác trong năm 2018 mà
TAND huyện X đưa ra xét xử đều cho thấy việc định tội danh TAND huyện X là chính
xác. Điều nàycho thấy, các CQTHTT tại X trong quá trình định tội danh đã đánh giá một
cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để xem
xét về tính chất của hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Quá trình định tội danh cũng thực
hiện trên cơ sở 4 yếu tố CTTP: khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan của tội phạm cụ
thể. Đồng thời việc phân biệt các dấu hiệu đặc trưng của CTTP là tương đối rõ ràng, mặc
dù trong thực tế có quá nhiều tình tiết tương tự giống nhau ở các CTTP cơ bản của các tội
phạm cụ thể nhất là giữa tội trộm cắp tài sản với các tội khác trong chương các tội phạm
xâm phạm sở hữu và có mục đích chiếm đoạt. Đây là kết quả của sự đánh giá, phân tích,
tổng hợp từng yếu tố của vụ việc, áp dụng pháp luật hình sự một cách chính xác và không

thể thiếu một cơ sở lý luận cơ bản, vững chắc mới có thể dẫn đến việc định tội danh đúng.
2.2.
Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
2.2.1. Phân tích ví dụ
Trong Ví dụ, TAND huyện X tuyên bố bị cáo Phạm Quốc D phạm tội Trộm cắp tài
sản. Về trách nhiệm hình sự áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48; các
điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Phạm Quốc D 12
tháng tù.
-Về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật: Khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng
9


đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Theo đó, hành vi của
Phạm Quốc D xảy ra trong năm 2017, thời điểm BLHS 1999 đang có hiệu lực. Do đó,
việc áp dụng Văn bản quy phạm pháp luật là BLHS 1999 là hoàn toàn chính xác.
- Về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: HĐXX
TAND huyện X nhận định Bị cáo D là đối tượng đang có tiền án về tội Tàng trữ trái phép
chất ma túy chưa được xóa án tích, bị cáo thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, do đó bị cáo
phải chịu hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội nhiều lần” và “tái
phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Trong quá trình điều tra bị cáo tự
nguyện khai báo ra 01 lần phạm tội trước đó; tại CQĐT và tại phiên tòa bị cáo đã thành
khẩn khai báo, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự thú”
và “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 BLHS
1999; ngoài ra, bị cáo tự nguyện bồi thường được một phần thiệt hại cho bị hại và tại
phiên tòa bị hại anh Phan Hữu M đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được
hưởng tình tiết giảm nhẹ khác tại khoản 2 Điều 46 BLHS 1999, do đó HĐXX cần xem xét
giảm nhẹ hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo
tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội. Qua đó có thể nhận thấy việc áp dụng các
quy định về tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của TAND huyện X là tương đối

chính xác.
Phân tích rõ hơn có thể thấy, ở đây, ngoài các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội
tự thú” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46
BLHS 1999 là khá rõ ràng, chúng ta cần xem xét đến sự hợp lý của việc áp dụng khoản 2
Điều 46 BLHS 1999. Theo Điểm c, Mục 5 Nghị quyết số: 01/2000/NQ-HĐTP Hướng dẫn
áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999 quy định: “Người bị hại
hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường
hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;” được coi là tình
tiết giảm nhẹ khác trong khoản 2 Điều 46 BLHS 1999. Do đó, việc Phan Hữu M được
hưởng tình tiết giảm nhẹ khác tại khoản 2 Điều 46 BLHS 1999 là hoàn toàn chính xác.
Tuy nhiên, trong phần nội dung vụ án do TAND huyện X nêu ở phần trách nhiệm
dân sự: Bị hại Võ Văn H đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì. Bị cáo đã
tác động gia đình bồi thường cho bị hại Phan Hữu M 2.000.000đ, hiện anh M yêu cầu bồi
thường 5.500.000đ. Theo Điểm đ, tiểu mục 1.1 Mục 1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS có nêu rõ: “Bị cáo không có tài sản để
bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con,
anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người
này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm
tội của bị cáo gây ra;” là trường hợp được được áp dụng tình tiết “người phạm tội tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”quy định tại Điểm b Khoản 1
Điều 46 BLHS 1999. Theo đó, trên quan điểm của cá nhân tôi, do Phạm Quốc D đã tác
động gia đình bồi thường cho bị hại Phan Hữu M 2.000.000đ nên D thuộc trường hợp
10


được được áp dụng tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả”. Do đó cần bổ sung thêm việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người
phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”quy định tại Điểm
b Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 cho Phạm Quốc D. Như vậy, mặc dù đây là chi tiết ảnh
hưởng không nhiều đến việc định tội danh hay quyết định hình phạt nhưng vẫn là điểm

TAND huyện X cần lưu ý.
2.2.2. Nhận xét chung

Thực tiễn định tội danh đối với các tội trộm cắp tài sản trong thời gian qua cho
thấy đây là loại án phổ biến và thường xuyên xảy ra với đa dạng hành vi phạm tội khác
nhau. Mức độ và tính chất tội phạm trộm cắp ngày càng nguy hiểm. Công tác điều tra, xét
xử các loại vụ án về tội trộm cắp tài sản luôn được TAND huyện X chú trọng. Về cơ bản,
do tính chất các vụ án ở quy mô nhỏ, tình tiết vụ án không quá phức tạp nên việc định tội
danh đối với các vụ trộm cắp tài sản không quá khó khăn. Tuy nhiên theo quan điểm của
tôi vẫn còn nhiềuvấn đề còn tồn tại trong quá trình áp dụng các trường hợp tăng nặng
giảm nhẹ hình phạt, dẫn tới không thống nhất trong các cơ quan bảo vệ pháp luật làm
giảm hiệu quả xử lý loại tội phạm này, đòi hỏi nhu cầu phải có được nhữngđường lối xử
lý phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử.
Người tiến hành định tội danh có thể có điều kiện phát huy được khả năng
củamình, chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật mà trước hết là hệ thống pháp luật hình sựhoàn
chỉnh. khó có thể nói đến sự hiệu quả thật sự trong hoạt động định tội danh khimà những
quy định pháp luật nước ta còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau. BLHS nước ta còn nhiều
quyđịnh mang tính khái quát cao, chưa chặt chẽ. Những quy định của định khung
tăngnặng trong điều luật như “hành hung để tẩu thoát” “hậu quả nghiêm trọng”, “hậu
quảrất nghiêm trọng”, “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”... chưa được giải thích rõ ràng,cụ
thể...Tất cả những điều này đã ảnh hưởng đến việc định tội danh. Do vậy, để có thể định
tội danh đúng thì trong CTTP cơ bản của từng tội, nhà làm luật phải mô tả rõdấu hiệu
pháp lý đặc trưng, hạn chế đến mức thấp nhất những quy định có thể hiểu theo nhiều cách
khác nhau dẫn tới việc giải thích của các văn bản dưới luật.
Từ phân tích, làm rõ hoạt động định tội danh đối với tội trộm cắp tài sảntrong thực
tiễn, nhận thấy cơ sở pháp lý và khoa học cho việc định tội danh trên đãdự liệu tương đối
đầy đủ các loại hành vi xảy ra trong thực tiễn, nhưng thực tiễnđịnh tội danh đối với tội
phạm này vẫn còn những bất cập, hạn chế, những tồn tạicó nguyên nhân từ nhiều khía
cạnh như việc quy định của pháp luật về tội danh nàychưa hoàn thiện, do giải thích hướng
dẫn áp dụng pháp luật chưa phát huy vai tròcủa mình, do chậm tổng kết thực tiễn, do năng

lực của cán bộ áp dụng pháp luật...Như vậy, xét về phương diện lý luận lẫn thực tiễn áp
11


dụng pháp luật hình sựđặt ra vấn đề cấp thiết là cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
hệ thống pháp luậtvề hình sự đối với các tội phạm nói chung và tội xâm phạm sở hữu nói
riêng, đồngthời đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội
danh.

MỤC 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp
3.1.1. Phần định tội danh

Trong số các tội có tính chất chiếm đoạt trong BLHS thì tội trộm cắp tài sản là 1
trong 3 tội chưa được nêu khái niệm (mô tả hành vi) trong điều luật. Đây cũng là nguyên
nhân có nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá hành vi chiếm đoạt trong thực tiễn liên quan
đến 3 tội này và có sự nhầm lẫn giữa tội trộm cắp tài sản với một số tội có tính chất chiếm
đoạt khác.Cho nên, việc nêu khái niệm của trộm cắp tài sản trong Điều 173 BLHS 2015 là
yêu cầu cần thiết.
Khái niệm về tội trộm cắp tài sản cần phải nêu được những đặc trưng của tội đó mà
từ đó có thể phân biệt tội đó với các tội khác có những dấu hiệu tương tự nhau. Các dấu
hiệu đó có thể là hành vi, thủ đoạn thuộc mặt khách quan của tội phạm; chủ thể đặc biệt
của tội phạm; lỗi, mục đích, động cơ phạm tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm hoặc
khách thể, đối tượng tác động của tội phạm. Theo quan điểm thống nhất trong thực tiễn
hiện nay thì việc phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội khác (chủ yếu là các tội có tính
chất chiếm đoạt) là dựa vào hành vi và thủ đoạn thuộc mặt khách quan của tội phạm. Đó
là tính lén lút và hành vi chiếm đoạt. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm của tội trộm cắp tài sản nhưng đa phần các ý kiến đều dựa vào hành vi thuộc

mặt chủ quan của tội phạm để định nghĩa và đều thống nhất nhau về hành vi chiếm đoạt,
đặc điểm của tài sản bị chiếm đoạt là “có chủ”. Tuy nhiên, đối với tính lén lút thì có 02
quan điểm khác nhau cơ bản sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, tính lén lút là thủ đoạn
phạm tội. Đó là các định nghĩa: Trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách lén lút”, hoặc là “trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách lén lút”; Quan điểm thứ hai cho rằng, tính lén lút là thuộc tính của hành vi
chiếm đoạt. Đó là các định nghĩa: Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản
đang có chủ, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, hoặc là
trộm cắp là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. goài
ra, cón có ý kiến cho rằng, “trộm cắp là dùng thủ đoạn lén lút nhằm chiếm đoạt tài sản
12


đang do người khác quản lý”. Tuy nhiêntheo tôi, quan điểm này chưa phù hợp bởi vì, mặc
dù, có nêu đúng thủ đoạn của người phạm tội khi thực hiện hành vi nhưng chưa nêu được
bản chất của Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt mà chỉ cho rằng việc chiếm đoạt
tài sản là mục đích của thủ đoạn lén lút.
Do đó, để đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu và thực hiện pháp luật, cần phải
bổ sung quy định mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội Trộm cắp tài sản.Theo đó
Trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản người khác một cách lén lút.

3.1.2. Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Đối với trường hợp cụ thể ở ví dụ được đưa, tại Tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định: Đối với
các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm đ và e tiểu mục 1.1 Mục 1 này mà bị cáo
không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả, nếu những người này đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của BLHS. Theo hướng dẫn của Hội đồng

thẩm phán TANDTC quy định thì có sự không rõ ràng trong trường hợp nào gia đình bị
cáo bồi thường thì được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, và trường hợp
nào thì chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Do vậy, việc áp dụng khoản
1 hay khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng vì trong trường hợp
như bị cáo đã có 1 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, nếu
gia đình bị cáo hoặc người khác bồi thường thiệt hại và được áp dụng thêm điểm b khoản
1 Điều 51 BLHS năm 2015 thì bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ và có thể được xử phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 BLHS năm 2015 . Nhưng nếu chỉ coi là
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 thì bị cáo cũng không
được áp dụng là căn cứ để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Tuy nhiên, về mặt khoa học pháp lý cũng như thực tiễn trong công tác xét xử, tôi
thấy rằng cần phải coi trường hợp gia đình bị cáo hoặc người khác tự nguyện bồi thường
thay cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản
1 Điều 51 BLHS năm 2015.Bởi vì, theo quan điểm của tôiviệc ai bồi thường không quan
trọng bằng việc người bị thiệt hại được bồi thường, và khi người bị thiệt hại được bồi
thường thì thường họ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Còn việc bị cáo tự nguyện bồi
thường thiệt hại chỉ thể hiện sự ăn năn hối cải của mình sau khi đã phạm tội. Như vậy, nếu
mọi trường hợp gia đình bị cáo hoặc người khác tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị cáo

13


cũng phải được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 thì mới đảm bảo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội;
Để khắc phục các hạn chế nêu trên, theo tôi nên sửa đổi bổ sung điểm b khoản 1
Điều 51 BLHS năm 2015 thành: “người phạm tội tự nguyện sửa chữa bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả hoặc gia đình người phạm tội hay người khác bồi thường thiệt
hại”.
3.2.


Một số giải pháp khác

Trong những năm gần đây hoạt động xét xử của TAND huyện X có nhiều tiến bộ,
về cơ bảnToà án đã áp dụng đúng quy định của BLHS và BLTTHS nên đã xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc xét xử oan sai và bỏ lọt
tội phạm. Tuy nhiên để cải thiện tình hình, đấu tranh phòng chống có hiệu quả với tội
trộm cắp tài sản, TAND huyện X cần tiến hành một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất: Cần tổ chức họp chuyên đềthảo luận, cải thiện công tác xét xửvề các tội
xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, đặc biệt chú ý đến vấn đề
định tội danh, các căn cứ cụ thể để quyết định hình phạt, cácnguyên tắc áp dụng các hình
thức hình phạt, các nguyên tắc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, bảo đảm việc xét xử các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài
sản nói riêng được đúng đắn.
Thứ hai: TAND huyện X cần phối hợp với CQĐT, VKSND tiến hành xét xử toàn
bộ các vụ án về tội trộm cắp tài sản thuộc thẩm quyền xét xử của cấp mình.
Thẩm phán được phân công xét xửvụ án không dừng lại sau khi nghiên cứu bản
cáo trạng của VKSND và bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra, cần phải xem xét
biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng và văn bản khác trong hồ sơ vụ
án. Thẩm phán phải kiểm tra tính hợp pháp của văn bản có trong hồ sơ, phát hiện những
mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng, xem xét văn bản có bị tẩy xóa
không và việc tẩy xóa có được xác nhận của người tiến hành và người tham gia tố tụng
hay không, phải chú ý đến những bị cáo là người mắc bệnh tâm thần và bệnh hiểm nghèo,
người chưa thành niên. Trường hợp cần thiết thì quyết định đưa đi giám định tâm thần.
Thẩm phán sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án trộm cắp tài sản phải nắm được đầy đủ
toàn diện nội dung vụ án và có kế hoạch cụ thể cho hoạt động xét xử tại phiên tòa. Tòa án
phải tập trung nghiên cứu, đánh giá đúng tính chất mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm mà xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật, công bố kết quả xét xử trên các
phương tiện truyền thông đại chúng và cổng thông tin điện tử của TAND Tối cao để có
tác động giáo dục, phòng ngừa, răn đe, cũng qua đó động viên các tầng lớp nhân dân tham
gia tích cực trong cuộc đấu tranh phòng chống, tố giác tội trộm cắp tài sản.


14


Thứ ba: Khi áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn
xét xử, Tòa án cần chú ý phát hiện thiếu sót và các hành vi vi phạm pháp luật khác trong
quản lý tài sản, nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội trộm cắp tài sản.
Thứ tư: Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với VKSND, các cơ quan tổ chức có
nhiệm vụ thi hành án hình sự bảo đảm bản án, quyết định hình sự của Tòa án về các vụ án
phạm tội trộm cắp tài sản đã có hiệu lực pháp luật đều được thực hiện trên thực tế. Vì đây
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, xuất phát từ chức năng chấp hành của pháp luật thi
hành án hình sự. Nếu bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
không được thực hiện hoặc được thựchiện không triệt để, thì toàn bộ hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử sẽ không có ý nghĩa và sẽ không đáp ứng được nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.
Thứ năm, TAND huyện X là Tòa án thuộc cấp sơ thẩm cho nên quá trình điều tra,
truy tố, xét xử là hết sức quan trọng, đòi hỏi tính chính xác, chặt chẽ, toàn diện, khách
quan, đầy đủ, đúng người, đúng tội, tránh vi phạm thiếu sót tối đa để không xảy ra tình
trạng kháng cáo lên các cấp cao hơn. Do đó, TAND huyện X cần phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án hình sự, đặc biệt là khâu cung cấp thông tin
về những người phạm tội trộm cắp tài sản có được qua hoạt động xét xử để tổ chức tốt
khâu giáo dục, cải tạo người bị kết án trở thành người lương thiện có ích cho xã hội, tạo
điều kiện cần thiết để họ có thể tái hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa họ phạm tội mới.
Ngoài ra cũng cần thông qua việc ra quyết định thi hành án để giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Nâng cao chất lượng xét xử
các vụ án trộm cắp tài sản kịp thời đảm bảo việc giáo dục, răn đe đối với các đối tượng
trộm cắp tài sản hiện nay và sắp tới.
Cuối cùng, Tòa án cần áp dụng đúng quy định của pháp luật trong thụ lý, giải
quyết, xét xử; đường lối xét xử nghiêm minh đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, không xử oan người vô tội,

không bỏ lọt tội phạm. Đảm bảo giải quyết xét xử các loại án trộm cắp đạt chỉ tiêu đề ra,
không để các án trộm cắp tồn đọng quá hạn luật định mà không có lý do chính đáng.

KẾT LUẬN
Kết quả việc thực tập, tiếp xúc thực tiễn xét xử tại TAND huyện X, tỉnh Y1 tháng
qua cho thấy tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện X diễnbiến không quá phức tạp, số
lượng vụ án, bị cáo không tăng nhưng vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong các loại tội phạm cho thấy
đây là mối quan tâm lo lắng hàng đầu của các cơ quan bảo vệ pháp luật và người dân
huyện X. Chính vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật giữ vai trò hết sức quan trọng trong
giải quyết các vụ án vềtội trộm cắp tài sản của các CQTHTT. Đây là hoạt động nhằm xác
định một người có phải chịu TNHS do hành vi của mình gây ra hay không và phải chịu
15


như thế nào, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết
thực tế của vụ án để đối chiếu, so sánh, kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu
hiệu của những hành vi phạm tội đã được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng
do BLHS quy định.
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản
nói riêng, thì việc áp dụng pháp luật hình sự để đánh giá một cách chính xác đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc đánh giá đúng sẽ giúp cho
CQTHTT khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và việc
áp dụng hình phạt sẽ phát huy được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành
công dân có ích cho xã hội. Qua việctham khảo tài liệu là các bản án cho thấy, tuy phần
lớn việc xét xử đối với loại tội phạm này là chính xác , nhưng bên cạnh đóthì vẫn còn
những đánh giá chưa thực sự chính xác mà điển hình là trong phân tích được nêu ở mục
2.2.1. Mong rằng trong thời gian tới, TAND huyện X sẽ cải thiện hơn nữa vềviệc áp dụng
pháp luật trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự nói chung và các vụ
án về tội trộm cắp tài sản nói riêng.


16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.
5.
6.

Luật Tổ chức TAND 2014
Bộ luật Hình sự 1999
Bộ luật Hình sự 2015
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số Quy định của

Bộ luật Hình sự
7.
Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTPHướng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999
8.
Giáo trình Luật Hình sự, Đại học Luật Hà Nội
9.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự, Lê Văn Quang
10.
Bản án Hình sự sơ thẩm số 05/2018/HS-ST của TAND huyện X


17



×