ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM QUANG TÙNG
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ VÀO
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM QUANG TÙNG
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ VÀO
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thúy Vân
Hà Nội - 2006
- 3 -
MỤC LỤC
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 5
Chƣơng 1: QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ V.I.LÊNIN
VỀ DÂN CHỦ 13
1.1. Những nội dung cơ bản trong quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ 13
1.1.1. Quyền làm chủ của nhân dân 16
1.1.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ 22
1.1.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ 33
1.1.4. Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội 43
1.2. Ý nghĩa những quan điểm dân chủ của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đối với việc thực hiện dân chủ ở nƣớc ta hiện nay 52
Chƣơng 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY THEO
TƢ TƢỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 61
2.1. Thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nƣớc ta hiện nay 61
2.1.1. Về sự thống nhất giữa dân chủ và CNXH 64
2.1.2. Về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở nước ta. 76
2.1.3. Về quyền làm chủ của nhân dân. 84
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
dân chủ ở nƣớc ta hiện nay 101
2.2.1. Hệ giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát triển
mọi mặt đời sống xã hội nhằm làm cơ sở nâng cao việc thực hiện
dân chủ ở nước ta hiện nay. 101
2.2.2. Hệ giải pháp tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của dân, do dân, vì dân nhằm nâng cao việc thực hiện dân
chủ ở nước ta hiện nay. 110
2.2.3. Hệ giải pháp phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện
quyền làm chủ của mình ở nước ta hiện nay 119
KẾT LUẬN 127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 130
PHỤ LỤC 137
- 4 -
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CSVN
Cộng sản Việt Nam
NCS
Nghiên cứu sinh
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
- 5 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề chính
trị mang bản chất giai cấp; đồng thời là một trong những giá trị xã hội mang
tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa chiều này đã làm dân
chủ trở thành vấn đề thời sự thu hút mối quan tâm to lớn cả về phương diện lý
luận và thực tiễn. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị nhân loại theo xu
hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các nền dân chủ. Xã hội
càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con người càng trở thành
đòi hỏi cấp bách.
Trong thời đại ngày nay, thực hiện dân chủ là biện pháp quan trọng để
các nước đang và chậm phát triển hội nhập và phát triển, nhằm rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn” [68, 254]. Dân chủ là động lực cho sự nghiệp đổi mới vì dân chủ hóa
đời sống xã hội sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi con
người, làm cho tiềm năng sáng tạo được tự do phát triển; mọi người dân được
tham gia vào quá trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ hoạch định
đường lối đến triển khai, tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và tổng kết,…
nhờ đó những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn sớm
được tháo gỡ, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của quốc gia, dân tộc. Như vậy,
dân chủ là một trong những đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, giàu có hơn,
phong phú và đa dạng hơn; vì thế, hạn chế hoặc chậm mở rộng dân chủ là kìm
hãm sự phát triển.
- 6 -
Với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, dân chủ là vấn đề quan trọng trong
quá trình hình thành một quan niệm mới về CNXH. Ngay từ khi bắt tay vào
việc xây dựng lý luận CNXH với tư cách là một khoa học, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã chú ý đến vấn đề dân chủ để đưa ra quan niệm thực sự khoa học
về các quy luật chuyển hóa từ hình thái kinh tế xã hội TBCN lên hình thái kinh
tế xã hội XHCN, trong đó có sự đối lập căn bản giữa dân chủ XHCN và dân
chủ tư sản. Trong bối cảnh hiện nay những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Việc nghiên cứu quan niệm của
các ông về vấn đề dân chủ cho phép chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của dân
chủ XHCN và qua đó, xác định các biện pháp hiện thực để đưa nó vào thực
tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của dân chủ, Đảng ta khẳng định: dân
chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị
XHCN. “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn
hệ thống chính trị. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới” [8, 90]. Dân chủ là bản chất của chế độ ta, đồng thời là nguyện vọng
thiết tha của nhân dân ta. Muốn vậy, phải “phát huy dân chủ đi đôi với giữ
vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật,
tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật” [14,
135]. “Đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức” [11, 129]. Đó là điều
kiện để nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình bằng nhà nước,
thông qua nhà nước. Trong những năm qua, việc thực hiện dân chủ ở nước ta
đã có những bước tiến quan trọng. Nhờ biết xây dựng và phát huy dân chủ
trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó lấy việc thực hiện dân chủ về kinh
tế và ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất làm nền tảng, dân chủ chính trị làm
trung tâm, kết hợp tốt và đảm bảo hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
- 7 -
hội trên cơ sở giữ vững kỷ luật, kỷ cương và tôn trọng pháp luật đã tạo cho
đất nước những thay đổi cơ bản với những thế và lực mới.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay cũng đang
diễn ra trong những bối cảnh rất phức tạp.
Một mặt, các thế lực thù địch luôn đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình”, hòng gây mất ổn định với mưu đồ bạo loạn, lật đổ Vấn đề dân chủ,
nhân quyền được họ coi là một bộ phận quan trọng của chiến lược đó, nhằm
mục tiêu lật đổ chế độ XHCN và phá hoại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia của ta. Dưới chiêu bài bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, họ tiến hành hoạt
động phá hoại tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và giá trị
phương Tây. Họ đang tìm mọi cách khoét sâu những khuyết điểm, sai lầm,
thiếu sót của ta trên con đường xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN,
nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân ta vào Đảng, vào chế độ. Họ khuyến
khích, tập hợp, hỗ trợ cho bọn phản động đội lốt tôn giáo, cùng bọn cơ hội,
bất mãn, cực đoan, phát triển lực lượng, hình thành lực lượng đối lập và
những tổ chức phản động để chống phá cách mạng nước ta…
Mặt khác, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực
hiện dân chủ, tình trạng thực hiện dân chủ và kỷ cương ở nước ta vẫn còn
nhiều vấn đề bất cập. Bộ máy nhà nước cồng kềnh; hiệu quả quản lý, điều
hành của nhà nước còn thấp, kỷ cương phép nước còn bị xem thường
Những hạn chế trên đã dẫn tới tình trạng ở nhiều nơi, quyền dân chủ của nhân
dân bị vi phạm. Thực tiễn nhiều năm qua ở một số địa phương, đơn vị cho
thấy, chính tình trạng mất dân chủ, vi phạm dân chủ mới là nguyên nhân dẫn
đến sự không ổn định, mâu thuẫn và thậm chí, cả sự xung đột. Không khắc
phục có hiệu quả những nhận thức phiến diện về vấn đề này, chúng ta không
- 8 -
thể loại trừ tình trạng quan liêu của nhà nước làm ảnh hưởng tiêu cực đến
quyền làm chủ của nhân dân.
Vì những lý do trên, việc khảo cứu những tư tưởng của các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ là vấn đề quan trọng và cần thiết. Nó
vừa cung cấp cho chúng ta một thế giới quan, phương pháp luận khoa học,
đúng đắn nhằm chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về
vấn đề dân chủ, đồng thời cho ta những nhận thức đúng đắn nội dung của vấn
đề dân chủ trong nhà nước kiểu mới, trên cơ sở đó vận dụng đúng đắn và sáng
tạo những quan điểm này vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, khắc
phục những hạn chế và yếu kém còn tồn tại. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Quan
điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về dân chủ và vận dụng quan
điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nƣớc ta hiện nay” làm đề tài luận văn của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân chủ hiện đang là vấn đề rất được quan tâm của giới nghiên cứu bởi
tính lý luận và thực tiễn cấp bách của nó, nhất là trong quá trình thực thi dân
chủ ở nước ta hiện nay. Có thể chia những nghiên cứu này theo hai mảng vấn
đề chủ yếu sau đây:
- Mảng nghiên cứu về tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin về dân
chủ: Có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Bàn về dân chủ trong quản
lý xã hội” của Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý - Bộ tư pháp. Tác phẩm này
bao gồm những đoạn trích trong các trước tác của V.I.Lênin về vấn đề dân
chủ. “Tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ”, là kết quả đề tài nghiên cứu khoa
học do khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành
phố Hồ Chí Minh chủ trì nghiên cứu và tổng kết, “CNXH và dân chủ qua việc
- 9 -
C.Mác, Ph.Ăngghen phê phán quan điểm chính trị của chủ nghĩa cấp tiến tư
sản Đức” của Trần Băng Thanh đăng trên Tạp chí Triết học số 2, tháng 4 năm
1999, “Quan điểm của V.I.Lênin về sự kết hợp tất yếu hữu cơ giữa dân chủ và
CNXH” của Đặng Hữu Toàn đăng trên Tạp chí Triết học số 2, tháng 4 năm
2000, “Vấn đề dân chủ trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng của
V.I.Lênin” của tác giả Lê Xuân Huy đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9
năm 2005…
- Về vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, có các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: “Lý luận về dân chủ và thực hiện dân chủ hóa ở
Việt Nam trong công cuộc đổi mới” của Hoàng Chí Bảo, “Xây dựng nền dân
chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền” của Đỗ Nguyên Phương và Trần Ngọc
Đường, “Quy chế dân chủ ở cơ sở - Vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn
Hiền, “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của
Đỗ Trung Hiếu. Đề tài cấp Nhà nước như: Đề tài KX 05-05 “Cơ chế thực hiện
dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta”. “Mối quan hệ giữa tập trung và
dân chủ và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản
lý nhà nước ta hiện nay” Luận án tiến sĩ của NCS Nguyễn Tiến Phồn; “Dân
chủ hoá trong thời kỳ quá độ lên CNXH” của Hồ Tấn Sáng. “Biện chứng của
việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam với phát huy dân chủ của nhân
dân” của NCS Nguyễn Trọng Thóc v.v.
Trong các công trình khoa học trên, các tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề lý
luận chung về dân chủ và dân chủ XHCN. Như: khái niệm dân chủ, một số
nội dung trong quan điểm về dân chủ của các nhà triết học Mác-Lênin, những
cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành dân chủ, những nhu cầu và đòi hỏi về
dân chủ của nhân dân, cũng như bản chất, đặc trưng và những chức năng cơ
bản của dân chủ trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đồng thời, do
- 10 -
nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật và dân chủ trong Nhà nước
pháp quyền, cho nên trong nhiều công trình khoa học nói trên, các tác giả
cũng đã phân tích rõ vai trò và vị trí của pháp luật và dân chủ trong Nhà nước
pháp quyền XHCN. Từ đó làm căn cứ khách quan để đưa ra những giải pháp
cơ bản cho sự đổi mới hoạt động của Chính phủ, cũng như các cơ quan quyền
lực của Chính phủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay, luận giải về vấn đề dân chủ và cơ
chế thực hiện dân chủ trong CNXH, cũng như về hệ thống chính trị XHCN
nói chung và mối quan hệ của các yếu tố trong hệ thống chính trị XHCN ở
nước ta hiện nay nói riêng.
Tuy nhiên, còn ít công trình tìm hiểu một cách có hệ thống quan điểm
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ cũng như việc vận dụng
những quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Đây là hướng nghiên cứu chính mà luận văn muốn đi sâu nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là trình bày một cách hệ thống và khái quát
những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ và
sự vận dụng những quan điểm đó vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về dân chủ và ý nghĩa của những quan điểm này trong việc thực
hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước
ta hiện nay theo tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, từ đó đề xuất
- 11 -
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng của luận văn đó là những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về dân chủ và thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những quan điểm
cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về dân chủ và đánh giá thực trạng việc
thực hiện dân chủ ở nước ta theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là: lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, về dân chủ. Đồng thời luận văn kế thừa
có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trên, tác giả vận dụng tổng hợp
những phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Trong đó đặc biệt chú ý phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích
và tổng hợp, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm thực tiễn trong việc đặt và
giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách có hệ thống và khái quát một số nội dung cơ bản
trong quan niệm về dân chủ của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và chỉ ra việc
vận dụng những tư tưởng đó vào việc thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay như thế nào.
- 12 -
- Nêu ra một số giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao hiệu quả
việc thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần chứng minh tính đúng đắn của các quan điểm lý
luận của các nhà kinh điển Mác- Lênin trong quá trình nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan với vấn đề lý luận có liên quan
mật thiết đến quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Đó là vấn đề dân chủ.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy những chuyên đề có liên quan trong các môn lý luận chính trị.
8. Kết cấu của luận văn
Phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và lôgíc nghiên cứu, luận văn gồm:
Lời mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục.
- 13 -
CHƢƠNG 1
QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ
V.I.LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1.1. Những nội dung cơ bản trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về dân chủ
Dân chủ là một phạm trù mang tính lịch sử. Cách đây hơn 2000 năm,
nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại Hêrôdôte đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm dân
chủ trong tác phẩm Lịch sử. Ông đã giải thích dân chủ là “quyền lực của nhân
dân”. Như vậy, dân chủ vốn là khái niệm xuất phát từ thời chiếm hữu nô lệ
trong xã hội Hy-La cổ đại, nơi đã sản sinh ra nền dân chủ đầu tiên của xã hội
loài người đó là nền dân chủ Athens, và nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến các trào
lưu tư tưởng dân chủ sau này, nhất là từ thời Phục hưng trở đi.
Dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là dêmocratia, tiếng Latin là
dêmokratia, được tạo thành bởi demos nghĩa là quần chúng, nhân dân, và
cratos nghĩa là chính quyền, quyền lực. Do đó dêmocratia là quyền lực của
nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân hay quyền làm chủ của nhân dân.
Vậy, khái niệm dân chu
̉
theo nghĩa nguyên gốc của tiếng Hy Lạp cổ và tiếng
Latin đều có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, khái niệm này
đã gần như bị quên lãng cả trên lĩnh vực học thuật cũng như trong thực tiễn
suốt thời kỳ chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn năm, và nó chỉ thực sự
được phục sinh và trỗi dậy mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời của CNTB, những
khái niệm “nhân quyền” “dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”, mới có
nội dung của đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản. Để mở đường cho
phương thức sản xuất TBCN ra đời và phát triển, trong thế kỷ XVII, XVIII,
giai cấp tư sản ở nhiều nước đã giương cao ngọn cờ dân chủ nhằm chống lại
- 14 -
chuyên chế phong kiến và ách nô dịch của ngoại bang. Trong cuộc chiến
tranh giải phóng của nhân dân bắc Mỹ (1775 - 1781) những dân tộc thuộc địa
của Anh đang sinh sống trên mảnh đất này đã thông qua Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của Mỹ, trong đó có đoạn: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Cách mạng tư sản Pháp nêu cao khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng,
bác ái”. Nhờ khẩu hiệu đó, giai cấp tư bản Pháp không những thu hút được
đại đa số nông dân, mà cả công nhân đi theo mình - nhân tố cơ bản mang lại
thắng lợi cho cuộc cách mạng mang tính triệt để nhất trong toàn bộ lịch sử ra
đời của CNTB. Đạt được thắng lợi, Cách mạng Pháp năm 1789 đã công bố
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, ở đó có luận điểm nổi tiếng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh trích lại ngay trong phần mở đầu Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi” [54, 555]
Phản ánh vị trí tiến bộ của CNTB so với xã hội phong kiến, một số người
đại diện cho giai cấp tư sản thời kỳ còn ít nhiều mang tính cách mạng đã ý
thức được tầm quan trọng của nhân dân, của dân chủ như là động lực phát
triển của xã hội mới. A.Bra-ham Lin-côn đã nêu ra luận điểm cho rằng nhà
nước mới đó (nhà nước tư sản) phải là nhà nước của dân, do dân, vì dân; ông
xem tình cảm của quần chúng là tất cả. Thiếu tình cảm của quần chúng thì bất
cứ cái gì cũng thất bại và không thể thành công.
Khái niệm dân chủ có thể được hiểu với nhiều nội hàm khác nhau.
Dân chủ, trước hết được xem xét với tư cách là một hình thức tổ chức
nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng
- 15 -
dân cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc và có quyền năng áp
đặt ý chí lên nhà nước. Khác với các hình thức khác của thiết chế nhà nước,
trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân,
tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa nhận; những cơ quan quyền
lực của nhà nước do dân bầu cử mà ra. Dân chủ được thực hiện thông qua hai
hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ với tính cách là một chế độ nhà nước là một phạm trù lịch sử,
biểu hiện khát vọng tự nhiên của loài người. Dân chủ là một quá trình, vì vậy
có nhiều cấp độ khác nhau, nhưng chung quy dân chủ là mong muốn của con
người được làm chủ cuộc sống mình: làm chủ về chính trị, kinh tế và văn hóa
– xã hội. Dân chủ với tính cách là quyền lực là một giá trị nhân văn mang ý
nghĩa toàn nhân loại. Ở đâu tồn tại con người và cuộc sống của xã hội loài
người thì ở đó có khát vọng vươn tới dân chủ. Dĩ nhiên ở mỗi giai đoạn phát
triển xã hội khác nhau, nội dung, bản chất và giá trị của dân chủ cũng mang
những ý nghĩa khác nhau. Chế độ chuyên chế phong kiến là chế độ dân chủ
của một người, chế độ tư bản là chế độ dân chủ của một nhóm người, chế độ
XHCN mới là chế độ dân chủ đích thực, của tất cả mọi người.
Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Các cuộc đấu tranh giành
dân chủ đều dẫn đến khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí con
người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực
làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó được xác định như một lý tưởng nhân
đạo, một giá trị nhân văn.
Dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và phát
triển một nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Ðó là sự hình thành
thái độ, tính tích cực chính trị, sự chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham gia
vào các quá trình chính trị thực tiễn. Ðó là tinh thần trách nhiệm của cá nhân
- 16 -
công dân trong cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những gì phản dân chủ đang tồn
tại trong đời sống cộng đồng. Do vậy, dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị
mà còn là phạm trù đạo đức.
Trong kho tàng lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, các ông đã
giành một vị trí quan trọng cho những quan niệm về dân chủ. Sau đây chúng
ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu những nội dung cơ bản trong quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ
1.1.1. Quyền làm chủ của nhân dân
Nội dung cốt lõi của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân hay sự
kiểm soát của nhân dân đối với toàn bộ quá trình ban hành và thực thi các
quyết định chung của chính thể nhà nước. Tiền đề của nó không phải cái gì
khác hơn là việc coi công dân là cơ sở, là nguồn gốc của mọi quyết định, của
các thiết chế quản lý. Đây là điều vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đối với việc xây dựng một cơ chế nhằm đảm bảo những lợi ích công dân.
Nguyên tắc nền tảng của dân chủ là mọi công dân đều có quyền quyết định
trong quá trình quản lý, điều hành xã hội của nhà nước, có quyền quyết định
một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đối với tất cả những vấn đề chung của xã
hội; có quyền được hưởng những lợi ích từ những quyết định ấy hay việc
hưởng thụ những quyền ấy phải là cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi công dân.
Đứng trên quan điểm này Ph.Ăngghen viết: “Thật là phi lý khi chỉ có ý chí
của giai cấp thống trị về mặt kinh tế và trật tự của giai cấp đó mới được đưa
lên thành luật, trong khi đó các lợi ích của các bộ phận khác trong xã hội, của
giai cấp tự trị, của giai cấp vô sản lại không được thừa nhận bằng pháp luật”.
[45, 61]
- 17 -
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, vấn đề dân chủ và quyền làm chủ
của con người chỉ được đặt ra khi xã hội đã phân chia thành giai cấp, được tổ
chức thành nhà nước. Sự phát triển của sức sản xuất, sự phân chia giai cấp, sự
xuất hiện nhà nước vừa là một bước tiến tất yếu của văn minh nhân loại,
nhưng sự tồn tại của nhà nước, của pháp luật là một dấu hiệu minh chứng
rằng xã hội từ đó, đang tồn tại trong tình trạng bất công, bất bình đẳng. Nói
cách khác, sự xuất hiện nhà nước, pháp luật vừa là một bước tiến văn minh
của nhân loại nhưng cũng là sự mở đầu về sự tha hóa toàn diện về quyền và
nghĩa vụ con người. Cả Thomas Hobbes, John Locke, Charles Montesquieu
và J.J.Rousseau đều cho rằng dân chủ chỉ có thể nảy nở trên một sự thoả
thuận mang tính khế ước giữa công dân và nhà nước về việc hạn chế và phân
chia quyền lực nhà nước để quyền lực ấy thực chất thuộc về nhân dân. Chừng
nào, sự thoả thuận ấy bị phá vỡ, chừng ấy nhân dân có quyền xác lập một khế
ước mới bằng nhiều cách khác nhau, và đó cũng hoàn toàn là quyền tự nhiên
của con người.
Mở đầu Khế ước xã hội, J.J.Rousseau đã phải thốt lên đau đớn rằng: con
người sinh ra là tự do, nhưng ở đâu đâu anh ta cũng sống trong xiềng xích. Do
vậy, cách tốt nhất để lấy lại sự tự do như là quyền tự nhiên thiêng liêng của
con người đó chính là việc cần phải tổ chức lại thiết chế xã hội sao cho quyền
tự nhiên ấy không bị xâm phạm và tước đi một cách tuỳ tiện từ phía nhà nước
và bộ máy công quyền. Đối với Hobbes và Rousseau đó là sự thoả thuận bằng
khế ước xã hội, đối với Locke và Montesquieu, đó là sự phân chia quyền lực
nhà nước một cách độc lập và chế ước lẫn nhau. Do đó, dân chủ gắn liền trực
tiếp với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Nền dân chủ không thể sản
sinh dựa trên một xã hội dựa trên nguyên tắc cai trị của ý chí cá nhân tuỳ tiện
và thao túng (chẳng hạn chế độ quân chủ và phong kiến). Trái lại, dân chủ là
nảy nở trong một xã hội được tổ chức, thiết chế, và vận hành trên nguyên tắc
- 18 -
luật pháp và phân quyền, cũng như có sự tham gia mạnh mẽ của các tổ chức
và thiết chế phi chính trị và phi nhà nước đóng vai trò là lực lượng xã hội đối
trọng nhằm giám sát và cân bằng với thiết chế chính trị và nhà nước trong
việc thực hiện dân chủ.
Để chống lại sự bất công, bất bình đẳng, chống lại sự đè nén, áp bức
khinh rẻ, hay nói chung chống lại sự tha hóa, những yêu sách về tư do, công
bằng, bình đẳng, về quyền con người đã hình thành và trở thành hành động
tập thể của các nhóm xã hội, các giai cấp bên dưới. Và, cũng từ đó, xã hội vận
động, phát triển trong những biến thiên không ngừng của những cuộc đấu
tranh quyết liệt của đông đảo những giai tầng xã hội bị áp bức, bị tước quyền
để giành lấy quyền làm người, làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống của chính
họ, giành lấy dân chủ.
Lịch sử xác nhận, đã từng có một chế độ được gọi là chế độ dân chủ
trong thời đại chiếm hữu nô lệ, nhưng dẫu sao, trong chế độ nhà nước dân chủ
chủ nô, thân phận số đông - những người nô lệ chẳng có một giá trị nào. Họ
không được coi là con ngừơi, họ chỉ là những “công cụ biết nói'“ trong tay các
chủ nô. Sau đó, xã hội loài ngừơi đã trải qua một thời kỳ tàn khốc của những
“đêm dài trung cổ”. Trong thời kỳ này, quyền của con ngừơi, quyền của số
đông các tầng lớp nhân dân lao động gần như đều bị thủ tiêu trước sức mạnh
của một nhóm, thậm chí, một cá nhân (nhà vua). Chế độ chuyên chế phong
kiến đã trói buộc, giam hãm con người.
Cuộc đấu tranh nhằm phá vỡ sự thống trị của chế độ chuyên chế phong
kiến để hình thành một xã hội, một chế độ dân chủ - chế độ tôn trọng phẩm
giá, danh dự của con người được khởi đầu bằng những cuộc vận động tư
tưởng, văn hóa sôi động, rộng lớn trong thời kỳ Phục hưng ở châu Âu. Nội
dung cốt lõi của phong trào này là khẳng định vị trị của con người với tư cách
- 19 -
là chủ thể của nhà nước, xã hội, Tôi làm con người, vì vậy những cái gì thuộc
về con người đều không xa lạ với tôi. Có thể xem đó như là tuyên ngôn về
quyền con người trong đời sống xã hội được đưa ra trong thời kỳ Phục hưng.
Chính giai cấp tư sản trong thời kỳ đang lên của nó, đã giương cao ngọn cờ
“tự do, bình đẳng, bác ái'” để tập hợp lực lượng tiến hành cuộc cách mạng
chính trị lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ dân chủ tư sản. Sự thắng lợi
của các cuộc cách mạng tư sản (điển hình là cuộc cách mang tư sản ở Mỹ năm
1776 và cách mạng tư sản Pháp năm 1789) và Tuyên ngôn độc lập của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ (1776) cũng như Tuyên ngôn về nhân quyền và dân
quyền (1789) đã tạo nên những dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử đấu
tranh vì các quyền tự do cơ bản của con người, vì một chế độ dân chủ.
Theo C. Mác, con người và sự tôn trong những quyền của con người là
điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng để đánh giá một chế độ là dân chủ
hay chuyên chế. Chỉ có trong chế độ dân chủ, con người mới là mục đích, là
chủ thể của xã hội. Dân chủ không chỉ đem lại sự bình đẳng về mặt chính trị,
mà còn đem lại cả sự bình đẳng về mặt xã hội. Đây cũng là điều mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định ngay từ thế kỷ XIX, khi các ông viết: “Yêu cầu
bình đẳng không còn giới hạn trong những quyền chính trị nữa, mà đã mở
rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân” [43, 52]
Quyền dân chủ thực chất là những yêu sách về sự bình đẳng chính trị và
xã hội của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước, nhằm đảm bảo cho
cá nhân có được khả năng hành động theo ý mình, tự quyết định và làm chủ ý
chí của mình mà không làm hại đến người khác mà do đó, đem lại khả năng
giải phóng toàn diện những năng lực, bản chất của mỗi cá nhân. Ph.Ăngghen
khẳng định: “Từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là một con người rút
ra quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị, xã hội cho tất cả mọi người,
- 20 -
hay ít ra là cho mọi công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong
một xã hội” [52, 149]
Vào thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng (1841 – 1844), C.Mác tìm hiểu dân chủ
từ góc độ giá trị, xem nó như sự chiến thắng của lý trí trước cái phi lý, sự
khẳng định của nhân tính trước cái phi nhân tính, sự khắc phục “tha hóa”
chính trị, vốn là yếu tố bản chất dưới chế độ phong kiến. C.Mác ngay lúc ấy
đã đưa ra tuyên bố chính trị của mình: một nền dân chủ thực sự phải gắn liền
với sự nghiệp của nhân dân. Tuyên bố đó làm nổi bật sự khác biệt rõ ràng đầu
tiên giữa C.Mác và phái Hêghen trẻ trong quan điểm về vai trò của quần
chúng nhân dân và vĩ nhân trong lịch sử. Nếu phái Hegghen trẻ đổ lỗi thất bại
của các cuộc cách mạng cho “sự tham gia không thành công” của “đám
đông”, thì ngược lại, C.Mác và Ph.Ăngghen xem quần chúng nhân dân là lực
lượng tích cực không thể thiếu trong các biến cố lớn lao của lịch sử: “Hoạt
động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự
nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo” [44, 123]. Ngay trong quá trình cách
mạng tư sản sơ kỳ (ngụ ý cách mạng tư sản ở thế kỷ XVII – XVIII), sự tham
gia của quần chúng nhân dân chính là sự đảm bảo thắng lợi của nó. Trong tác
phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (1843), đề cập
đến chế độ dân chủ như mục tiêu đã đạt được của vận động lịch sử trong thời
kỳ này, C.Mác viết: “Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình
thức chế độ nhà nước. Ở đây, chế độ nhà nước - không chỉ tự nó, xét theo bản
chất của nó, mà còn xét theo sự tồn tại của nó, theo tính hiện thực của nó -
ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân
dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ
nhà nước ở đây xuất hiện đúng chân tướng của nó, - tức là xuất hiện với tính
cách là sản phẩm tự do của con người” [43, 345]
- 21 -
VI.Lênin đã phát triển và vận dụng sáng tạo có hiệu quả những tư tưởng
về dân chủ, về chủ nghĩa nhân đạo mácxít vào thực tiễn cách mạng Nga. Bằng
những hoạt động lý luận và thực tiễn sôi động, phong phú, chính Người đã để
lại những giá trị, những bài học quý giá cho việc xây dựng một nền dân chủ
mới - dân chủ XHCN hiện thực, cao hơn, rộng rãi hơn, triệt để hơn so với nền
dân chủ tư sản cũng là những giá trị về một chế độ xã hội có khả năng giải
quyết thỏa đáng, triệt để về quyền làm chủ của nhân dân.
Một trong những tiêu chí cơ bản nói lên mức độ cao hay thấp, nhiều hay
ít của các nền dân chủ khác nhau, theo Lênin, là mức độ tham gia của quần
chúng nhân dân lao động vào công việc của nhà nước, vào các hoạt động
chung của xã hội. Trong ý nghĩa này, V.I.Lênin cho rằng: Phát triển dân chủ
một cách đầy đủ, nghĩa là làm sao cho toàn thể quần chúng nhân dân lao động
tham gia thật sự bình đẳng và thật sự rộng rãi vào mọi hoạt động của nhà
nước. Bằng những hình thức dân chủ gián tiếp không ngừng được tăng cường,
củng cố sẽ là điều kiện, động lực to lớn nhằm thúc đẩy sự nhanh chóng tiêu
vong của nhà nước - cũng là trở lại những giá trị đích thực về chủ quyền cá
nhân.
Quyền dân chủ trước hết là quyền con người, trong đó, quyền về chính
trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực hiện đầy đủ các quyền con
người cơ bản khác. Nói cách khác, quyền về chính trị (tự do bầu cử, ứng cử,
tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí…), một mặt, là tiền đề cho việc
hiện thực hóa các quyền khác; mặt khác, là sự phản ánh về mức độ giải phóng
“Năng lực bản chất người” của mỗi cá nhân. Về vấn đề này V.I.Lênin đã chỉ
rõ “Yêu sách khẩn cấp nhất của công nhân và nhiệm vụ trước tiên để giai cấp
công nhân có thể ảnh hưởng đến công việc của nhà nước là phải giành được
tự do chính trị, nghĩa là: tất cả mọi công dân đều được pháp luật (hiến pháp)
- 22 -
đảm bảo cho họ trực tiếp tham gia vào việc quản lý nhà nước, tất cả mọi công
dân đều có quyền tự do hội họp, bàn bạc công việc của mình, kinh qua các hội
của mình và báo chí mà ảnh hưởng đến công việc của nhà nước. Giành lấy tự
do chính trị trở thành “một việc làm khẩn cấp đối với công nhân” bởi vì
không có tự do chính trị thì công nhân không có và không thể có ảnh hưởng
gì đến công việc của nhà nước được và như vậy thì tất nhiên họ vẫn cứ là một
giai cấp không có quyền, bị lăng nhục và không được bày tỏ ý kiến của mình”
[26, 131]
Quần chúng nhân dân tham gia vào các lĩnh vực quản lý nhà nước, vào
công việc chung của xã hội không chỉ thông qua những hình thức, những con
đường can dự vào bộ máy nhà nước, mà còn thông qua các tổ chức quần
chúng. Con người tồn tại và tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội
không phải chỉ với những phương thức hành động tập thể - thông qua các tổ
chức, mà họ còn phải được có quyền tồn tại, hành động với tư cách là những
cá thể độc lập - tư cách là công dân của xã hội - nhà nước, tư cách là thành
viên của xã hội - nhân loại. Một chế độ dân chủ, phải thực hành nguyên tắc:
Tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước phải trở thành
công cụ bảo vệ quyền con ngừơi, bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân.
1.1.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Trong học thuyết Mác-Lênin, vấn đề dân chủ luôn được đề cập và phân
tích sâu sắc, là mục tiêu quan trọng hướng đến việc xây dựng một nền dân
chủ đầy đủ nhất - giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công để mọi
người đều được sống trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với tư
cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ được coi là một thành tựu mang giá
trị xã hội và tính nhân văn sâu sắc và là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài
của nhân loại vì sự phát triển tiến bộ xã hội. Dân chủ là một phạm trù lịch sử
- 23 -
khách quan xuất hiện cùng với sự phát triển của nhân loại và đã được khắc
họa, tô đậm tính giai cấp khi xã hội xuất hiện giai cấp và quan hệ giai cấp.
Dân chủ luôn mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của giai cấp cầm quyền.
Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực của nhân dân thì các thành quả
của dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn trong quá trình giải phóng
con người. Tuy nhiên, thực chất của quá trình dân chủ còn biểu hiện ở chỗ,
dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước gắn trực tiếp với một giai cấp cầm
quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản xuất thống trị thì dân chủ bao giờ
cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho mọi
giai cấp. Tính giai cấp của dân chủ được phản ánh trong các quan hệ giai cấp
và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là dân chủ cho giai cấp
nào, tầng lớp nào, hạn chế dân chủ và chuyên chính với ai. Đó chính là cốt lõi
của vấn đề dân chủ và C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp cận dân chủ
dưới góc độ là một hình thức nhà nước gắn với một giai cấp cầm quyền nhất
định.
Trong tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
C.Mác đã phê phán quan điểm của Hêghen về xã hội công dân và nhà nước.
Khi nhắc tới sự phê phán của C.Mác đối với triết học pháp quyền của
Hêghen, Ph.Ăngghen đã viết: “… Xuất phát từ triết học pháp quyền của
Hêghen, Mác đã đi tới kiến giải rằng không phải nhà nước, … mà ngược lại,
“xã hội công dân”… mới là lĩnh vực người ta phải đi vào để tìm ra chiếc chìa
khóa để hiểu được quá trình phát triển lịch sử của loài người” [49, 491]. Còn
bản thân C.Mác thì khẳng định rằng: “Gia đình và xã hội công dân là những
bộ phận hiện thực của nhà nước, là những tồn tại tinh thần hiện thực của ý
chí, là những phương thức tồn tại của nhà nước. Gia đình và xã hội công dân
tự chúng cấu thành nhà nước. Chúng chính là động lực. Còn theo Hêghen thì
ngược lại, chúng được sản sinh ra từ ý niệm hiện thực” [43, 312]. Theo
- 24 -
C.Mác, dưới hình thức hợp lý mà ta có thể chấp nhận được, gia đình và xã hội
công dân là những bộ phận của nhà nước. Công dân của nhà nước là thành
viên của xã hội công dân. Sự đảo ngược theo tinh thần duy tâm ở Hêghen
chính là ở chỗ “điều kiện biến thành cái chịu điều kiện, cái quy định biến
thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành sản phẩm của sản phẩm của nó”
[43, 315]
Vấn đề nguồn gốc, thực chất, tính tất yếu của nhà nước và dân chủ với tư
cách là một chế độ chính trị - xã hội mang bản chất giai cấp luôn là đối tượng
của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt từ trước đến bây giờ. Để bảo vệ lợi ích
giai cấp của mình, các học giả tư sản cố tình làm rối vấn đề nhà nước, đánh
đồng các quan niệm về dân chủ, ca tụng chế độ dân chủ tư sản, và Hêghen là
một ví dụ điển hình. Do bị chi phối bởi lợi ích giai cấp; cho nên, Hêghen nhìn
đâu cũng thấy sự tương hợp giữa nhà nuớc và xã hội công dân, chính C.Mác
đã chỉ ra cả cơ chế của sự tha hóa nhà nước đối với xã hội công dân, mà chế
độ quân chủ “là biểu hiện hoàn chỉnh của sự tha hóa ấy”. C.Mác còn gọi đó là
“chế độ dân chủ của sự không tự do, là sự tha hóa đến mức độ hoàn thiện”.
C.Mác viết: “Vào thời trung cổ, chế độ chính trị là chế độ sở hữu tư nhân… Ở
thời trung cổ, đời sống nhân dân và đời sống nhà nước là đồng nhất. Ở đây,
con người là nguyên tắc hiện thực của nhà nước, nhưng đó là con người
không tự do. Vì vậy, đó là chế độ dân chủ của sự không tự do, là sự tha hóa
đến mức độ hoàn thiện” [43, 353]. Quá trình tha hóa diễn ra mạnh mẽ trong
điều kiện của quân chủ chuyên chế, bằng con đường biến “các đẳng cấp chính
trị thành các đẳng cấp xã hội”. Vào thời mà Hêghen sống, thời cận đại, ông
chỉ thấy “cơ thể nhà nước” và “chế độ chính trị” thống nhất với nhau trong ý
chí chung và người đại diện nó là vua. Nhưng thực ra chế độ chính trị ấy, theo
C.Mác, là biểu hiện của bộ máy quan liêu và tha hóa đối với xã hội công dân,
cái gọi là “công việc chung”, “trách nhiệm chung” trở nên vô nghĩa.
- 25 -
Từ chỗ không thừa nhận đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính
vô sản, không công nhận học thuyết về nhà nước và cách mạng XHCN của
chủ nghĩa Mác, nên các học giả tư sản, đặc biệt là thái độ của những kẻ cơ
hội, xét lại chủ nghĩa Mác đã quan niệm một cách sai lệch vấn đề nhà nước,
biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước tư sản, của chế độ dân chủ tư sản mà
Látxan là tiêu biểu. Theo Látxan: “Để dọn đường cho việc giải quyết vấn đề
xã hội, Đảng công nhân Đức yêu cầu thành lập những hội sản xuất, với sự
giúp đỡ của nhà nước, dưới sự kiểm soát dân chủ của nhân dân lao động”
[51,44]. C.Mác đã vạch rõ thực chất tư tưởng cải lương, thỏa hiệp của phái
Látxan, cho rằng đó là một cương lĩnh thiếu căn cứ, không thể áp dụng trong
thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bởi lẽ cái
cương lĩnh mà Látxan đưa ra với những ý kiến như trên nó đã né tránh cuộc
đấu tranh đang sục sôi ở các nước châu Âu thời đó. C.Mác viết: “Đáng lẽ phải
nói đến cuộc đấu tranh giai cấp hiện đang diễn ra, người ta lại đưa ra một
công thức kiểu nhà báo là “vấn đề xã hội”…” [51, 44]. Cũng từ chỗ tránh né
quan điểm đấu tranh giai cấp, coi nhà nước tư sản Phổ lúc bấy giờ là chế độ
dân chủ tối cao, một kiểu nhà nước đứng trên xã hội, cho nên phái Látxan coi
dân chủ như một sự nới lỏng, kiểu ban ơn của giai cấp tư sản cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, chứ tuyệt nhiên không đả động gì đến việc
phải đập tan cái bộ máy chính quyền áp bức, nhà nước tư sản ấy bằng cách
nào.
C.Mác đã phân tích và khẳng định tư tưởng thỏa hiệp của phái Látxan
như sau: “Từ “dân chủ” nếu chuyển sang tiếng Đức thì có nghĩa là “nhân dân
làm chủ”. Thế thì “sự kiểm soát kiểu nhân dân làm chủ của nhân dân lao
động” nghĩa là gì? Hơn nữa, đó lại là nói về sự kiểm soát của nhân dân lao
động, khi đưa ra những yêu cầu như vậy đối với nhà nước, đã hoàn toàn thừa