Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO vận DỤNG tư TƯỞNG c mác, ph ăngghen, v i lênin về đạo đức TRONG xây DỰNG đạo đức QUÂN NHÂN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.12 KB, 83 trang )

"Vận dụng tư tưởng C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về đạo đức trong xây dựng
đạo đức quân nhân hiện nay".
Phần 1
CUỘC CÁCH MẠNG TRÊN LĨNH VỰC ĐẠO ĐỨC DOA C. MÁC, PH. ĂNG
GHEN, V.I. LÊ NIN THỰC HIỆN
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, C. Mác, Ph. Ăngghen đã thực hiện
cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức, tạo tiền đề lý luận khoa học cho những người cộng
sản và giai cấp công nhân vận dụng vào thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đời
sống văn hoá - tinh thần, đạo đức trong xã hội mới do giai cấp công nhân, nhân dân lao
động làm chủ. V.I. Lênin là người kế tục xuất sắc những tư tưởng thiên tài của C. Mác, Ph.
Ăngghen, đã bảo vệ, phát triển toàn diện học thuyết Mác trong điều kiện mới, hiện thực
hóa lý luận khoa học thành thực tiễn xã hội sinh động của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước Nga Xô Viết từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Theo đó, một kiểu đạo
đức mới, đạo đức cộng sản đã ra đời và ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
1. C. Mác, Ph. Ăngghen thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức
Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức do C. Mác, Ph. Ăngghen thực hiện là sản phẩm
tất yếu của quá trình phát triển đạo đức của xã hội loài người; sự thống nhất biện chứng
giữa những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Những điều kiện khách quan về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học… để các quan điểm, tư tưởng cách mạng và
khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen về đạo đức ra đời rất xác định.
Từ sau những năm 40 của thế kỷ XIX, nền kinh tế thế giới có những bước phát triển
nhanh chóng mang tính đột phá. ở hầu hết các nước trên lãnh thổ châu Âu, sản xuất hàng
hoá tư bản phát triển, phương thức sản xuất mới, tư bản chủ nghĩa dần thay thế phương
thức sản xuất cũ, phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Sự thắng thế của phương thức sản xuất mới
- tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi nhanh chóng diện mạo thế giới, khẳng định tính chất
tiến bộ, cách mạng của nó trong lịch sử văn minh nhân loại. Chỉ với khoảng thời gian
chưa đầy 200 năm, chủ nghĩa tư bản không những đã sáng tạo ra một khối lượng cơ sở vật
chất - kỹ thuật đồ sộ bằng tất cả các thời đại kinh tế trước đó cộng lại, mà còn góp phần
làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt tinh thần xã hội; những quan hệ xã hội mới, những cách
thức ứng xử mới giữa con người và con người, con người và tự nhiên có điều kiện nảy


sinh, phát triển.
Phương thức sản xuất tư bản ra đời ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế có
quy mô toàn thế giới; lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, lao động bằng máy móc có
ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại vào sản xuất thay thế lao động thủ
công; tính chất xã hội hoá của lao động công nghiệp, phân công lao động có tính chuyên
sâu và hợp tác đã dần làm thay đổi phương thức tổ chức hoạt động sống của con người;


mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong dây chuyền sản xuất dần
dần hình thành thói quen lao động có kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, hợp tác, phối hợp
hành động với quy mô ngày càng lớn. Qua đó, các quan hệ xã hội tiến bộ, cách mạng, giàu
tính nhân văn giữa những người lao động như: tinh thần hợp tác, ý thức kỷ luật, bình
đẳng, đoàn kết, tương thân, tương ái; cũng như các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày
giữa các thành viên trong gia đình, cộng đồng, xã hội và con người với giới tự nhiên, môi
trường sống cũng được nhận thức ngày càng đầy đủ, đánh dấu bước tiến bộ mới của văn
minh nhân loại.
Nguyên lý cơ bản của triết học mácxít về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội là cơ sở lý luận khoa học để nghiên cứu làm sáng tỏ sự hình thành, phát triển
tư tưởng C. Mác, Ph. Ăngghen về đạo đức trong mối liên hệ hữu cơ với những điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đương thời. Sự vận động, phát triển của xã hội loài
người qua các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Đến nay, loài
người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội). Xã hội loài người là một chỉnh thể bao gồm nhiều mặt, yếu tố, lĩnh vực khác nhau
nhưng luôn có quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Trong đó, ý thức đạo đức phản
ánh tồn tại xã hội, mà trực tiếp là đời sống, quan hệ đạo đức của các thành viên trong xã
hội. Tương ứng mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu đạo đức đặc trưng với ý thức và
hành vi đạo đức xác định. Đó là các kiểu: đạo đức cộng sản nguyên thủy, đạo đức chiếm
hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư bản chủ nghĩa và đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, C. Mác, Ph. Ăngghen đã nhận rõ tính hai mặt

của quá trình sản xuất tư bản chứa đựng những mâu thuẫn đối kháng nội tại giữa lao động
và bóc lột. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng
không ngừng phát triển về mọi mặt, tính chất xã hội hoá ngày càng cao dẫn đến mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất làm gia tăng bóc lột, bất bình đẳng xã hội. Những mâu thuẫn kinh tế của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng về lợi ích
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt không thể tự khắc phục được.
Những mâu thuẫn kinh tế, xã hội đó được phản ánh sâu sắc trong đời sống tinh thần, làm
thay đổi nhiều giá trị văn hoá, quan hệ đạo đức xã hội theo hai khuynh hướng đối lập
nhau. Một mặt, địa vị của giai cấp tư sản đã làm xuất hiện nhiều thói hư tật xấu của kẻ bóc
lột như: tham lam, nhẫn tâm, gian xảo, thích ăn trên ngồi trốc, coi khinh lao động chân tay,
thần tượng hoá lao động trí óc, hành vi bóc lột, thống trị… của nó. Mặt khác, tính chất tiến
bộ, cách mạng của lao động công nghiệp đã làm xuất hiện nhiều phẩm chất đạo đức mới
của những người lao động đã tạo tiền đề cho sự biến đổi căn bản bộ mặt tinh thần, đời
sống đạo đức của xã hội trong tương lai.
Chủ nghĩa Mác chỉ rõ chủ nghĩa tư bản không phải là đỉnh cao của văn minh nhân loại
như các nhà tư tưởng tư sản thường nói, mà trái lại, nó chỉ là một giai đoạn tất yếu trong
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại; sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi


của chủ nghĩa cộng sản là tất yếu như nhau. Ngay sau khi giành thắng lợi trong cách mạng
tư sản và trở thành giai cấp cầm quyền, vai trò cách mạng của giai cấp tư sản đã nhanh
chóng kết thúc, mục tiêu tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng tư sản được thay bằng
các chính sách tăng cường áp bức, bóc lột công nhân, nhân dân lao động. Các quan hệ
kinh tế, xã hội tư bản chủ nghĩa đã sản sinh ra những quan hệ, nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức tư sản để bênh vực ách thống trị của giai cấp tư sản. Trong xã hội tư bản, thói "đạo
đức giả" trở thành phổ biến. Quan hệ trao đổi hàng hóa tư bản đã biến các quan hệ xã hội
thành mối lợi lạnh lùng, trả tiền ngay không tình nghĩa; biến phẩm giá con người thành
một giá trị trao đổi tầm thường. Chế độ tư bản chủ nghĩa là cơ sở sản sinh ra đạo đức tư
sản làm tha hóa con người - một bước lùi về quan hệ xã hội trong tiến trình văn minh nhân

loại.
Chủ nghĩa tư bản phát triển trong những mâu thuẫn và đối kháng ngày càng gay gắt với
những giới hạn không tự khắc phục được và quy định tính chất ngày càng quyết liệt của
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. ở đâu có áp bức thì ở đó có
đấu tranh. Chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ đâu thì cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư
sản cũng bắt đầu từ đó, như "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848) đã chỉ rõ. Cùng với
sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các giai cấp khác đều suy tàn,
chỉ còn lại giai cấp vô sản là sản phẩm của đại công nghiệp không ngừng tăng lên về số
lượng và chất lượng, trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu thế giới với những phẩm chất
ưu việt: tiên tiến nhất, cách mạng nhất, có kỷ luật chặt chẽ nhất và ý thức đoàn kết quốc tế
vô sản. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử vẻ vang là thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng
chủ nghĩa cộng sản. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp, lâu dài, quyết liệt và
sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội; và cuộc đấu tranh đó chỉ có thể kết thúc dưới
chủ nghĩa cộng sản, khi mà các tiền đề kinh tế - xã hội dẫn đến sự phân chia xã hội thành
giai cấp đã bị thủ tiêu. C. Mác, Ph. Ăngghen còn chỉ rõ, trong cách mạng vô sản, đấu tranh
giai cấp phát triển cao độ gắn giải phóng giai cấp với giải phóng triệt để xã hội, con người
khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Theo đó, những quan hệ xã hội mới, những chuẩn mực
đạo đức mới tốt đẹp của giai cấp công nhân hình thành, phát triển ngày càng phổ biến, từ
chỗ là đạo đức giai cấp dần trở thành nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực đạo đức phổ biến
trong chế độ xã hội mới được xác lập sau thắng lợi của cách mạng vô sản từng bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản chủ nghĩa.
Khoa học tự nhiên thế kỷ XIX có những bước phát triển mới với nhiều phát minh có
tính thời đại xuất hiện giúp cho con người có quan niệm mới ngày càng đúng đắn về thế
giới. Sự ra đời của Học thuyết tế bào chỉ ra bản chất của sự sống là trao đổi chất; Học
thuyết tiến hóa ra đời chỉ rõ lịch sử tiến hoá của các sinh vật, nguồn gốc tự nhiên của loài
người; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng khẳng định bản chất vật chất của thế
giới không ngừng vận động và chuyển hóa là nguyên nhân của chính nó. Mỗi phát minh
khoa học mới ra đời là một nguồn sáng mới soi rọi, đẩy lùi ảnh hưởng của các học thuyết
tôn giáo, thần quyền đã ngự trị, mê hoặc quần chúng lao động hàng ngàn năm dưới thời



Trung cổ, giải thích xuyên tạc bản chất của giới tự nhiên và con người. Cùng với các phát
minh vạch thời đại đó, còn nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác về xã hội học, khảo
cổ học và nhân chủng học,… cũng lần lượt được công bố. Đặc biệt, sau những phát hiện
của H. Moócgan, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội đã cung cấp cho C. Mác và Ph.
Ăngghen bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của xã hội loài người qua các thời đại văn
minh từ mông muội, dã man đến văn minh cổ đại, văn minh trung đại và văn minh hiện
đại. Theo đó, các quan niệm, thói quen, hành vi đạo đức của các quốc gia, dân tộc cũng
không ngừng vận động, phát triển qua các thời đại khác nhau đó.
Khoa học xã hội thế kỷ XIX cũng đạt được những thành tựu rất to lớn như: Triết học cổ
điển Đức với hai đại biểu xuất sắc nhất là G. Hêghen và L. Phoiơbắc; Kinh tế chính trị học
cổ điển, phát triển nhất ở Anh với hai đại biểu xuất sắc là Đ. Ricácđô và A. Smít; Chủ
nghĩa xã hội không tưởng, đặc sắc nhất ở Pháp với các đại biểu kiệt xuất như: C.
Xanhximông, S. Phuriê. Những thành tựu to lớn mà các khoa học xã hội khác nhau đó đạt
được đã trở thành tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của Học thuyết Mác với ba bộ
phận cơ bản: Triết học, Kinh tế - chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là một
học thuyết cách mạng và khoa học phản ánh sâu sắc đời sống xã hội, thống nhất giữa thế
giới quan, phương pháp luận và nhân sinh quan, giữa nhận thức thế giới và cải tạo thế giới
bằng cách mạng.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã kịp thời giải đáp về mặt lý luận những vấn đề mà thời đại
đang đặt ra, khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản, sự tất yếu diệt
vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của cách mạng vô sản, mở ra một giai đoạn mới
trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đó là thời đại của những con người lao động
được giải phóng, từng bước vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Chủ nghĩa Mác chứa
đựng nhiều tư tưởng thiên tài về đời sống xã hội; trong đó có những tư tưởng sâu sắc về
đạo đức, đạo đức cộng sản làm cho chủ nghĩa Mác trở nên sâu sắc bởi bản chất nhân văn
cao cả của nó.
C. Mác, Ph. Ăngghen là những nhà bác học thiên tài đồng thời là những nhà cách mạng
lỗi lạc lấy mục tiêu đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, gắn

giải phóng giai cấp với giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công
làm sự nghiệp của cả cuộc đời và hướng mọi sáng tạo khoa học vào phục vụ sự nghiệp vĩ
đại đó.
C. Mác sinh trưởng trong một gia đình trí thức có danh tiếng và khuynh hướng tự do.
Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho C. Mác tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ đương
thời, nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, hình thành phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo,
giàu hoài bão, ước mơ. C. Mác sớm có ý thức về sứ mệnh cao cả của cuộc đời mình, tự
nguyện từ bỏ cuộc sống giàu sang, an nhàn, có địa vị xã hội để dấn thân vào con đường
cách mạng vì sự nghiệp giải phóng loài người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Với C.
Mác, công việc mang lại hạnh phúc cho nhiều người là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời
và tự lựa chọn con đường đấu tranh cách mạng làm lẽ sống của cả cuộc đời.


Ph. Ăngghen sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt nhưng đã sớm từ bỏ địa vị sẵn
có của mình để dấn thân vào con đường đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng lao
động. Là một thiên tài có bộ óc bách khoa, trái tim nhân hậu và nghị lực phi thường, vì
vậy như một lẽ tự nhiên, trong suốt cả cuộc đời mình, Ph. Ăngghen luôn hướng về những
người lao động nghèo khổ với tình yêu thương chân thành, luôn gần gũi, thấu hiểu, cảm
thông, chia sẻ và dứt khoát đứng về phía họ, quyết tâm tìm ra con đường đúng đắn để
tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, động viên, tổ chức quần chúng đứng lên trong cuộc
đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại.
Ngay từ những năm đầu hoạt động cách mạng, C. Mác, Ph. Ăngghen luôn tích cực
tham gia các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Nhiều năm tiếp sau đó, mặc dù phải sống lưu vong trong điều kiện thiếu thốn vật
chất nhưng hai ông vẫn luôn theo sát thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng để động
viên, khích lệ và kịp thời có những chỉ dẫn, lời khuyên rất sâu sắc; luôn theo sát những
bước tiến mới của khoa học để khái quát, bổ sung làm phong phú nhiều nội dung trong
học thuyết của mình. Là những thiên tài sáng tạo, C. Mác, Ph. Ăngghen luôn lấy lao động
khoa học và đấu tranh cách mạng giải phóng con người làm sự nghiệp suốt đời, nêu tấm
gương mẫu mực, sáng ngời đạo đức cộng sản. Các ông đã nhận thức được vai trò của đạo

đức trong đời sống xã hội, đặc biệt những giá trị tư tưởng và hành vi, thói quen đạo đức
tốt đẹp của giai cấp vô sản dưới chủ nghĩa tư bản chính là mầm mống đạo đức của xã hội
tương lai - đạo đức cộng sản, nhân đạo, nhân văn nhất. Đạo đức mới phản ánh các mối
quan hệ xã hội mới giữa những con người được giải phóng, làm chủ trong chế độ xã hội
mới - "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi
người"1. Nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình cho lý tưởng cộng sản, C. Mác lấy đấu tranh
vì hạnh phúc con người là "nghề nghiệp" suốt đời. C. Mác và
Ph. Ăngghen đã trở thành biểu tượng sáng ngời đạo đức cộng sản hiến dâng cả cuộc đời
cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
C. Mác, Ph. Ăngghen luôn đứng về phía những người lao động để bênh vực, bảo vệ
quyền lợi của họ. Với tầm cao trí tuệ, bề dày kinh nghiệm hoạt động cách mạng, lãnh đạo,
chỉ đạo các phong trào cách mạng của giai cấp công nhân nhiều nước châu Âu, châu Mỹ,
hai ông đã nghiên cứu, tiếp thu có phê phán hệ thống các quan điểm, tư tưởng đạo đức
trong lịch sử nhân loại; bổ sung, phát triển, khẳng định đạo đức của giai cấp công nhân sẽ
là hạt nhân để xây dựng một kiểu đạo đức mới - đạo đức cộng sản. Tư tưởng C. Mác, Ph.
Ăngghen về đạo đức học, đạo đức cộng sản được thể hiện qua các tác phẩm chủ yếu: "Phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen, Lời nói đầu" (1844); "Gia đình thần thánh" (1846);
"Tình cảnh giai cấp công nhân Anh" (1845), "Luận cương về Phoiơbắc" (1845), "Hệ tư
tưởng Đức" (1846), "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (1848); "Tư bản" (1867-1895),
"Chống Đuyrinh" (1876-1877); "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" (1884); "Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của Triết học cổ điển Đức" (1887);…
1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 601.




Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

4,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,


Những tư tưởng về đạo đức đó đã trở thành di sản quý báu của chủ nghĩa Mác - Lênin,
nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản, kim chỉ nam cho sự nghiệp giáo dục, rèn luyện
đạo đức cộng sản, đạo đức xã hội chủ nghĩa của các Đảng Cộng sản, phong trào công
nhân trên thế giới, trong đó có sự nghiệp xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt

Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có phê phán các quan niệm đạo đức đã có trong lịch sử tư
tưởng nhân loại với nhiều đại biểu tiêu biểu như: E. Cantơ, G. Hêghen, L. Phoiơbắc,...
C. Mác, Ph. Ăngghen đã đặt đạo đức trên nền tảng vật chất của đời sống hiện thực, chỉ rõ
các thuộc tính căn bản làm nên bộ mặt phong phú của đạo đức như: tính lịch sử; tính dân
tộc; tính giai cấp; tính nhân loại; tính thực tiễn; mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và
chính trị, pháp luật; nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong hoàn thiện nhân cách con người
mới, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội mới, tạo động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát
triển theo hướng nhân đạo, nhân văn.
Phát kiến ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác không chỉ tạo ra bước ngoặt cách mạng
trong quan niệm của nhân loại về sự phát sinh, phát triển của xã hội nói chung, mà còn đặt
cơ sở khoa học cho nghiên cứu các khoa học xã hội và nhân văn trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội, trong đó có đời sống tinh thần, đạo đức xã hội. Tồn tại xã hội giữ vai trò
nền tảng, quyết định sự hình thành, phát triển các kiểu đạo đức qua các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C. Mác nhấn mạnh: "… ý thức
ngay từ đầu đã là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" 1.
Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen đã cung cấp cho chúng ta chìa khoá để khám phá đời
sống xã hội, có các quan điểm, tư tưởng về đạo đức. Cũng như các quan điểm triết học,
chính trị, nghệ thuật, tôn giáo, quan điểm đạo đức thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã
hội, do cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quy định.
C. Mác, Ph. Ăngghen khẳng định bản chất của đạo đức không phải là biểu hiện của
một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ của con người, cũng
không phải là biểu hiện của những năng lực bẩm sinh, có tính chất thần thánh; mà là một
hình thái ý thức xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Điều đó cũng có nghĩa, ý thức đạo
đức, các quan hệ đạo đức đều là sự phản ánh của một trình độ phát triển nhất định của
những điều kiện sinh hoạt vật chất, các quan hệ vật chất giữa con người và con người.
Ngay trong những tác phẩm đầu tay của mình, khi đang phác thảo một thế giới quan mới,
C. Mác đã phê phán kịch liệt các quan niệm duy tâm, tôn giáo về đạo đức. Trong luận án
tiến sĩ của mình, ở phần "Đạo đức học của Epiquya", C. Mác đã hết lời ca ngợi chủ nghĩa
vô thần của nhà triết học cổ đại này. Theo C. Mác, công lao to lớn nhất của Epiquya là đã
chỉ ra rằng, cái thiện không bắt nguồn từ thế giới bên kia mà là sản phẩm của trái đất, của

xã hội loài người nhưng đồng thời, C. Mác cũng chỉ ra hạn chế của Epiquya là đã tuyên
truyền cho một thứ tự do đạo đức thoát ly hiện thực xã hội.

1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 43.



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

3,

Nxb

Chính


trị

quốc

gia,


C. Mác, Ph. Ăngghen đã phê phán, chỉ rõ bản chất và những hạn chế của các quan
niệm đạo đức tôn giáo trong lịch sử. Các nguyên tắc đạo đức tôn giáo, về thực chất đều
nhằm bào chữa cho chế độ nô lệ cổ đại, khuyến khích cho sự nô dịch trung cổ và khi cần
thiết đã bênh vực ách áp bức giai cấp tư sản. Đạo đức mà tôn giáo tuyên truyền dựa vào ý
thức
về
sự
yếu
hèn
khi
giải
thích
những
nỗi
khổ
đau mà con người lao động phải chịu dựng về bản chất là do tội tổ tông của loài người. Nó
đòi hỏi một tinh thần tận tuỵ không bờ bến của người lao động đối với các giai cấp thống
trị.
C. Mác, Ph. Ăngghen phê phán những nhà triết học duy tâm đi tìm nguồn gốc của đạo
đức ở bên ngoài lịch sử xã hội, bên ngoài các quan hệ giai cấp. Các ông chỉ rõ hạn chế của
những quan niệm về đạo đức của E. Cantơ khi đối lập với những tư tưởng đạo đức tiến bộ
của những nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII, gạt bỏ những tư tưởng về lợi ích cá nhân, xoá

bỏ
mọi

sở
hiện
thực
của
đạo
đức.
Đối
với
E. Cantơ, thì mọi khái niệm đạo đức đều tồn tại một cách độc lập với mọi lợi ích, đều
được rút ra từ lý trí trừu tượng thoát ly đời sống hiện thực. ý chí đạo đức mà E. Cantơ
thường gọi là "thiện ý" nghĩa là cái năng lực hành động phù hợp với quy luật về đạo đức
phổ biến tồn tại vĩnh viễn ở con người. Ông gọi quy luật đó là mệnh lệnh vô thượng không
có một mục đích thực tiễn, không gắn liền với một lợi ích nhân loại nào. E. Cantơ thuyết
giáo cho một sự hoàn thiện đạo đức, coi đó là một phương tiện duy nhất để cải thiện hoàn
cảnh xã hội. Ông đã đưa ra câu châm ngôn nổi tiếng: "Anh phải hành động như thế nào để
anh có thể phục vụ nhân loại trong bản thân anh cũng như ở bản thân người khác chỉ với
tư cách là mục đích chứ không bao giờ được coi như phương tiện tầm thường" 1. Về thực
chất đó chỉ là một tư tưởng đạo đức ảo tưởng trong một xã hội còn đối kháng giai cấp,
quần chúng nhân dân được sử dụng như là phương tiện trong tay giai cấp bóc lột. Tư
tưởng đạo đức yếu hèn, lẩn tránh hiện thực đó phản ánh sự yếu hèn, bất lực của giai cấp tư
sản Đức đương thời.
C. Mác, Ph. Ăngghen phê phán, chỉ ra những thiếu sót cơ bản của G. Hêghen khi quan
niệm đạo đức là một giai đoạn phát triển của "tinh thần khách quan", một ý niệm độc lập
với thế giới khách quan; những quan hệ xã hội thực tế như gia đình, nhà nước chỉ được coi
như sự thể hiện của ý niệm đạo đức. Đó là những quan niệm duy tâm, thần bí hoá các
quan hệ xã hội. G. Hêghen cho rằng, người có của riêng không chỉ là pháp nhân mà còn là
chủ thể đạo đức; và chỉ trong trường hợp ấy, họ mới có thể trở thành chủ gia đình, thành

công dân và chỗ dựa của nhà nước. Hai ông kiên quyết bác bỏ các tư tưởng phản động của
G. Hêghen khi bào chữa cho chế độ thối nát của nhà nước Phổ, coi nhà nước ấy như là sự
thể hiện hoàn thiện nhất của "ý niệm đạo đức". Hai ông còn tích cực phê phán các quan
điểm duy tâm của phái Hêghen trẻ đã thần bí hoá quan hệ giữa ý thức và tồn tại và đặt đạo
đức trên một cơ sở duy tâm thần bí hơn nữa.
1

. Mác - Ăngghen - Lênin, Bàn về đạo đức, UBKHXH Việt Nam, Viện Triết học, 1972, tr. 18.


Đồng thời, C. Mác đã nghiên cứu sâu sắc và tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong
"Triết học pháp quyền" của G. Hêghen. C. Mác nhận thấy rằng, với Hêghen, "đạo đức là ý
niệm về cái thiện được hiện thực hoá trong ý chí có phản tư về mình và trong thế giới bên
ngoài. Trong quá trình triển khai tồn tại hiện có của mình, đạo đức trải qua ba thang bậc là
gia đình, xã hội công dân và nhà nước như tồn tại tối cao của tự do" 1. Như vậy, đạo đức và
đời sống hiện thực của con người có mối liên hệ chặt chẽ trong các dạng tổ chức, sinh
hoạt đặc trưng của họ. Điều đó còn nói lên thực tiễn đạo đức có quan hệ chặt chẽ với chế
độ chính trị, luân lý và luật pháp hiện hành trong đời sống xã hội. Nội dung của thực tiễn
đạo đức, quan hệ ứng xử xã hội muôn vẻ luôn là kết quả tác động của các công cụ điều tiết
xã hội: luân lý, pháp luật, các chuẩn mực chung sống, tập quán,… Do đó, trong xây dựng,
cải biến đời sống đạo đức trong hiện thực cần tìm hiểu rõ nguồn gốc phát sinh của nó từ
đời sống kinh tế, chế độ chính trị, tập quán xã hội; các tác nhân điều tiết trực tiếp là luân
lý hay pháp luật. Nếu không phân tách được các yếu tố tác động đó thì hiệu quả xây dựng
sẽ bị hạn chế, cũng như trong xây dựng cần phát huy vai trò từng nhân tố phát sinh, tác
động đến nó.
Để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các công dân, luật pháp đã hình thành các quy phạm
pháp luật buộc mọi công dân phải chấp hành; trong đó thống nhất giữa các quyền và nghĩa
vụ công dân nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Khi các điều luật đó là đúng
đắn được mọi người thừa nhận và tự giác chấp hành, từng bước nó sẽ được chuyển hoá
thành chuẩn mực đạo đức để mọi người thực hiện thành thói quen hành vi đạo đức hàng

ngày. Luật pháp và đạo đức có sự giao thoa với nhau làm cho luật pháp trở nên hiệu quả
hơn và đạo đức cũng trở nên phong phú hơn trong các lĩnh vực hoạt động xã hội.
C. Mác, Ph. Ăngghen còn chỉ rõ những hạt nhân hợp lý trong quan niệm biện chứng của
G. Hêghen khi trình bày các phạm trù đạo đức học, cái thiện và cái ác được xem xét trong
những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hoá giữa chúng trong những điều kiện lịch sử cụ
thể, cái ác có thể chuyển thành cái thiện và cái thiện có thể trở thành
cái ác.
C. Mác, Ph. Ăngghen đánh giá rất cao sự đóng góp của những nhà triết học duy vật khi
cho rằng, tư tưởng đạo đức gắn với nhu cầu, lợi ích cá nhân, đồng thời phê phán mặt hạn
chế của họ khi rút ra những nguyên tắc đạo đức từ cái gọi là "bản chất vĩnh cửu" của con
người. Hai ông nghiêm khắc phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của L. Phoiơbắc khi
lý giải vấn đề đạo đức, quy mọi quan hệ của con người vào quan hệ đạo đức; luân lý chân
chính không chỉ biết đến hạnh phúc của mình mà còn phải biết đến hạnh phúc của người
khác, biết đến hạnh phúc chung, có tính chất tập thể. Để đạt tới sự hoà hợp giữa lợi ích cá
nhân

lợi
ích

hội,
giữa
nghĩa
vụ

hạnh
phúc,
L. Phoiơbắc cho rằng, phải dựa trên tình yêu giữa người ta với nhau và ông đã ra sức
tuyên truyền cho một tình yêu phổ biến, mọi người cần thấm nhuần "Tôn giáo mới - tình
yêu giữa Tôi và Anh", nhờ luân lý tình yêu mà có thể khắc phục được bất công, bất bình
1


. Nguyễn Trọng Chuẩn - Đỗ Minh Hợp, Tư tưởng đạo đức trong "Triết học pháp quyền của Hêgen",

Tạp chí Triết học, số 8 (126), 8-2001, tr. 26.


đẳng trong xã hội và càng ảo tưởng hơn khi kêu gọi mọi người phải biết "tự hạn chế một
cách hợp lý bản thân"1.
L. Phoiơbắc coi con người là một thực thể trừu tượng bất biến nên ông không nhìn thấy
những quan hệ kinh tế của xã hội, không nhìn thấy đấu tranh giai cấp là những yếu tố trực
tiếp quy định các quan hệ đạo đức. C. Mác đã chỉ rõ nguyên nhân hạn chế đó là do L.
Phoiơbắc không hiểu được rằng, "bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội"2. Vì thế, những quan niệm về đạo đức của
L. Phoiơbắc là hết sức nghèo nàn. Trong điều kiện của chế độ tư sản Đức đương thời, sự
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng ngày càng sâu sắc, thì chủ nghĩa nhân đạo
của L. Phoiơbắc về tình yêu thương chung chung giữa con người với nhau đã trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm lẩn tránh hiện thực. Ph. Ăngghen đã khái quát rất
sâu sắc, chỉ rõ những hạn chế cơ bản ở học thuyết đạo đức của L. Phoiơbắc: "Nó được gọt
giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không
bao giờ có thể đem áp dụng được ở đâu cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó cũng bất lực
như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Cantơ vậy. Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi
nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình, và đều vi phạm đạo đức ấy, mỗi khi thấy có
thể vi phạm mà không bị trừng phạt, và thứ tình yêu phải đoàn kết tất cả mọi người, thì lại
biểu hiện bằng chiến tranh, xung đột, kiện tụng, bất đồng trong gia đình, ly dị và tình
trạng người ra sức bóc lột người"1.
Ph. Ăngghen xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, nắm vững phép biện
chứng duy vật để phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của Ơ. Đuyrinh, qua đó khẳng
định quan điểm đạo đức học mácxít khoa học và cách mạng: "Xét cho đến cùng, mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội

lúc bấy giờ"2. Qua đó, các ông đi đến khẳng định đạo đức là thuộc tính bản chất độc đáo,
cao đẹp nhất của loài người, "bản thân con người là bản chất tối cao của con người". Cùng
với sự vận động, phát triển của xã hội, bản chất cao quý ấy cũng không ngừng biến đổi và
từng bước hoàn thiện trong sự nghiệp cách mạng vô sản gắn giải phóng giai cấp với giải
phóng con người. Trên cơ sở đó, C. Mác, Ph. Ăngghen đã đi sâu nghiên cứu chỉ rõ sự phát
sinh, phát triển của kiểu đạo đức mới trong tương lai đã có mầm mống bắt nguồn từ đạo
đức của giai cấp vô sản hiện đại trong xã hội tư bản chủ nghĩa, những nhân tố hợp lý, có

1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,



Ph.


Ăngghen,

Toàn



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

21,

Nxb


Chính

trị

quốc

gia,

3,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,

tập

21,

Nxb

Chính

trị


quốc

gia,

tập

20,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,

H. 1995, tr. 424.
2

.

C.

Mác

tập,

tập


H. 1995, tr. 11.
1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 425.
2

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 137.


sức sống sẽ ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội tương lai, sau thắng lợi của cách
mạng vô sản.
ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Cho nên, muốn
hiểu sâu sắc các hiện tượng đạo đức không thể dừng lại ở giải thích khái niệm một cách
trừu tượng mà cần đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp,
nghĩa là tìm hiểu tồn tại xã hội đã nảy sinh ra các hiện tượng đạo đức ấy như thế nào. Như
vậy, đạo đức mang bản chất xã hội. Do đó, sự hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức luôn
bị quy định bởi trình độ phát triển của thực tiễn đời sống, nhận thức xã hội của con người.

C. Mác còn nhấn mạnh rằng, lịch sử không phải được sáng tạo ra ở bên ngoài sự hoạt
động của con người mà thông qua hoạt động, con người đã sáng tạo ra lịch sử của mình.
Cũng thông qua hoạt động của con người mà các quy luật chi phối sự vận động, phát triển
của xã hội hình thành, phát huy tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển như một quá trình lịch
sử - tự nhiên.
Xét đến cùng, sự phát sinh, phát triển của đạo đức bao giờ cũng xuất phát từ sự phát
sinh, phát triển của các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội. Lực lượng sản xuất vận
động, phát triển quy định quan hệ sản xuất tồn tại, biến đổi cho phù hợp với nó. Đó là biện
chứng phát triển của sản xuất xã hội qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến
cao. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp những người lao động đại biểu
của lực lượng sản xuất tiến bộ và giai cấp bóc lột đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời.
Mâu thuẫn đó, chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội để xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp, phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới ra đời thúc đẩy sản xuất phát triển. Toàn bộ nền tảng vật chất xã
hội thay đổi quyết định sự thay đổi của đời sống tinh thần xã hội, trong đó có đời sống
tinh thần đạo đức. C. Mác đã viết: "Phương thức sản xuất ra đời sống vật chất quyết định
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị, tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người
quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ"1.
C. Mác và Ph. Ăngghen đi sâu phân tích làm sâu sắc các thuộc tính đặc trưng của đạo
đức như: tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Tất cả những đặc tính ấy
của đạo đức đã tạo nên tính phong phú, muôn vẻ của đạo đức xã hội. Đạo đức không phải
là một hiện tượng tinh thần thần bí, thoát ly đời sống hiện thực như chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo quan niệm. Trái lại, đạo đức luôn có mối liên hệ mật thiết với chế độ kinh tế, đời sống
hiện thực. Tương ứng với mỗi thời đại kinh tế, mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu
đạo đức tương ứng. Sự tiến bộ đạo đức là không thể nghi ngờ nhưng như Ph. Ăngghen đã
chỉ rõ: "Một thứ đạo đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên
mọi hồi ức về những đối lập ấy, chỉ có thể có được ở một trình độ phát triển của xã hội,
1


.

C.

Mác

H. 1995, tr. 15.



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

13,

Nxb

Chính

trị

quốc


gia,


trong đó người ta không những đã thắng được những đối lập ấy trong đời sống thực tiễn,
mà còn quên đi cả những hồi ức về xã hội đó"1.
Ph. Ăngghen kịch liệt phê phán quan niệm siêu hình của Ơ. Đuyrinh coi đạo đức là một
hiện tượng "vĩnh cửu", thoát ly đời sống xã hội và khẳng định không thể có thứ đạo đức
vĩnh cửu đứng trên lịch sử và khác biệt về dân tộc; những quan điểm của L. Phoiơbắc về
đạo đức cũng nghèo nàn, trừu tượng, phi giai cấp, phi lịch sử. Do vậy, nó không thể áp
dụng cho bất kỳ đâu, bất kỳ ai; và cũng "không đáng giá một đồng xu" khi đưa ra lời
khuyên mọi người hãy yêu thương nhau bất kể giàu, nghèo, sang, hèn. Điều đó còn đúng
cả với lời khuyên răn về đạo đức - "Không được trộm cắp". Theo Ph. Ăngghen, mệnh lệnh
đạo đức đó, trên thực tế cũng không phải là một chuẩn mực đạo đức "vĩnh cửu". Bởi lẽ,
lời khuyên đó chỉ đúng và cần thiết đối với các xã hội tồn tại dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân. Còn với các xã hội cộng sản nguyên thủy trước đây, cũng như cộng sản chủ nghĩa
sau này, nhân loại chưa từng biết tới, hoặc không còn lý do sinh ra trộm cắp, thì nếu có
một nhà truyền bá nào đó về đạo đức vẫn cứ trịnh trọng tuyên bố cái chân lý vĩnh cửu
"không được trộm cắp" thì sẽ bị người ta cười nhạo cho đến thế nào. Những phân tích,
khái quát của Ph. Ăngghen về tính chất ưu việt của kiểu đạo đức cộng sản nguyên thủy đã
cho thấy rõ điều đó. Ông viết: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc
đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không
có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có
những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy… Mọi việc đều do những người hữu
quan tự giải quyết lấy và trong đa số các trường hợp, một tập quán lâu đời đã giải quyết
trước tất cả mọi việc rồi. ở đây không thể có người nghèo khổ và thiếu thốn, - nền kinh tế
cộng sản và thị tộc biết rõ những nghĩa vụ của mình đối với những người già yếu, ốm đau
và những người thương tật trong chiến tranh. Tất cả đều bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ"1.
C. Mác, Ph. Ăngghen đã nhìn thấy rõ tính tất yếu của sự phát triển đạo đức qua các mặt
đối lập của nó, từ đạo đức cộng sản nguyên thủy đến đạo đức của xã hội nô lệ. Trong xã
hội thị tộc: "Toàn thể các thành viên của thị tộc đều là người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự

do của nhau, họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau… Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy
chưa bao giờ nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc…" 1.
Nhưng với tính tất yếu của sự phát triển kinh tế, các quan niệm đạo đức thuần khiết của xã
hội nguyên thủy đã dần dần bị thay thế bởi quan niệm đạo đức tư hữu, mà nguyên nhân
như C. Mác đã nói, do "họ vẫn chưa tách rời ra khỏi cái cuống nhau của cộng đồng
nguyên thủy. Quyền lực của cộng đồng nguyên thủy đó nhất định phải bị đập tan - và nó
đã bị đập tan. Nhưng nó đã bị đập tan bởi những ảnh hưởng mà chúng ta hoàn toàn coi là
1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

20,

Nxb


chính

trị

quốc

gia,



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

21,

Nxb

Chính

trị

quốc


gia,

H. 1995, tr. 137.
1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 148.
1

, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 136, 150.


một sự suy đồi, là một tội tổ tông so với đỉnh cao của nền đạo đức của chế độ thị tộc cũ.
Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát hưởng lạc
thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công - báo hiệu sự ra
đời của xã hội văn minh mới, xã hội có giai cấp; chính những thủ đoạn bỉ ổi nhất - trộm
cắp, bạo lực, tính giảo quyệt, sự phản bội - đã làm suy yếu xã hội thị tộc không có giai cấp
và đã đưa xã hội đó đến chỗ diệt vong"2.
Lịch sử xã hội loài người từ khi có sự phân chia thành giai cấp thì đạo đức cũng mang
tính giai cấp. Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, dần dần trong xã hội có của dư
thừa, chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành các giai cấp có lợi ích căn bản đối
lập nhau giữa lao động và bóc lột. Mỗi giai cấp có địa vị kinh tế, chính trị khác nhau, mỗi
hệ thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định, không có đạo đức
chung chung đứng trên mọi sự phân biệt giai cấp. Khi nói đến đạo đức, phải hiểu được

rằng, đó là đạo đức của giai cấp nào. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, tư tưởng đạo
đức thống trị xã hội chính là tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, cùng với
sự vận động, phát triển của xã hội thì địa vị chủ đạo của các giai cấp cũng luôn biến đổi.
Theo đó, đạo đức xã hội cũng không tồn tại bất biến mà biến đổi theo tồn tại xã hội.
Theo Ph. Ăngghen, trong xã hội hiện đại đương thời tồn tại ba giai cấp: quý tộc phong
kiến, tư sản và vô sản, "mỗi giai cấp đều có đạo đức riêng của mình, thì từ đó chúng ta chỉ
có thể rút ra kết luận nói rằng con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra
những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí
giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi" 1.
Khi nói đến vấn đề giai cấp là bàn đến mối quan hệ giữa các giai cấp ấy trong xã hội, mà
thực chất là để chỉ rõ sự bất bình đẳng về lợi ích giữa các giai cấp ấy, sự đối kháng giữa
lao động và bóc lột. Lợi ích là sợi dây liên kết giữa các thành viên trong xã hội, qua đó các
nhu cầu mang tính khách quan của con người cả về vật chất và tinh thần được thực hiện;
nó như "bàn tay vô hình" điều khiển mọi hoạt động của xã hội một cách nhịp nhàng. Đạo
đức quan hệ trực tiếp với lợi ích và qua đó quan hệ gián tiếp với chế độ kinh tế xã hội.
Trong suốt tiến trình lịch sử đạo đức học, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức hiện ra như
một nghịch lý không khắc phục được. Điều đó, đã được C. Mác, Ph. Ăngghen phân tích
chỉ rõ căn nguyên làm nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung, cũng như
mâu thuẫn giữa lợi ích và đạo đức. Đối với C. Mác, vấn đề không phải ở chỗ đối lập một
cách tách rời giữa lợi ích và đạo đức, mà là giải quyết như thế nào quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội để hành vi thực hiện lợi ích của con người trở thành hành vi đạo
đức. Sự phù hợp đó đã từng tồn tại một cách tự nhiên trong đời sống xã hội từ buổi bình
minh - xã hội cộng sản nguyên thủy và nó chỉ có thể tái lập trên một trình độ cao hơn về
chất trong xã hội tương lai - cộng sản chủ nghĩa như C. Mác, Ph. Ăngghen đã khẳng định.

1

.

C.


Mác

H. 1995, tr. 136.



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

20,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,



Hơn hai ngàn năm qua, từ khi xã hội loài người có sự phân chia thành giai cấp, thì xã
hội luôn phát triển trong mâu thuẫn và đối kháng. Theo đó, đạo đức cũng tồn tại và phát
triển trong mâu thuẫn và đối kháng giữa các hệ thống đạo đức đối lập nhau, như mâu
thuẫn giữa các hệ thống đạo đức của các giai cấp: chủ nô và nô lệ; nông dân và chúa
phong kiến; vô sản và tư sản. C. Mác, Ph. Ăngghen đã có những phân tích và nhận xét rất
xác đáng rằng, xã hội tư bản không để lại giữa người với người một mối quan hệ nào
khác, ngoài mối lợi lạnh lùng, và lối "trả tiền ngay" không tình nghĩa. Giai cấp tư sản đã
dìm những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo, nhiệt tình hiệp sĩ, mối thương cảm
tiểu tư sản vào trong dòng nước giá ngắt của lối tính toán vị kỷ. Nó đã biến phẩm cách con
người thành một giá trị trao đổi đơn thuần... Trong xã hội đó, sự tha hoá của lao động là
cội nguồn của sự tha hoá bản chất tốt đẹp vốn có của con người. Chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là đỉnh cao nhất của sự tha hoá của lao động và
con người, đạo đức suy thoái, các hiện tượng phi nhân tính tràn lan, trở thành phổ biến.
Trong xã hội tư bản, tiền là thước đo giá trị cao nhất,
C. Mác đã chỉ rõ điều nghịch lý đó: "Tôi là người xấu, không thật thà, không có lương
tâm, ngu ngốc, nhưng tiền được tôn thờ thì người có tiền cũng được tôn thờ; tiền là cái tốt
cao nhất thì người có nó cũng tốt" 1. Giai cấp tư sản đã đem một sự bóc lột công nhiên, vô
sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tôn giáo và
chính trị của chế độ phong kiến.
Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (1884),
Ph. Ăngghen đã đi sâu phân tích cơ sở xã hội của những chuẩn mực đạo đức trong hôn
nhân gia đình; khẳng định bản chất nhân văn của đạo đức chỉ có thể là của giai cấp những
người lao động. Ông viết: "Sự luyến ái qua lại giữa đôi bên phải là lý do cao hơn hết thảy
trong việc kết hôn, đó là điều vẫn chưa từng nghe nói đến từ xưa tới nay trong thực tiễn
của các giai cấp thống trị. Có chăng thì nhiều lắm cũng chỉ có trong những câu chuyện
lãng mạn, hay trong các giai cấp bị áp bức, là những giai cấp không hề được đếm xỉa tới"1.
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân vẫn là hôn nhân giai cấp, mặc dù kết hôn vì tình yêu đã
được tuyên bố là quyền của con người. Ph. Ăngghen đã nêu lên tư tưởng biện chứng rất
sâu sắc về mối quan hệ giữa hôn nhân hợp đạo đức và đạo đức sau hôn nhân: "Nếu chỉ
riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân

trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp đạo đức mà thôi"2.
C. Mác, Ph. Ăngghen đã đi sâu phân tích những biểu hiện phong phú của tính dân tộc
trong đời sống đạo đức. Trong các điều kiện địa lý, nhân chủng, kinh tế, xã hội khác nhau,
ở mỗi dân tộc, mỗi thời điểm lịch sử khác nhau đã tạo nên những quan niệm khác nhau về
đạo đức, hình thành các lễ nghi, lề lối, quy tắc xã giao, tập quán nhất định phù hợp với lợi
1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

42,

Nxb

Chính


trị

quốc

gia,

H. 1995, tr. 222.
1

, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia gia, H. 1995, tr. 123, 128.


ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Ph. Ăngghen nhấn mạnh: "Từ dân tộc này đến dân tộc
khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những ý niệm về thiện - ác rất khác nhau đến nỗi
nhiều khi trái ngược nhau"1. Quan niệm biện chứng đó, cung cấp bức tranh phong phú, đa
dạng về đời sống đạo đức của các dân tộc cũng như sự giao lưu và bổ sung lẫn nhau, xoá
bỏ đi những thành kiến, kỳ thị dân tộc. Điều đó còn cho thấy việc đánh giá đạo đức không
thể căn cứ vào dấu hiệu bề ngoài của sự khác nhau về phong tục tập quán, mà cần phải căn
cứ vào sự phù hợp của những hành vi đạo đức ấy đối với tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
nhân dân.
Đạo đức có tính nhân loại, là tính chung của loài người ở các quốc gia, dân tộc khác
nhau biểu hiện trên lĩnh vực đời sống đạo đức. Một hành vi của con người được coi là đạo
đức khi hành vi đó mang lại lợi ích cho đồng loại, cộng đồng, xã hội. Theo đuổi lợi ích là
đặc trưng của hoạt động xã hội nói chung và phấn đấu cho lợi ích của giai cấp, dân tộc,
nhân loại là các đặc trưng cơ bản của hành vi đạo đức. Nhưng điều đó xa lạ với quan niệm
về tính nhân loại trừu tượng kiểu L. Phoiơbắc dẫn đến quan niệm đạo đức phi giai cấp, phi
lịch sử, đi tìm kiếm thứ "đạo đức phổ biến" chẳng có ý nghĩa thực tiễn gì, vì nó không ứng
dụng được ở bất kỳ đâu, cho bất kỳ ai. Đó không phải là con đường đúng đắn để đi đến
quan niệm khoa học về tính nhân loại chung của đạo đức như C. Mác, Ph. Ăngghen đã

phê phán.
Theo Ph. Ăngghen, tính nhân loại chung của đạo đức, biểu hiện đầu tiên là những quy
tắc sống đơn giản, thường ngày giữa con người với con người để duy trì cuộc sống lặp đi
lặp lại với khoảng thời gian dài của cuộc sống sinh hoạt cộng đồng thành thói quen, nếp
sống sinh hoạt, tập quán của con người để tồn tại. Tính nhân loại chung của đạo đức khi
phát triển ở trình độ cao là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất mà loài người đã đạt được
qua mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Đó thường là giá trị đạt được của những giai cấp
tiến bộ, cách mạng nhất trong mỗi thời kỳ lịch sử góp vào những giá trị mới khẳng định
bản chất nhân văn của đạo đức, tạo nên những nấc thang phát triển nhân tính, làm nên đời
sống tinh thần cao thượng của con người, tình thương yêu thực sự giữa con người và con
người.
Chỉ rõ đặc điểm tồn tại tính nhân loại chung của đạo đức trong xã hội có giai cấp, Ph.
Ăngghen phân tích cụ thể các cấp độ của tính chung. Khi đó, đạo đức vừa mang tính giai
cấp, vừa mang tính nhân loại chung. Chẳng hạn, đạo đức tư sản, đạo đức phong kiến, và
đạo đức vô sản - những thuyết đạo đức đó tiêu biểu cho ba giai đoạn khác nhau, của cùng
một sự phát triển lịch sử, nghĩa là cả ba kiểu đạo đức đó đều có một cơ sở lịch sử chung và
chỉ riêng lý do đó cũng đã khiến cho chúng không thể không có nhiều yếu tố chung 1.
1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,


Toàn

tập,

tập

20,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,

H. 1995, tr. 137.
1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 136.




Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

20,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,


Những giá trị đạo đức tiêu biểu được hình thành qua các thời kỳ sẽ góp vào trở thành
những giá trị, chuẩn mực đạo đức chung mang tính nhân loại. Tính nhân loại của đạo đức
luôn tồn tại và ngày càng trở nên phong phú hơn theo tiến trình phát triển của nhân loại.
Đó là tình yêu, thái độ tôn trọng, quan tâm tới đồng loại, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, sống hoà đồng với thiên nhiên, bảo vệ môi trường… Nhưng đương thời, theo Ph.

Ăngghen, con người vẫn chưa vượt qua được khuôn khổ đạo đức giai cấp. Một nền đạo
đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những
đối lập ấy, chỉ có thể có được ở một trình độ phát triển nhất định của xã hội, trong đó
người ta không những đã thắng được những đối lập giai cấp mà còn quên được những đối
lập ấy trong đời sống thực tiễn. Nền đạo đức có nhiều yếu tố hứa hẹn lâu dài nhất, chắc
chắn là nền đạo đức đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, tiêu biểu cho tương lai, đó là nền
đạo đức vô sản.
Giai cấp vô sản trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị áp bức, bóc lột nặng nề, không
chấp nhận trật tự phi lý của xã hội tư bản, đạo đức tư sản và đã vùng lên đấu tranh để tự
giải phóng mình và toàn thể nhân loại. Theo Ph. Ăngghen, họ "phải cố sức giữ mình khỏi
chìm xuống đáy dòng nước xoáy, cố sức cứu vãn nhân phẩm của mình, và muốn vậy thì
chỉ có cách là phản kháng chống lại giai cấp tư sản, chống giai cấp đã bóc lột anh tàn
nhẫn"1. Bằng hành động cách mạng ấy giai cấp vô sản chủ trương hướng tới mục tiêu "xóa
bỏ chế độ tư hữu" và theo đó cũng "đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng
kế thừa của quá khứ"1 đã trở nên lỗi thời của giai cấp bóc lột. Cuộc cách mạng cộng sản
chủ nghĩa là sự kiện lịch sử vĩ đại, tất yếu sẽ làm nảy sinh một kiểu đạo đức mới cộng sản
chủ nghĩa được khởi nguồn từ hệ thống đạo đức của giai cấp
vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa gắn liền với vai trò của giai cấp vô sản trong thực
tiễn đấu tranh cách mạng và lao động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
C. Mác, Ph. Ăngghen đi sâu phân tích vấn đề lợi ích với tính cách là cơ sở của đạo đức.
Để tồn tại con người phải hoạt động để thoả mãn các nhu cầu của họ. Nhưng hầu hết các
nhu cầu của con người không được thoả mãn trực tiếp mà thông qua các quan hệ xã hội để
gián tiếp thoả mãn các nhu cầu, thông qua các quan hệ lợi ích. Do đó, việc giải quyết đúng
đắn các quan hệ xã hội, vấn đề lợi ích sẽ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người.
Lợi ích là cơ sở quy định tính chất của các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Theo C. Mác,
Ph. Ăngghen: "Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức, thì do đó, cần
ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài
người"2. Nhưng cơ sở của quan hệ lợi ích lại phụ thuộc vào cơ sở kinh tế xã hội. Điều đó
cho thấy, những giá trị tinh thần đạo đức tốt đẹp chỉ có thể được phát triển ngày càng đầy

1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

2,

Nxb

Chính

trị

quốc


gia,



Ph.

Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

4,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,



Ph.


Ăngghen,

Toàn

tập,

tập

2,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,

H. 1995, tr. 474.
1

. C. Mác
H. 1995, tr. 626.
2

.

C.


Mác

H. 1995, tr. 199-200.


đủ dưới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trong một xã hội mà các quan hệ vật chất
và tinh thần của xã hội đã biến đổi căn bản, xã hội mới không còn chế độ tư hữu, áp bức,
bóc lột và con người được tự do phát triển những năng lực to lớn còn đang tiềm ẩn của
mình.
Trong "Luận cương về Phoiơbắc", C. Mác đã khẳng định vai trò của hoạt động thực
tiễn mang ý nghĩa của hoạt động "cách mạng" có tính phê phán mạnh mẽ là nguồn gốc,
động lực của nhận thức đúng đắn. Như vậy, sự hình thành, phát triển của đạo đức mới, đạo
đức cộng sản vì sự tự do và phẩm giá của con người chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động
thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh cách mạng của những con người lao động chân
chính gắn với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Con người không những là sản
phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, mà còn có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh;
hơn nữa, bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục trong thực tiễn cách mạng1.
Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng, quan hệ xã hội phong phú mà các phẩm
chất đạo đức tốt đẹp của con người dần hình thành, phát triển.
Trong "Hệ tư tưởng Đức", C. Mác, Ph. Ăngghen đã khẳng định vai trò to lớn của thực
tiễn đấu tranh cách mạng đối với sự hình thành ý thức và hành vi đạo đức cộng sản: "…
để cho ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra được trong đông đảo quần chúng, cũng
như để đạt được chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến đổi của đông đảo
quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện được trong một phong trào thực tiễn,
trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai cấp
thống trị bằng một phương thức nào khác mà còn vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật
đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo
mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội"1.
C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhận thấy vai trò to lớn của đạo đức đối với đời sống xã

hội, hoàn thiện nhân cách, phát triển nền tảng tinh thần tạo động lực thúc đẩy xã hội phát
triển. Giáo dục bao gồm giáo dục: trí óc; thể dục; kỹ thuật. Việc kết hợp giữa lao động sản
xuất được trả công, giáo dục trí óc, những bài thể dục và học tập kỹ thuật sẽ nâng giai cấp
công nhân nhanh chóng lên cao hơn trình độ của các giai cấp tiên tiến. Trong giáo dục, rèn
luyện nhân cách đạo đức của người cách mạng, C. Mác, Ph. Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh
vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ quyết định đến tương lai của nhân loại; rèn luyện đạo đức
trong lao động sản xuất có kỷ luật, kỹ thuật và tự giác.
Trong xã hội có giai cấp, khi đạo đức đứng lên bảo vệ lợi ích của các giai cấp tiến bộ,
cách mạng thì đạo đức ấy đóng vai trò phát huy tính tích cực thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong xã hội tư bản, chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản. ở
1

.

C.

Mác



Ph.

Ăngghen,



Ph.

Ăngghen,


Toàn

tập,

tập

13,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,

3,

Nxb

Chính

trị

quốc

gia,


H. 1995, tr.10.
1

.

C.

Mác

H. 1995, tr. 100-101.

Toàn

tập,

tập


buổi bình minh của nó, chủ nghĩa cá nhân tư sản đã đóng một vai trò tích cực; động lực lợi
ích của chủ nghĩa cá nhân tư sản đã chiến thắng quan hệ chật hẹp đẳng cấp phong kiến
dưới khẩu hiệu cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng, bác ái. Nhưng cũng chính sự phát
triển phiến diện của chủ nghĩa tư bản đã đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản đến đỉnh điểm của
nó. Ngoài mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, giai cấp tư sản đã để lại cho xã hội
không ít những hậu quả tiêu cực: vấn đề công lý và nền đạo đức trong xã hội không được
bảo đảm bình thường, con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy đồi. Sự
bình đẳng chỉ là hình thức chứ không phải trong thực tế cuộc sống xã hội. Sự che đậy mối
quan hệ bản chất bóc lột của xã hội tư bản bằng những "hình mẫu đạo đức tất yếu" của
giai cấp tư sản để mọi người noi theo là giả tạo.
Đạo đức tư sản xa lạ với lợi ích, nguyện vọng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa cá nhân
cực đoan và quyền tự do bóc lột không giới hạn của những kẻ lắm của nhiều tiền đã dẫn

đến tình trạng biến dạng nhân cách, trạng thái tâm lý, tình cảm lạnh nhạt, xa lánh nhau,
thậm chí thù địch nhau trong xã hội tư bản trở nên phổ biến. Nhưng trong lòng xã hội tư
bản cũng đồng thời chứa đựng mầm mống của đạo đức tiến bộ tiêu biểu cho lợi ích tương
lai của những người bị áp bức là đạo đức của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh không
ngừng giữa các kiểu đạo đức trong xã hội tư bản đã mở rộng các khả năng phát triển đạo
đức trong tương lai của một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp vô sản là giai cấp bị áp bức cuối cùng trong lịch sử nhân loại. Đạo đức của
giai cấp vô sản là mầm mống của đạo đức cộng sản, có tính chất thống nhất, ý nghĩa phổ
biến toàn nhân loại. Đạo đức cộng sản là đạo đức tiến bộ nhất, kế thừa và phát triển các
giá trị tích cực của các kiểu đạo đức đã có của văn minh nhân loại. Đạo đức vô sản trở
thành vũ khí sắc bén của quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh xóa bỏ tàn
tích chế độ xã hội cũ, xây dựng cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đó là
biện chứng của sự phát triển đạo đức trong xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội thông qua sự
tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác. Theo Ph. Ăngghen: "Sự phát triển của chính
trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v… đều dựa trên cơ sở sự phát
triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" 1.
Trong sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội cần chú ý tới mối quan
hệ mật thiết giữa đạo đức và chính trị. Từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, đạo
đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Đạo đức từ chỗ là sự thể hiện những lợi ích cơ bản
của mọi thành viên trong cộng đồng, xã hội nguyên thủy đã trở thành đại biểu cho lợi ích
giai cấp, trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù phản ánh đời sống xã hội
dưới các hình thức khác nhau nhưng đạo đức và chính trị đều biểu hiện lợi ích kinh tế của
một giai cấp nhất định và phục vụ mục đích của nó. Khi đó, ý thức đạo đức được thấm sâu
1

. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 39, tr. 271.


vào ý thức chính trị và biến đổi dưới ảnh hưởng chính trị và làm cho chính trị được thực

hiện với ý thức tự nguyện, tự giác của mỗi người. Đạo đức với vai trò của một quan hệ
tinh thần sâu sắc luôn tồn tại xuyên suốt và điều tiết tất cả các quan hệ xã hội, trong đó có
quan hệ chính trị.
Mặc dù ý thức chính trị luôn giữ vai trò chi phối tính chất và định hướng hoạt động của
ý thức đạo đức, nhưng điều đó không làm thay đổi được vai trò nền tảng tinh thần xã hội
của đạo đức. ý thức chính trị luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với ý thức đạo đức, có lúc
đồng nhất tiêu chí, chuẩn mực đạo đức với tiêu chí, phẩm chất chính trị. Chính trị do đặc
tính của mình, là một mặt, một phần của đời sống xã hội công dân. Muốn trở thành ý thức
chính trị thống trị xã hội, thì ý thức chính trị không thể xuất phát từ chủ nghĩa vị kỷ, độc
đoán của một giai cấp, mà phải hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn, giá trị đạo đức.
Chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định tính tất yếu thắng lợi của cách mạng vô sản. Chính
niềm tin vào thắng lợi đó đã củng cố tinh thần lạc quan cách mạng, sự tự nguyện, tự giác
hy sinh quên mình vì lợi ích của nhân dân. Chỉ có kết hợp chặt chẽ với đạo đức thì các
mục tiêu và hoạt động chính trị mới trở thành phổ biến và phát huy được sức mạnh tinh
thần, nội lực to lớn của khối quần chúng nhân dân đông đảo tự giác thực hiện các nhiệm
vụ chính trị.
Theo C. Mác, hệ thống lý luận đạo đức của các giai cấp khác nhau trong xã hội là biểu
hiện cả quá khứ, hiện tại và tương lai của xã hội đó. Tất nhiên, các hệ thống lý luận đạo
đức biểu hiện cho tương lai của xã hội gắn liền với các giai cấp tiến bộ của xã hội đó.
Trong xã hội mới, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của người
lao động, đạo đức và chính trị càng trở nên gắn bó mật thiết với nhau và trở thành động
lực tinh thần to lớn trong đấu tranh cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã
hội chủ nghĩa. Đạo đức mới phát triển không tách rời cuộc đấu tranh xoá bỏ tàn tích tư
tưởng, đạo đức, lối sống cũ, hoàn thiện lý luận và hành vi đạo đức mới.
Đạo đức xã hội cùng với pháp luật nhà nước góp phần tích cực vào điều chỉnh các quan
hệ xã hội nhằm duy trì ổn định xã hội mang lại lợi ích cho cộng đồng bằng sức mạnh của
dư luận xã hội và lương tâm của mỗi người. Đạo đức biểu hiện ở ý thức tự giác của mỗi cá
nhân và tập quán, thói quen, nếp sống xã hội phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức
xã hội. Pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền đề ra thành luật và nhân danh lợi ích
toàn xã hội, dựa vào sức mạnh cưỡng chế buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo.

Trong đời sống hiện thực, khi đạo đức kết hợp được chặt chẽ với pháp luật thì vai trò của
nó sẽ vô cùng to lớn. Trong các chế độ xã hội trước đây, về căn bản đạo đức của giai cấp
cầm quyền và pháp luật nhà nước thống nhất với nhau ở mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của
giai cấp cầm quyền nhưng lại đối lập với ý chí và lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân
lao động. Tuy vậy, giai cấp thống trị cố gắng tìm mọi cách để áp đặt đạo đức của giai cấp
mình trở thành đạo đức chung của xã hội. Nhưng sự thống nhất đó chỉ đạt được khi các
giai cấp thống trị còn tiến bộ, cách mạng, các lợi ích còn phù hợp với lợi ích của quảng
đại quần chúng lao động.


Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật chỉ thực sự có được trong xã hội mới xã hội
chủ nghĩa, quần chúng nhân dân thực sự làm chủ xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Khi đó, luật pháp và các quy tắc đạo đức xã hội thống nhất
căn bản về mục đích, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân. Các quy phạm pháp luật được
người dân thực hiện một cách tự nguyện, tự giác coi như chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức
tối thiểu, còn các chuẩn mực đạo đức tự giác thực hiện được coi như luật pháp tối đa của
toàn xã hội. Trong xã hội mới, xã hội - xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của quần chúng nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nguồn động lực to
lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Điều đó cho thấy vai trò, tính chất của mối quan hệ giữa
đạo đức và pháp luật trong xã hội mới, xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước
đây do giai cấp bóc lột cầm quyền đã có sự thay đổi về chất. Đạo đức của chế độ xã hội
mới, xã hội chủ nghĩa có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội góp
phần duy trì sự ổn định của đời sống xã hội, giàu chất nhân văn của nó.
Với các nội dung hợp thành tư tưởng khoa học sâu sắc của C. Mác, Ph. Ăngghen về
đạo đức trên đây cho thấy bước ngoặt cách mạng do C. Mác, Ph. Ăngghen thực hiện trên
lĩnh vực đạo đức làm nên giá trị, sức sống trường tồn của các quan điểm, tư tưởng về đạo
đức đồng thời tạo ra những tiền đề cho các bước phát triển tiếp theo của đạo đức học
mácxít giai đoạn V.I. Lênin.
2. V.I. Lênin bảo vệ, phát triển tư tưởng C. Mác, Ph. Ăngghen về đạo đức trong
điều kiện mới

Để hiểu rõ những đóng góp của V.I. Lênin trong việc bảo vệ, phát triển những quan
điểm, tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức trong giai đoạn lịch sử mới, cần đi
sâu phân tích những biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn Lênin với tư cách là nền tảng vật
chất làm nảy sinh những quan hệ tinh thần, ý thức đạo đức mới.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và chuyển dần
từ chủ nghĩa tư bản giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, đánh dấu sự ra
đời của chủ nghĩa đế quốc. Thực tế đó đã làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn vốn có
của chế độ tư bản chủ nghĩa; sản xuất hàng hoá tư bản phát triển, lực lượng sản xuất xã
hội hoá ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn xã hội giữa vô sản và tư sản, giữa các nước tư bản và
các nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập ngày càng tăng, cùng với mâu thuẫn gay gắt
giữa các nước đế quốc đã làm nảy sinh các cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc trẻ và
đế quốc già để tranh giành thuộc địa diễn ra liên miên đã đẩy nhân dân các nước vào vòng
xoáy của sự bần cùng. Xã hội tích tụ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và
tư sản gắn chặt với cuộc đấu tranh giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc ngày
càng phát triển mạnh mẽ.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra
một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp cách


mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ là sự đoạn
tuyệt triệt để với các chế độ xã hội cũ do giai cấp bóc lột cầm quyền. Vì vậy, sự nghiệp
cách mạng vĩ đại ấy cũng đặt ra nhiều vấn đề mới về lý luận cần được giải đáp, bổ sung,
phát triển; trong đó có vấn đề mới về đạo đức trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, nước Nga Xô Viết đã phải đối phó
với biết bao thù trong giặc ngoài. Các nước đế quốc tăng cường hoạt động bao vây, cấm
vận, tiến công quân sự âm mưu xoá bỏ Nhà nước công nông non trẻ đầu tiên trên thế giới.
Trong nước, các thế lực tư sản, địa chủ vừa bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn,
cơ sở kinh tế, xã hội của chúng vẫn tồn tại và ý chí phục thù ngày càng trở nên mãnh liệt
đang hàng ngày tìm mọi cách phá hoại thành quả cách mạng, nền tảng tinh thần đạo đức

của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, cùng với những khó khăn, tiêu cực phát sinh, những
tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ vẫn hàng ngày, hàng giờ cản trở giai cấp công
nhân và những người cộng sản đang tổ chức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa không ngừng vươn lên làm chủ đất nước, tự nhiên, xã hội và
làm chủ chính bản thân mình.
V.I. Lênin đã dày công nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng sáng tạo và qua đó phát triển
toàn diện các quan niệm đạo đức học mácxít đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền
đạo đức mới, con người mới, nền văn hoá mới, chế độ mới ở nước Nga Xô Viết nhiều năm
tiếp sau đó. Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặt ra những yêu cầu,
nội dung mới, từ những nguyên lý, lý luận, nguyên tắc đến các chuẩn mực mới của đạo
đức cộng sản. Đây cũng là thời kỳ mà cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận diễn ra vô cùng
gay go, quyết liệt giữa tư tưởng vô sản, tiến bộ, cách mạng đã hình thành còn non yếu của
chế độ xã hội mới chống lại các quan điểm tư tưởng tư sản, phản động cùng các tư tưởng
phi vô sản khác như tiểu nông, tiểu tư sản đủ mọi màu sắc vẫn tồn tại dai dẳng đang từng
ngày, từng giờ tìm mọi cách để kéo dài sự tồn tại của nó. Là một người mácxít chân chính,
V.I. Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm, tư tưởng, lý luận đạo đức học
tư sản, phản động dưới mọi màu sắc khi chúng trắng trợn phủ nhận thành quả cách mạng,
phủ nhận học thuyết Mác và mọi giá trị đạo đức cộng sản.
Sinh trưởng trong một gia đình trí thức có truyền thống cách mạng, V.I. Lênin được
thừa hưởng nền nếp giáo dục chu đáo của gia đình ngay từ buổi thiếu thời. Hoàn cảnh đó,
sớm hình thành ở V.I. Lênin tinh thần ham hiểu biết, yêu lao động, trọng lẽ phải, vị tha và
đặc biệt là tinh thần cách mạng sôi sục muốn được cống hiến hết mình vì sự tiến bộ, phát
triển đất nước, làm thay đổi thực trạng nước Nga đang trì trệ, bảo thủ, lỗi thời. V.I. Lênin
đã kế tục xuất sắc những tư tưởng cách mạng và khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen, qua
đó bảo vệ và phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác và hiện thực hoá nó trong thực tiễn cách
mạng sinh động của nước Nga Xô Viết trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Từ thực tiễn
đấu tranh cách mạng, lao động sản xuất, công tác, học tập của các tầng lớp nhân dân, đội
ngũ
đảng
viên,

cán
bộ,
công
chức,
V.I. Lênin đã khái quát nhiều nguyên lý, chuẩn mực đạo đức cộng sản để giáo dục, động


viên tinh thần đảng viên, cán bộ, quần chúng nhân dân phát huy tính tích cực trên mỗi
cương vị công tác vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
V.I. Lênin luôn theo sát những biến đổi nhanh chóng của tình hình nước Nga và cục
diện thế giới để có những phân tích, nhận định và đưa ra quyết định đúng đắn. Trung
thành với những nguyên lý cơ bản và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác, sử dụng phương
pháp luận mácxít vào phân tích thời cuộc, Người đã bóc trần bản chất phản động của chủ
nghĩa đế quốc, chỉ rõ tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của các lý luận tư
sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại. V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng với các quan niệm
đạo đức tôn giáo, duy tâm, siêu hình dưới mọi màu sắc, cả những quan niệm ấu trĩ "tả"
khuynh của những người cộng sản giàu nhiệt tình nhưng kém hiểu biết nên đã đề ra những
chủ trương sai lầm trong xây dựng nền văn hoá, đạo đức cộng sản trong những năm đầu
xây
dựng
chủ
nghĩa

hội

nước
Nga
Xô Viết.
Ngay sau kết thúc nội chiến (1917-1921), nhân dân lao động cả nước bắt tay vào khôi
phục kinh tế, thực hiện sự nghiệp vĩ đại là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn mới đặt ra những yêu cầu mới cho việc xây dựng hoàn thiện nhân cách của
những con người mới xã hội chủ nghĩa, cần phải phát triển, bổ sung hoàn thiện những
nguyên lý, lý luận, nguyên tắc, chuẩn mực mới của đạo đức cộng sản. Đặc biệt, khi dự
thảo đề cương văn hoá của chế độ mới, có người đòi xây dựng ở nước Nga Xô Viết một
thứ "văn hoá vô sản" của giai cấp công nhân một cách không tưởng, thoát ly cuộc sống một nền văn hoá được bắt đầu từ con số "0", đoạn tuyệt với quá khứ, phủ định sạch trơn
mọi giá trị đạo đức đã có trong lịch sử. Với bản lĩnh vững vàng và tinh thần cách mạng
triệt để, V.I. Lênin đã bóc trần tính chất phi lý, phiêu lưu của các quan điểm "cực tả" đó.
Với ý chí kiên cường, nhiệt tình cách mạng mãnh liệt và tinh thần sáng suốt của một lãnh
tụ thiên tài, V.I. Lênin đã từng bước đưa nước Nga Xô Viết vượt qua những khó khăn có
lúc tưởng chừng như không thể nào vượt qua được. Từ thực tiễn nước Nga sau Cách mạng
Tháng Mười, V.I. Lênin đã khái quát nhiều nội dung tư tưởng lý luận mới về đạo đức học,
khởi thảo hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cộng sản, đưa đạo đức học mácxít phát
triển lên một giai đoạn mới gắn kết chặt chẽ đạo đức với thực tiễn cách mạng làm cho đạo
đức cộng sản ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội mới do giai cấp công nhân và
những người lao động làm chủ. Những biến đổi cách mạng vĩ đại đó còn được thể hiện
sinh động ở sự thống nhất giữa tư tưởng và tấm gương đạo đức mẫu mực của V.I. Lênin.
Điều đó đã làm cho quần chúng trên khắp nước Nga và các châu lục khác hướng theo
Người không gì có thể ngăn cản nổi. Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng và sự nghiệp
nghiên cứu khoa học của V.I. Lênin là một tấm gương đạo đức cộng sản sáng ngời để giai
cấp công nhân, nhân dân lao động ở nước Nga Xô Viết và thế giới ngưỡng mộ, học tập,
noi theo.
Đánh giá công lao của Người, Hồ Chí Minh đã viết: "Lênin là người đã thực hiện và
phát triển chủ nghĩa Mác. Là người cha của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc giải


phóng. Là người thầy đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp thế giới, chẳng những
bằng lý luận cách mạng khoa học nhất, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất"1.
Trong những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, vai trò lãnh tụ của V.I. Lênin luôn chói
sáng, những phẩm chất tuyệt vời của nhà cách mạng và khoa học luôn kết hợp chặt chẽ
với nhau, phẩm chất sáng tạo của thiên tài V.I. Lênin đã làm nên những sự biến đổi kỳ

diệu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trên lĩnh vực bồi dưỡng, giáo dục, rèn
luyện đạo đức cộng sản; xây dựng mối quan hệ đạo đức tốt đẹp giữa người và người trên
tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Để bảo vệ và phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, trong đó


tưởng
C.
Mác,
Ph. Ăngghen về đạo đức, V.I. Lênin kiên quyết đấu tranh với các quan điểm duy tâm, tôn
giáo, cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc. Người vừa kịch liệt phê phán các quan điểm duy
tâm, tôn giáo về đạo đức, vừa kiên quyết đấu tranh vạch trần thực chất phản động của
những quan niệm đạo đức cơ hội, xét lại "tả" khuynh nhân danh "văn hoá vô sản" phủ
định sạch trơn đạo đức quá khứ. V.I. Lênin phê phán quan điểm duy tâm về đạo đức,
không xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, không phản ánh
được nhu cầu phát triển của lịch sử; một thứ đạo đức được rút ra từ một khái niệm đứng
ngoài loài người, đứng ngoài giai cấp. Thực chất, đó là sự lừa bịp, dối trá và nhồi sọ công
nhân và nông dân để phục vụ cho lợi ích ích kỷ của giai cấp tư sản lỗi thời. Người trực
tiếp lãnh đạo, tổ chức, dẫn dắt nước Nga Xô Viết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện cực kỳ khó khăn, kịp thời khái quát những nguyên lý, lý luận đạo
đức cộng sản phục vụ sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin đã đặt niềm tin vững chắc vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong cách mạng vô sản sẽ cải tạo triệt để các tàn tích của đạo
đức tư sản, tiểu tư sản và đông đảo những người nông dân, tiểu tư hữu. Trong cuộc đấu
tranh đó, đạo đức cộng sản có vai trò to lớn, góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột
và đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã
hội mới của những người cộng sản. V.I. Lênin lên án thứ đạo đức tôn giáo thoát ly cuộc
sống là người bạn đường, kẻ biện hộ cho giai cấp bóc lột và ru ngủ quần chúng lao động
bằng những lời khuyên hãy nhẫn nhục chịu đựng cuộc sống nơi trần gian, để cuối cùng
sau cái chết sẽ được đền đáp bằng cuộc sống tốt đẹp nơi thiên đường. Đạo đức tôn giáo về

thực chất là thứ "rượu" tinh thần cho những người lao động làm thuê dưới chủ nghĩa tư
bản bị chà đạp về nhân phẩm, quên mất những quyền được sống một cuộc sống xứng đáng
với con người.
V.I. Lênin còn kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa "tả" khuynh như
Tờrốtsky, Bukharin đã phủ nhận sự tồn tại của đạo đức trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa hư vô đã phủ nhận tính năng động chủ quan của những con người lao động làm chủ
trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, V.I. Lênin đã
1

. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tr. 385.


khẳng định tính tất yếu ra đời và vai trò to lớn của đạo đức cộng sản. Đứng vững trên lập
trường mácxít, V.I. Lênin đã lập luận và xây dựng quan niệm đạo đức cộng sản trên cơ sở
khoa học; kịch liệt phê phán những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, tư sản
phản động về đạo đức, khẳng định giá trị của đạo đức cộng sản vì hạnh phúc của con
người. Người luôn luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân để khái quát nhiều
nội dung mới về đạo đức cộng sản. Một hành vi của con người được coi là đạo đức khi
hành vi đó mang lại lợi ích cho đồng loại, vì con người. Điều đó, khẳng định bản chất
nhân văn của đạo đức, góp phần tạo nên những nấc thang phát triển của tính người, tình
thương yêu thực sự giữa con người và con người. Sự hình thành, phát triển của đạo đức
mới, đạo đức cộng sản vì sự tự do và phẩm giá của con người là một sự nghiệp khó khăn,
lâu dài nhưng nhất định thắng lợi và mỗi bước tiến bộ đó luôn có mối liên hệ chặt chẽ với
sự phát triển của nền tảng kinh tế, chế độ chính trị của xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin nêu lên khái niệm đạo đức cộng sản và khẳng định đó là đạo đức của những
con người lao động sáng tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội. Do vậy, mọi định hướng phát triển của đạo đức đó phải gắn bó chặt chẽ với
nhiệm vụ chính trị của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh thủ tiêu chế độ tư bản chủ
nghĩa và xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ tư tưởng cơ bản của
C. Mác, Ph. Ăngghen về lợi ích đúng đắn là cơ sở của đạo đức mới của người lao động

công nghiệp, V.I. Lênin chỉ rõ mối liên hệ giữa đạo đức và lợi ích của giai cấp vô sản:
"Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
mà ra"1. Lợi ích ấy càng trở nên mạnh mẽ khi nó gắn liền với khối quảng đại quần chúng
nhân dân giác ngộ đứng lên đấu tranh để giành lại những lợi ích chính đáng của mình lâu
nay bị giai cấp thống trị tước đoạt.
Lý tưởng đạo đức cộng sản phải xuất phát từ những quan hệ xã hội hiện thực và cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân để giành lại lợi ích và quyền sống của con
người. Cũng chính vì lẽ đó mà lý tưởng đạo đức cao quý nhất của người cộng sản, của đạo
đức cộng sản luôn gắn bó hữu cơ với lý tưởng chính trị, là động lực thúc đẩy lý tưởng
chính trị trở thành hiện thực cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng vô sản, lý
tưởng giải phóng giai cấp, con người đồng thời là lý tưởng đạo đức cộng sản. Giai cấp
công nhân chỉ có thể giải phóng được mình khi đồng thời giải phóng các giai cấp bị áp
bức, bóc lột khác. Tự do là cái tất yếu được nhận thức. Theo V.I. Lênin: "Cuộc đấu tranh
giai cấp còn tiếp tục và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho tất cả mọi lợi ích phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh này. Và đạo đức cộng sản của chúng ta cũng phải phục tùng cuộc đấu tranh
này… đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần
đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới, của những người cộng sản"1.

1

. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 367.

1

. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 369.


V.I. Lênin từng bước xác lập vững chắc kiểu đạo đức cộng sản chủ nghĩa với nhiều
thuộc tính mới. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cộng sản được sử dụng làm một

phương thức cơ bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng mệnh lệnh của lương tâm,
nghĩa vụ đạo đức trên tinh thần tự nguyện, tự giác và vai trò của sức mạnh dư luận xã hội
điều chỉnh ý thức và hành vi của các thành viên trong cộng đồng, xã hội. Muốn vậy, cần
xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và nền tảng kinh tế, chế độ xã hội mới, xã hội
chủ nghĩa.
V.I. Lênin kịch liệt phê phán lý tưởng đạo đức tôn giáo, duy tâm ru ngủ quần chúng
nhân dân lao động, lảng tránh cuộc sống trần gian, hiện thực, biện minh cho sự nô dịch tàn
bạo của giai cấp bóc lột đồng thời khẳng định lý tưởng đạo đức cộng sản bắt nguồn từ đời
sống hiện thực, được hình thành trên cơ sở thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và từng bước hoàn thiện dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời
của đạo đức cộng sản là một tất yếu lịch sử gắn liền với sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản, hoạt động thực tiễn cách mạng sôi nổi của mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động,
trình độ phát triển của khoa học xã hội và nhân văn và vai trò của các thiên tài C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin nhận thức và khái quát đúng đắn quy luật phát triển của lịch sử xã hội
nói chung và ý thức tư tưởng đạo đức nói riêng.
Phê phán các quan điểm duy tâm, tôn giáo, duy vật siêu hình đem đối lập đạo đức cộng
sản với các giá trị tư tưởng đạo đức đã có trong lịch sử, V.I. Lênin đã chỉ rõ mối liên hệ
giữa tư tưởng đạo đức của nhân loại và đạo đức cộng sản. Chủ nghĩa Mác ra đời là một ví
dụ sinh động về việc chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến
thức của nhân loại. V.I. Lênin đã kiên quyết bảo vệ quan điểm duy vật, cùng với nắm vững
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác và vận dụng vào xem xét, giải quyết
những vấn đề thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra.
Công lao to lớn nhất của V.I. Lênin là đã bảo vệ, kế thừa, phát triển và hiện thực hoá tư
tưởng C. Mác, Ph. Ăngghen thành hiện thực cách mạng sinh động. Trên lĩnh vực văn hoá,
đạo đức, lối sống, V.I. Lênin có thái độ đúng đắn trong bảo vệ, phát triển di sản văn hoá của
nhân loại. V.I. Lênin đã có kết luận đúng đắn: "Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp
quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được" 1. Hơn nữa, "Người
ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết
tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra"2.
V.I. Lênin chỉ rõ, đạo đức cộng sản không phải được tạo ra từ mảnh đất trống không,

cũng không phải do nguyên nhân duy nhất kinh tế quyết định, mà còn là sự tiếp thu những
hạt nhân hợp lý trong tư tưởng đạo đức nhân loại. Đó là những đức tính trung thực, thẳng
thắn, công bằng, hợp tác, thông cảm tương trợ của đạo đức nguyên thủy; những giá trị "tự
do, bình đẳng, bác ái" của cách mạng tư sản; những tư tưởng tiến bộ của Đ. Điđơrô, P.
Hônbách về lợi ích cá nhân và xã hội phải được kết hợp một cách hợp lý; tư tưởng của C.
Henvêtiúyt về hạnh phúc cá nhân kết hợp với hạnh phúc chung được C. Mác, Ph.
1

, 2. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 361, 362.


Ăngghen tiếp thu, hoàn thiện quan niệm về mặt cá nhân và xã hội của đạo đức, đạo đức
cộng sản. Tất cả đã được V.I. Lênin kế thừa, bổ sung, hoàn thiện để hình thành các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức cộng sản. Người chỉ rõ tính giai cấp, tính chiến đấu của đạo đức
cộng sản, từ đó, nhấn mạnh vai trò của đạo đức cộng sản phải là công cụ để phá hủy xã hội
cũ của kẻ bóc lột, đoàn kết những người lao động xung quanh giai cấp vô sản sáng tạo ra xã
hội mới, cộng sản chủ nghĩa.
V.I. Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi thứ lý luận đạo đức phản động phủ nhận lý
luận đạo đức học mácxít và sự tồn tại đạo đức trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Ông
đặt câu hỏi và trả lời dứt khoát: "Có đạo đức cộng sản hay không? Có luân lý cộng sản
hay không? Tất nhiên là có"1. Người cũng chỉ rõ tính tất yếu ra đời của đạo đức cộng sản
luôn đồng hành cùng với sự phát triển của giai cấp vô sản, "công nhân khi đã giác ngộ,
đều nổi dậy chống ách áp bức của tư bản, làm nổ ra cuộc cách mạng xã hội… Công nhân
cần phải vươn lên cao hơn, từ chỗ là giai cấp bị áp bức biến thành giai cấp thống trị" 2.
Theo V.I. Lênin, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa, không thể
bằng những con người của xã hội cũ để lại mà phải bằng những con người mới được đào
tạo có đủ phẩm chất và năng lực tương xứng, trước hết là có lý tưởng đạo đức cộng sản.
V.I. Lênin nhấn mạnh, trong sự nghiệp kiến thiết một xã hội mới, chúng ta sẽ gặp
không ít những sai lầm và vấp ngã, những khó khăn của sức mạnh tập quán lạc hậu của
chủ nghĩa cá nhân - "Ai lo phận nấy, chỉ có Thượng đế mới lo cho tất cả". Trong xã hội

mới do giai cấp công nhân làm chủ: "Chúng ta sẽ cố gắng đưa vào ý thức, vào tập quán và
đời sống hàng ngày của quần chúng cái quy tắc: "Mọi người vì mình, mình vì mọi người"
và quy tắc: "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", và xây dựng dần dần, nhưng kiên
quyết, kỷ luật cộng sản chủ nghĩa và lao động cộng sản chủ nghĩa" 1. V.I. Lênin cũng mong
rằng, cố gắng thực hiện những "ngày thứ bảy cộng sản", phát triển, phổ biến, cải tiến
chúng, và làm cho chúng trở thành tập tục, nét đẹp của nền văn hóa mới, văn hóa vô sản.
Muốn vậy, cần đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục giác ngộ chủ nghĩa cộng sản cho nhân dân,
trước hết là cho thanh niên, bởi nó là một nhiệm vụ rất trọng yếu, quyết định tới thắng lợi
của sự nghiệp vĩ đại đó. "Phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục, rèn luyện và dạy dỗ
thanh niên ngày nay trở thành sự nghiệp giáo dục đạo đức cộng sản trong thanh niên"2.
V.I. Lênin đã nhắc nhở rằng, đấu tranh giành được chính quyền mới là khởi đầu của
cuộc cách mạng vô sản. Sau khi giành chính quyền, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân vẫn tiếp tục nhưng là cuộc đấu tranh trong điều kiện mới nên cần có những nội
dung, hình thức mới phù hợp như giáo dục tinh thần đoàn kết giữa những người lao động
thành một khối vững chắc. V.I. Lênin đã hết sức chăm lo bồi dưỡng tinh thần lao động
mới gắn với rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần lao động tự giác, biết kết hợp chặt
chẽ giữa học tập và lao động nhất là đối với thanh niên. Người đã dạy: "Đoàn thanh niên
1

. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 366.

2

. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 370-371.

1

, 2. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr. 134, 366.



×