Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thảo luận tố tụng dân sự chương 9: THỦ TỦC PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.87 KB, 11 trang )

THẢO LUẬN MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
CHƯƠNG 9: THỦ TỦC PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
____________________
I. NHẠN ĐỊNH:
1. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau thì Hội đồng xét xử
phúc thẩm ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự.
Nhận định này là sai.
Tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau thì Hội đồng xét xử phúc
thẩm sẽ không ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự.
Căn cứ Khoản 1, Điều 300, BLTTDS 2015 về Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên
tòa phúc thẩm:
“1. Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội
thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự”.
Theo quy định trên, tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Hội
đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự chứ không ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Mặt khác, thoả thuận của
các đương sự phải giải quyết được toàn bộ vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm
điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
2. Người đại diện theo ủy quyền của đương sự không có quyền kháng cáo thay đương sự.
Nhận định này là sai.
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự có quyền kháng cáo thay đương sự.
Căn cứ quy định tại Điều 271, BLTTDS 2015 về Người có quyền kháng cáo:
“Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền
kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm”.
Theo quy định trên, đương sự người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo theo thủ
tục phúc thẩm. Người đại diện hợp pháp của đương sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và
1




người đại diện theo uỷ quyền. Do vậy, người đại diện theo ủy quyền của đương sự có quyền kháng
cáo thay đương sự.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Tòa án đình chỉ
giải quyết yêu cầu của họ.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa phúc
thẩm thì Tòa án không đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ.
Căn cứ quy định tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều 296, BLTTDS 2015 về Hoãn phiên toà phúc thẩm:
“2. Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt
thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
3. Người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị
và những người tham gia tố tụng khác đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án”.
Theo quy định trên, nếu người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên
toà. Mặt khác, nếu họ được triệu tập lần 1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc lần 2 mà vắng mặt
thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ chứ không đề cập đến vấn đề đình chỉ
giải quyết yêu cầu của họ.
4. Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà phúc thẩm chỉ được chấp nhận nếu bị
đơn đồng ý.
Nhận định này là đúng.
Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 299, BLTTDS 2015 về Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi
mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm:
“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải
quyết như sau:

a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;
2


b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm
ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự
vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí
phúc thẩm theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên, nếu nguyên đơn rút đơn tại phiên toà phúc thẩm mà không được bị đơn chấp
nhận thì Toà án sẽ không chấp nhận việc rút đơn kiện của nguyên đơn. Ngược lại, nếu bị đơn đồng ý
thì Toà án chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Do vậy, việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn tại phiên toà phúc thẩm phụ thuộc vào việc bị đơn có chấp nhận hay không. Vì thế, việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà phúc thẩm chỉ được chấp nhận nếu bị đơn đồng ý.
5. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tất cả các yêu cầu của đương sự mà
Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết hoặc Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết nhưng đương sự
không đồng ý.
Nhận định này là sai.
Xét xử phúc thẩm không là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tất cả các yêu cầu của đương sự mà
Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết hoặc Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết nhưng đương sự không
đồng ý.
Căn cứ quy định tại Điều 270, BLTTDS 2015 về Tính chất của xét xử phúc thẩm:
“Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”.
Theo quy định trên, xét xử phúc thẩm là:
- Xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
- Chỉ xét xử phần bị kháng cáo, kháng nghị.
Do vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tất cả các yêu cầu của đương sự mà Tòa án cấp sơ thẩm
chưa giải quyết hoặc Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết nhưng đương sự không đồng ý mà đương sự
không có kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị thì không là xét xử phúc thẩm.
6. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp, thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày,
kể từ ngày tuyên án.
3


Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 273, BLTTDS 2015 về Thời hạn kháng cáo:
“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;
đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc
không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên
tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được
tính từ ngày tuyên án”.
Theo quy định trên, trường hợp thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15
ngày, kể từ ngày tuyên án chỉ đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện
không có mặt tại phiên tòa hoặc đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện
đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng. Còn trong
trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa
hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết chứ không phải là ngày toà tuyên án.
7. Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được
đưa ra thi hành.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì
đều chưa được đưa ra thi hành.
Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 282, BLTTDS 2015 về Hậu quả của việc kháng cáo, kháng
nghị:
“1. Bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường

hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay”.
Theo quy định trên, bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay. Do vậy, nếu bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thuộc các trường hợp phải thi hành
ngay (tại Khoản 2, Điều 482) thì sẽ được đưa ra thi hành.

4


8. Người kháng cáo không nộp tạm ứng án phí phúc thẩm thì Tòa án phải đình chỉ xét xử phúc
thẩm.
Nhận định này là sai.
Người kháng cáo không nộp tạm ứng án phí phúc thẩm thì Tòa án không đình chỉ xét xử phúc
thẩm.
Căn cứ Khoản 1, Điều 289, BLTTDS 2015 về Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án:
“1. Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc một phần vụ án
trong các trường hợp sau đây:
a) Các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này;
b) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị;
c) Người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
Và Điểm a, b, Điều 217, BLTTDS 2015:
“a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;”
Theo các quy định trên, Toà án chỉ đình chỉ xét xử phúc thẩm khi thuộc một trong các trường hợp:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
- Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.

- Người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Việc người kháng cáo không nộp tạm ứng án phí phúc thẩm không thuộc một trong các trường hợp
phải đình chỉ xét xử phúc thẩm. Do vậy, trường hợp này, Tòa án không đình chỉ xét xử phúc thẩm.
9. Nguyên đơn không kháng cáo thì không có quyền rút đơn khởi kiện.
Nhận định này là sai.
Nguyên đơn không kháng cáo thì vẫn có quyền rút đơn khởi kiện.
Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 299, BLTTDS 2015 về Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi
mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm:
5


“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải
quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm
ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự
vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí
phúc thẩm theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên, nếu nguyên đơn rút đơn tại phiên toà phúc thẩm mà không được bị đơn chấp
nhận thì Toà án sẽ không chấp nhận việc rút đơn kiện của nguyên đơn. Ngược lại, nếu bị đơn đồng ý
thì Toà án chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Do vậy, việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn tại phiên toà phúc thẩm phụ thuộc vào việc bị đơn có chấp nhận hay không chứ không
phụ thuộc vào việc nguyên đơn có kháng cáo hay không/
10. Tòa án cấp phúc thẩm phải triệu tập tất cả đương sự của vụ án tham gia phiên tòa phúc
thẩm.
Nhận định này là sai.
Tòa án cấp phúc thẩm không phải triệu tập tất cả đương sự của vụ án tham gia phiên tòa phúc
thẩm.

Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 294, BLTTDS 2015 về Những người tham gia phiên tòa phúc
thẩm:
“1. Người kháng cáo, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham
gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa nếu xét
thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị”.
Theo quy định trên, Toà án cấp phúc thẩm chỉ phải triệu tập người kháng cáo, đương sự, cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, khi đương sự không thuộc một trong các trường hợp trên thì
Toà án không bắt buộc phải triệu tập họ tham gia phiên toà phúc thẩm.

6


11. Nếu người kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử
phúc thẩm.
Nhận định này là sai.
Nếu người kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử không đình chỉ xét xử
phúc thẩm.
Căn cứ quy định tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều 296, BLTTDS 2015 về Hoãn phiên toà phúc thẩm:
“2. Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt
thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
3. Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc
kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó, trừ trường
hợp người đó đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
Trường hợp người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải
hoãn phiên tòa”.
Theo quy định trên, nếu người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì

bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án mới đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo
của người đó. Còn trong trường hợp người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà
vắng mặt thì phải hoãn phiên toà hoặc nếu họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt trong lần triệu tập lần
thứ nhất hoặc lần thứ hai mà vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ
chứ đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ.
12. Tòa án không được tiến hành hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự.
Nhận định này là đúng.
Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 205, BLTTDS 2015 về Nguyên tắc tiến hành hòa giải:
“1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành
hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo
thủ tục rút gọn”.

7


Theo quy định trên, hoà giải chỉ được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự. Do vậy, luật tố tụng dân sự không ghi nhận việc tiến hành hoà giải tại phiên toà phúc thẩm vụ án
dấn sự.
13. Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp, tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo.
Căn cứ quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 284, BLTTDS 2015 về Thay đổi, bổ sung, rút
kháng cáo, kháng nghị:
“1. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật này thì người
đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo
ban đầu.
2. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi,
bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng

không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị
đã hết”.
Theo quy định trên, tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo chỉ có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo khi:
- Chưa hết thời hạn kháng cáo.
- Không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết.
Do vậy, khi đã hết thời hạn kháng cáo mà người kháng cáo thay đổi, bổ sung kháng cáo vượt quá
phạm vi kháng cáo ban đầu thì người kháng cáo không có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo.
14. Đại diện Viện kiểm sát vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên tòa.
Nhận định này là sai.
Không phải mọi trường hợp, đại diện Viện kiểm sát vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng
xét xử đều phải hoãn phiên tòa.
Căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 296, BLTTDS 2015 về Hoãn phiên tòa phúc thẩm:

8


“1. Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm”.
Theo quy định trên, đại diện Viện kiểm sát vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử
phải hoãn phiên tòa khi Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Do vậy, trong trường hợp Viện kiểm
sát không có kháng nghị phúc thẩm thì Hội đồng xét xử vẫn phải tiến hành xét xử.
15. Hội đồng xét xử có quyền hoãn phiên tòa phúc thẩm để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ.
Nhận định này là sai.
Hội đồng xét xử không có quyền hoãn phiên tòa phúc thẩm để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ.
Căn cứ quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 259, BLTTDS 2015 về Tạm ngừng phiên tòa:
“1. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một
trong các căn cứ sau đây:
c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể

giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;”
Theo quy định trên, khi xét thấy cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu
không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa
thì Hội đồng xét xử được quyền tạm ngừng phiên toà chứ không hoãn phiên toà. Mặt khác, theo quy
định tại Điều 296, BLTTDS 2015 thì việc thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ không là căn cứ để Hội
đồng xét xử hoãn phiên toà.
II. BÀI TẬP
Câu 1: Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngân hàng X kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Vì đương sự
không có mặt tại phiên toà nên Tòa phúc thẩm ra quyết định hoãn phiên tòa. Sau đó, Tòa Phúc
thẩm quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp. Sau khi
có quyết định tiếp tục đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Ngân hàng X có đơn xin hoãn phiên tòa
với lý do người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng X là ông Y đang đi công tác. Tại phiên
tòa, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn xin hoãn phiên tòa của ông Y mà cho rằng
Ngân hàng X (người kháng cáo) đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, từ
đó ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nhận xét về quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
nêu trên.
Trường hợp 1: Chỉ có Ngân hàng X có yêu cầu kháng cáo.
9


Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trên của Tòa án là hợp lý.
Theo khoản 3, Điều 296 BLTTDS về Hoãn phiên tòa phúc thẩm:
“3. Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ
việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó, trừ
trường hợp người đó đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng
mặt họ”.
Ngân hàng X là bên kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 mà vắng mặt (vắng mặt không do
sự kiện bất khả kháng, không do trở ngại khách quan) và không có đơn xin xét xử vắng mặt nên theo
quy định trên sẽ bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và lúc này Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ngân hàng X. Trong tường hợp này vì chỉ có ngân hàng X

có yêu cầu kháng cáo nên Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trường hợp 2: Có nhiều người kháng cáo.
Trường hợp này, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án là không hợp lý.
Theo khoản 3 Điều 296 BLTTDS, ngân hàng X là một trong những bên có yêu cầu kháng cáo, và
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt (vắng mặt không do sự kiện bất khả kháng,
không do trở ngại khách quan) và cũng không có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, trong trường hợp
này, ngân hàng X sẽ bị coi là từ bỏ kháng cáo nhưng Tòa án sẽ không ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm mà Tòa sẽ đưa vụ án ra xét xử và trong phần quyết định của bản án, Tòa án đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của Ngân hàng X.
Câu 2: Công ty A khởi kiện Công ty B với yêu cầu phải bồi thường số tiền 50 triệu đồng do
ngày 02/3/2016 Công ty A gửi cho Công ty B một bưu kiện mang số TB 276683 bên trong là
một máy đo nồng độ cồn, nơi nhận là Trung tâm đo lường Việt Nam. Do nhân viên phát bưu
kiện bị tai nạn nên làm thất lạc bưu kiện trên. Công ty B đề nghị bồi thường 10 triệu đồng
nhưng Công ty A không đồng ý. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Hỏi:
a. Bị đơn kháng cáo không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chỉ đồng ý bồi
thường 10 triệu đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đưa ra ý kiến bị đơn sẽ bồi thường cho
nguyên đơn 40 triệu đồng và yêu cầu nguyên đơn phải rút toàn bộ đơn khởi kiện tại phiên tòa
phúc thẩm, không yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Nếu anh/chị là nguyên đơn, anh/chị
đồng ý với ý kiến của bị đơn không? Tại sao?

10


Trong trường hợp nếu nguyên đơn đồng ý với ý kiến của bị đơn, rút toàn bộ đơn khởi kiện thì lúc
này theo điểm b, khoản 1 Điều 299, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án sơ thẩm
và đình chỉ giải quyết vụ án, nghĩa là, lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ quay lại thời điểm
ban đầu.
Hậu quả khi có quyết định đình chỉ vụ án theo khoản 1 Điều 215 BLTTDS là đương sự không có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không
có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.

Nguyên đơn sẽ rất rủi ro trong việc nhận được số tiền là 40 triệu đồng. Vì đó chỉ là thỏa thuận
miệng giữa các đương sự mà không có bất kỳ giấy tờ, chứng cứ nào chứng minh cho sự thỏa thuận
đó. Bên cạnh đó, nếu sau này bị đơn không đưa cho nguyên đơn 40 triệu đồng như đã hứa thì nguyên
đơn cũng không thể kiện bị đơn ra Tòa án được vì bản chất là vụ án đã bị Hội đồng xét xử phúc thẩm
ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án và nguyên đơn không có quyền khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó. Do đó, việc bị đơn không trả 40 triệu như đã thỏa
thuận là có thể xảy ra, lúc này nguyên đơn chỉ có thể khởi kiện vụ án khác mới có thể đảm bảo
quyền lợi của mình, rất tốn thời gian và công sức.
Ngược lại, nếu nguyên đơn không đồng ý với đề nghị trên, và Hội đồng xét xử sau khi xét xử phúc
thẩm đã tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm thì lúc này bị đơn buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình
là bồi thường cho nguyên đơn 50 triệu, lúc này nguyên đơn vừa có thể được bồi thường số tiền nhiều
hơn vừa có căn cứ buộc bị đơn phải hoàn thành nghĩa vụ đó.
b. Giả sử khi đọc hồ sơ vụ án, Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án phát hiện biên bản hòa
giải được lập nhưng không có chữ ký của Thẩm phán và Thư ký của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy
có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy án sơ thẩm không?
Trường hợp biên bản hòa giải được lập nhưng không có chữ ký của Thẩm phán và Thư ký của Tòa
án cấp sơ thẩm là một trường hợp được xem là vi phạm thủ tục tố tụng.
Tuy nhiên vi phạm này lại không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên
không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ
thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo
Khoản 2, Điều 310, BLTTDS 2015.

11



×