Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TIỂU LUẬN TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT TRÊN địa bàn HUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.77 KB, 41 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:

Như chúng ta biết rằng, trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc
biệt quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu nhằm bảo đảm cho sự tồn tại,
vận hành bình thường của xã hội. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý
thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên
những giá trị mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của
pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm
mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng
đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính. Thực tế cho thấy, hệ thống
pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống
xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật
luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của
Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là
hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người,
đặc biệt là lợi ích của người lao động. Có thể nói, pháp luật góp phần rất lớn
trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung,
giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng
phát triển tiến bộ của thời đại. Qua đó xây dựng và phát triển một xã hội tiến
bộ.
Để pháp luật đi vào đời sống của nhân dân, cũng như phát huy có hiệu
quả về vai trò của pháp luật thì Nhà nước cần làm tốt công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật. Bởi lẽ, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật là khâu
đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để xây dựng


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã

1


khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nhiệm
vụ đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện pháp luật,
trong đó, thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật (TTGDPL), các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đưa đến với quần chúng
nhân dân. Như vậy, công tác TTGDPL là khâu đầu tiên, quan trọng nhất đưa
pháp luật vào cuộc sống và là cầu nối để chuyển tải pháp luật đến mọi tầng
lớp nhân dân, là một bộ phận quan trọng trong công tác giáo dục chính trị- tư
tưởng.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới Đất nước do Đảng cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế
tăng trưởng khá, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp
tục được cải thiện và nâng cao, tình hình chính trị và xã hội được ổn định,
quốc phòng an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị được cũng cố, quan hệ
đối ngoại không ngừng được rộng mở, hội nhập kinh tế quốc tế được chủ
động và đạt kết quả tốt. Đất nước ta đã và đang tiến hành cải tổ nền kinh tế
trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu nhằm khai thác mọi tiềm năng,
tiềm lực của đất nước, phát huy những ưu điểm của nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa đang được phát huy. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Nhà nước dùng mọi quyền lực của mình để điều tiết vĩ mô bằng các
công cụ quản lý nhà nước. Nhằm để quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã
hội đạt hiệu quả cao nhất. Trong đó quản lý Nhà nước về “Tuyên truyền giáo
dục pháp luật” của nhân dân chiếm vai trò hết sức quan trọng, thể hiện nhà
nước vì dân, vì tính công bằng xã hội và tạo điều kiện để nhân dân góp phần
xây dựng nhà nước.

Từ những yếu tố trên, thấy được công tác TTGDPL có vai trò rất quan
trọng, nhất là đối với địa bàn huyện Bắc Trà My - một huyện miền núi của
tỉnh Quảng Nam, dân cư chủ yếu là người đồng bào dân tộc thiểu số, do đặc
điểm vùng miền núi còn thiếu thốn, không thuận lợi trong việc phát triển

2


kinh tế, đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp nên công tác
TTGDPL càng có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao sự hiểu biết về
pháp luật, cũng như tạo được ý thức pháp luật cho người dân. Qua đó góp
phần xây dựng địa phương phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa
và xã hội. Chính vì lẽ đó, tôi chọn đề tài “Tuyên truyền giáo dục pháp luật
xã hội chủ nghĩa trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam”
2. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật; đặc điểm và
vai trò giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, hạn chế của
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, từ đó chỉ ra
những đặc thù và những bài học kinh nghiệm trong công tác TTGDPL.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
TTGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đối với nhân dân.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên
địa bàn huyện Bắc Trà My.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của đề tài gồm
03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật.
Chương 2: Thực trạng về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trên

địa bàn huyện Bắc Trà My.
Chương 3: Những giải pháp và một số đề xuất nhằm tăng cường công
tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện trong thời gian đến.

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Lý luận về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật:
1.1.1. Một số khái niệm chung.
1.1.1.1. Khái niệm về giáo dục pháp luật.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương quản lý đất nước bằng
pháp luật. Muốn thực hiện được chủ trương đó thì từ nhà quản lý đến cán bộ
công chức và mọi công dân phải hiểu biết pháp luật. Vì thế, các văn kiện của
Đảng thời kỳ đổi mới đều đề cập đến vấn đề giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta.
Khái niệm GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với
việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình
thành và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức.
Với tư cách là một khái niệm pháp lý - GDPL được hình thành trong khoa học
pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với
nhiều nước trên thế giới.
Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đường duy nhất cần tiếp cận
là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã
hội và chỉ có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo
dục luôn luôn là nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì

thế mà các nhà nước của giai cấp cầm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình
đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo hai
nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: giáo dục là quá trình ảnh hưởng, tác động của những
điều kiện khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi

4


trường sống....) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ
định và định hướng của nhân tố con người) nhằm hình thành những phẩm
chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
- Theo nghĩa hẹp: giáo dục là hoạt động định hướng của con người tác
động lên khách thể giáo dục. Theo cách hiểu này thì sự ảnh hưởng hay tác
động của yếu tố khách quan như môi trường, xã hội...không thuộc nội hàm
của khái niệm giáo dục.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận
những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình
thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm
đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí
quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục
pháp luật hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục
trong khoa học sư phạm như sau:
Giáo dục pháp luật là một dạng hoạt động có tổ chức, có mục đích có
tính định hướng tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành
ở họ tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù
hợp với pháp luật hiện hành.
1.1.1.2 Khái niệm phổ biến giáo dục pháp luật:
Theo cách hiểu chung nhất về phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp: Phổ biến, giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần văn

bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến, giáo dục pháp luật là
việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm
tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ
định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục
đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù

5


hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức,
phương tiện, phương pháp đặc thù.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường xuyên, liên
tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải
pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ biến, giáo dục
pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc trọng
tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật.
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác định
mục đích để làm gì ? cần đạt được mục đích ấy bằng con đường nào ? tức là
phải lựa chọn hình thức và phương pháp nhất định. Xác định đúng đắn mục
đích của GDPL chẳng những là căn cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả mà còn
là căn cứ để xây dựng nội dung GDPL phù hợp với đối tượng được giáo dục.
Mục đích của GDPL khác với mục đích của các dạng giáo dục khác. Vì vậy,
mục đích của GDPL trong điều kiện hiện nay cần xác định cụ thể ở những
vấn đề sau đây:
Một là: GDPL nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp
pháp, tích cực.

Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của một quá trình
nhận thức pháp luật. trong quá trình nhận thức thì có nhiều yếu tố tác động
(chủ quan và khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật trong đó hoạt động GDPL là yếu tố cơ bản. Bởi lẽ thông qua GDPL
sẽ cung cấp tri thức pháp luật, lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết vào sự tuân
theo một cách tự nguyện những quy định của pháp luật. Để đạt được mục đích
này trong quá trình GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp và
thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lý
của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. Thực tiễn hiện nay ở nước ta, mục
đích này có quan hệ vô cùng to lớn khi mà đa số nhân dân lao động vẫn còn
tình trạng chưa có thói quen xử sự theo pháp luật, việc sử dụng quyền và thực

6


hiện nghĩa vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật còn hạn chế, thậm chí
còn vi phạm nghiêm trọng.
GDPL nhằm đạt được mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của nó còn
giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa vào mục
đích của GDPL thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định
hiệu quả của quá trình GDPL.
Hai là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp
luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng
quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự
hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải
có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào
sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp
pháp của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động
dễ bị chệch hướng khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục đích, động cơ cá
nhân. Thực tế cho thấy nếu một người có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm

và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ tin theo những quy định của pháp luật. Tuy
nhiên để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình
cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ
không khoan nhượng với những hành vi sai trái. Tất cả những vấn đề đó sẽ là
cơ sở hình thành động cơ của hành vi hợp pháp.
Ba là: Từng bước nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân.
Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con người trên các lĩnh
vực là một yêu cầu khách quan của công tác giáo dục nói chung. Trong GDPL
thì mục đích được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp lý cho đối
tượng được GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những tri thức
về Nhà nước về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định. Trong điều kiện
ở nước ta hiện nay, thực tế cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí pháp lý. Tuy nhiên do đặc điểm
và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa nên nhân dân các dân tộc ít người có

7


những hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc xác định đúng đắn mục đích
GDPL có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể GDPL, nâng cao
nhận thức pháp lý làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn về
giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình thành tâm lý, tình
cảm và thái độ tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp luật và điều chỉnh hành
vi xử sự của mình. Khi mà mọi thành viên trong xã hội đã đạt đến một ý thức
“Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì đó là mục đích cao nhất
và đó là hệ quả của quá trình GDPL.
1.1.3. Vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật.
1.1.3.1. Vị trí của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp

luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào đời sống. Quá trình đưa pháp luật
vào đời sống được bắt đầu từ hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, bởi vì
thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào, tuân theo pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật đều phải có hiểu biết pháp luật.
Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác
phổ biến, xây dựng pháp luật thì dù có làm tốt đến mấy cũng không đạt hiệu
quả thực thi pháp luật.
Phổ biến giáo dục pháp luật còn là một trong những mắc xích quan trọng
có ý nghĩa đặc biệt của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì giáo
dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi
công dân, phát huy vai trò và hiệu quả của pháp luật trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.3.2. Vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật.
Phổ biến giáo dục pháp luật là góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

8


Vai trò quan trọng này của giáo dục pháp luật chính là bắt nguồn từ vai
trò giá trị của pháp luật, phương tiện hàng đầu của quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội: Phổ biến giáo dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức pháp lý,
tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, là tiêu đề cho việc sử dụng
quyền lực Nhà nước. Tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, mở rộng quyền
tự do của mỗi người. Phổ biến giáo dục còn tạo ra khả năng đổi mới quan hệ
xã hội trong môi trường quản lý Nhà nước, tạo ra khả năng hình thành các
điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý xã hội, tạo ra khả năng
phát hiện và kiên quyết loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp
luật diễn ra trong quá trình quản lý.

Phổ biến giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn
hóa pháp lý của công dân. Đây là vai trò không kém quan trọng trong công
tác phổ biến giáo dục pháp luật, là quá trình tác động nhằm hình thành tri thức
pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật
hiện hành. Vì vậy, kết quả đạt được các mục đích do sự tác động định hướng
là góp phần xây dựng ý thức pháp luật và căn hóa pháp lý của công dân.
Giáo dục pháp luật chính là đòi hỏi khách quan bắt nguồn từ lợi ích của
nhà nước, của công dân.
Vậy công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có vai trò rất
quan trọng nhằm giúp cho mọi người am hiểu được pháp luật. Nâng cao nhận
thức, có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật và thể hiện được hành vi hợp
pháp. Tạo ra khả năng đổi mới quan hệ xã hội, nâng cao ý thức pháp luật và
văn hóa pháp lý của công dân.
Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, công tác phổ biến giáo dục pháp
luật phải được xác định là một trong những công tác trọng tâm của hoạt động
hành pháp và tư pháp. Chúng ta đã coi trọng việc xây dựng pháp luật đã đến
lúc phải tự tương xứng cho việc thực hiện pháp luật mà trước hết là tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Đó là trách nhiệm của mọi cơ quan nhà
nước, của tổ chức xã hội và mọi công dân mà trước hết là cơ quan hành pháp

9


và tư pháp của nhà nước ta. Có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ là sự cần
thiết, xong để đảm bảo xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của
dân, do dân vì dân, vấn đề bức thiết hiện nay là phải tạo ra những điều kiện,
xây dựng một cơ chế hữu hiệu bảo đảm mọi quy định pháp luật đã ban hành
đều được mọi người, mọi cơ quan, tổ chức tôn trọng, đặc biệt là đẩy mạnh
hơn nữa công tác phổ biến giáo dục pháp luật sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân
dân để ai nấy đều hiểu biết rõ và chấp hành nghiêm chỉnh.

1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác phổ biến giáo dục pháp
luật.
Ý thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật Đảng
ta đã không xem nhẹ mà ngược lại rất coi trọng công tác này. Trong các văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc, từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
đến văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đều đề cập sâu
sắc đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã xác định:
“Các cấp ủy Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể phải thường xuyên
phổ biến, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục
pháp luật vào các trường học, cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và
tôn trọng pháp luật”. Tại đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ
rõ: Coi trọng công tác giáo dục pháp luật tuyên truyền giải thích pháp luật.
Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể
cả các trường phổ thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân cán bộ quản lý
các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở. Phải có kiến thức về quản lý hành
chính và hiểu biết về pháp luật cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để
giáo dục pháp luật nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho
nhân dân Tiếp tục thực hiện quan điểm GDPL cho cán bộ và nhân dân tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta khẳng định: Điều quan trọng
để phát huy dân chủ là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí hiểu biết pháp luật và ý

10


thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, thường xuyên giáo dục pháp luật xây
dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân .
Công tác tuyên truyền và GDPL đã thực sự là một chủ trương lớn của
Đảng ta và chủ trương đó đã tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về công

tác GDPL tại Đại hội lần VIII Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến
việc triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và GDPL: Huy động lực lượng
của các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại
chúng tham gia vào đợt vận động thiết lập và các hoạt động thường xuyên xây
dựng nếp sống mới và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước
và xã hội .
Nối tiếp tinh thần các văn kiện trước, văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX xác định: “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật tuyên truyền giáo
dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”, còn văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thì khẳng định phải: “... tuyên truyền sâu
rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; bồi
dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn
dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Còn trong văn kiện Đại hội XI khẳng định
“....tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân, giải quyết kịp thời những vướng mắc bảo
vệ quyền lợi ích của nhân...”
Để đẩy mạnh công tác này, Ban Bí thư đã ban hành ra chỉ thị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cán bộ, nhân dân. Chỉ thị nêu rõ: xác
định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đến, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức
thực hiện tốt công tác này để góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn

11


trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ nhân dân.

Cùng với tinh thần đó, để tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa
IX) tiếp tục khẳng định: “ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân”. Tiếp đến Đảng ta đã có
Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư TWĐ (khóa IX) về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến GDPL, nâng cao ý
thức chấp hành PL của cán bộ và nhân dân.
1.3. Đối tượng, chủ thể, nội dung của công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đòi hỏi phải có nội
dung, đối tượng, cơ quan nào làm chủ thể trong công tác tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật.
Trước hết đối tượng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tùy thuộc
vào từng lĩnh vực khác nhau và mang một chủ thể nhất định, như đối tượng là
cán bộ công chức Nhà nước thì chủ thể là Bộ nội vụ, cơ quan tổ chức cán bộ
Trung ương. Đối tượng là nhân dân lao động thì chủ thể là cơ quan Tư pháp.
Đối tượng là công nhân thì chủ thể là Tổ chức Công đoàn. Nếu đối tượng là
học sinh, sinh viên thì chủ thể là Bộ giáo dục đào tạo hoặc đối tượng là thanh
niên thì chủ thể là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh...
Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm:
Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.

12



Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích
của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp
luật. (Theo Điều 10 của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật)
1.4. Các hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
Qua tổng kết việc thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật và
thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật các năm, các chương
trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp, các ngành trong cả
nước cho thấy hiện nay có nhiều hình thức tuyên truyền phổ biến, giáo dục
pháp luật được vận dụng một cách sáng tạo, hiệu quả, trong đó nổi lên một số
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu sau:
- Phổ biến pháp luật thông qua tuyên truyền miệng (phổ biến giáo dục
pháp luật trực tiếp);
- Phổ biến pháp luật thông qua biên soạn, phát hành tài liệu pháp luật, tờ
rơi, tờ gấp; Pa nô, áp phích...;
- Dạy và học pháp luật trong nhà trường;
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật;
- Phổ biến pháp luật thông qua tổ chức sinh hoạt các câu lạc bộ pháp
luật;
- Phổ biến pháp luật thông qua việc xây dựng và khai thác tủ sách pháp
luật ở xã, phường, thị trấn; tủ sách, ngăn sách pháp luật tại cơ quan, bệnh
viện, trường học;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và
trợ giúp pháp lý;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hóa, văn nghệ
(đặc biệt là các loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống) và hình thức sân
khấu;


13


- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phiên tòa xét xử;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các trung tâm học tập cộng
đồng;
- Phổ biến pháp luật thông qua tổ chức sinh hoạt ‘Ngày pháp luật’…

Chương 2.

14


THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BẮC TRÀ MY TRONG
THỜI GIAN QUA
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình chung của huyện Bắc Trà My.
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.
Huyện Bắc Trà My là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam; Đông
giáp huyện Núi Thành và tỉnh Quảng Ngãi, Tây giáp huyện Phước Sơn; Nam
giáp huyện Nam Trà My; Bắc giáp các huyện Tiên Phước, Hiệp Đức, cách
tỉnh lỵ TP Tam Kỳ 45 km về phía tây. Diện tích của huyện là 825 km 2. Bắc
Trà My từng là vùng trồng quế nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam. Do có điều
kiện thổ nhưỡng và khí hậu phù hợp: độ cao địa hình khoảng 300 - 600 m nên
biên độ nhiệt giữa ngày và đêm lớn, khí hậu nhiệt đới lại được đèo Hải Vân
chắn hết gió lạnh thổi từ phía Bắc, rất thích hợp với cây quế nên cây quế phát
triển rất tốt ở các xã. Cây quế vùng này có hàm lượng tinh dầu rất cao.
Huyện Bắc Trà My có 13 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Trà My và các
xã: Trà Bui, Trà Đốc, Trà Đông, Trà Dương, Trà Giác, Trà Giang, Trà

Giáp, Trà Ka, Trà Kót, Trà Nú, Trà Sơn, Trà Tân.
2.1.2. Về đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội.
2.1.2.1. Về kinh tế.
Là huyện miền núi nên điều kiện giao thông đi lại còn nhiều khó khăn.
Về điều kiện tự nhiên, tiềm năng để phát triển kinh tế không thuận lợi, đời
sống, thu nhập của nhân dân thấp. Ngành sản xuất chính là nông nghiệp, hầu
hết các xã của huyện Bắc Trà My thuộc vùng sâu, vùng xa, địa hình đèo núi
nên việc canh tác không được thuận lợi, gần 2/3 xã trong huyện thuộc vùng
khó khăn, đất đai cằn cỗi, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, kỹ thuật canh
tác còn nhiều hạn chế. Riêng thị trấn Trà My, xã Trà Đông, Trà Giang, Trà
Dương, Trà Tân thì điều kiện canh tác có thuận lợi hơn, nhưng năng suất lúa
vẫn chỉ ở mức 29 – 31 tạ/ha. Những năm gần đây, do cây quế mất giá, nhân

15


dân chuyển sang đầu tư trồng keo nguyên liệu. Đầu năm 2005 đến nay, nông
dân trong huyện đã tích cực tham gia nhận khoán trồng rừng theo dự án WB3.
Trong những năm qua Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện nhà đã
nổ lực phấn đấu từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, mạnh
dạn đầu tư cơ sở hạ tầng để thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời có các chính
sách hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế. Hiện nay, tại đập thủy điện Sông
Tranh II, một số hộ dân mạnh dạn đầu tư mô hình nuôi cá lồng bè, phục vụ
nhu cầu trong huyện và các vùng lân cận; dựa vào lợi thế tự nhiên để phát
triển một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khác như rượu lúa rẫy, làm
hương trên vùng nguyên liệu quế, sản xuất mộc dân dụng và gỗ mỹ nghệ...
2.1.2.2. Về văn hóa.
Là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, Bắc Trà My có nhiều dân
tộc anh em cùng sinh sống như Kinh, Kor, Kadong, Xê Đăng và một số dân
tộc phía bắc vào làm ăn sinh sống như Tày, Nùng, Mường...nên có nhiều nét

văn hóa dân tộc phong phú, đa dạng. Nét văn hóa truyền thống lâu đời của
hầu hết các đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện là điệu múa cồng chiêng,
đâm trâu ăn mừng các lễ hội lớn trong cộng đồng như ăn mừng lúa mới, đám
cưới...
Chính quyền địa phương luôn có sự quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My.
Nhìn chung, đồng bào các dân tộc ở trên địa bàn huyện vẫn duy trì được các
tập tục truyền thống tiến bộ trong ma chay, cưới hỏi, tết mùa và duy trì phát
triển các hoạt động văn hóa truyền thống như múa cồng chiêng, hát lý, hát đối
đáp.. cũng như duy trì việc sử dụng các nhạc cụ mang bản sắc văn hóa riêng
của từng dân tộc như đàn nước, amáp, bró, katóc…
2.1.2.3. Về xã hội.
Cơ cấu kinh tế đang có sự chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng nông thôn
từng bước được đầu tư đảm bảo chất lượng, khang trang: Trường học, Trạm y
tế, Chợ, Đường giao thông nông thôn, hệ thống điện cao hạ thế, hệ thống

16


nước sinh hoạt… đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được
nâng cao rõ rệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, ổn
định. Đảng bộ chính quyền đoàn kết, thống nhất, hoàn thành tốt nhiệm vụ
kinh tế xã hội.
2.1.2.4. Về xây dựng chính quyền.
Trong công tác quản lý hành chính Nhà nước, thực hiện chính sách đổi
mới Đất nước, những năm qua huyện Bắc Trà My đảm bảo tốt vai trò lãnh
đạo của Đảng, sự phối hợp của UBMT Tổ quốc Việt Nam xã và các ban
ngành đoàn thể, triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng
và Pháp luật của Nhà nước góp phần cho công tác quảnlý Nhà nước ngày một
đi vào nền nếp trên mọi lĩnh vực.

Bộ máy Nhà nước cấp huyện được cũng cố, kiện toàn, cải tiến lề lối làm
việc, năng lực trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao, bộ
máy chính quyền từ huyện đến các xã, thị trấn hoạt động có hiệu quả.
Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện nhìn
chung là tốt, tuyệt đại bộ phận kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ từng bước được củng cố và
nâng cao. Các tổ chức, đoàn thể hoạt động ngày càng đi vào chiều sâu, và có
hiệu quả hơn.
Tuy nhiên trong thời gian qua nền hành chính của huyện còn bộc lộ
nhiều mặt yếu kém như: việc điều hành chính quyền Nhà nước đôi lúc chưa
kịp thời, thiếu chặt chẽ, trình độ năng lực cán bộ chưa đồng đều, trong công
tác và làm việc còn một số bộ phận cán bộ biểu hiện sự quan liêu, thiếu nhiệt
tình, thiếu hoà nhã trong công tác tiếp dân.
2.1.3. Những khó khăn của địa phương.
Những đặc điểm trên, là điều kiện thuận lợi cho huyện Bắc Trà My từng
bước phát triển kinh tế, xã hội. Song, bên cạnh đó còn có nhiều khó khăn, trở
ngại đáng kể, xin nêu lên một vài khó khăn, cụ thể như sau:

17


Thứ nhất: Giá trị thu nhập từ các ngành nghề đạt và vượt kế hoạch đề ra
nhưng phần lớn do lạm phát, trượt giá, giá trị đầu vào tăng kéo theo giá thành
sản phẩm tăng.
Sản phẩm nông nghiệp hết sức bấp bênh tình trạng được mùa mất giá là
nỗi lo của nông dân. Công tác chuyển đổi cây trồng, vật nuôi còn nhiều bị
động, lúng túng. Vì vậy kinh tế nông nghiệp tuy có bước phát triển nhưng
thiếu tính bền vững, sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp, mức
thu nhập từ sản xuất nông nghiệp còn quá thấp do vậy đời sống của đại bộ
phận nhân dân thuần nông vẫn còn khó khăn.

Thứ hai: ý thức học tập, nghiên cứu nghị quyết của một bộ phận đảng
viên chưa cao. Tình trạng mất dân chủ, đoàn kết ở một số đơn vị chậm khắc
phục và xử lý chưa dứt điểm.
Thứ ba: Tình trạng trộm cắp, gây rối đánh nhau, cờ bạc, ma túy làm mất
trật tự trị an vẫn còn xảy ra. Việc tuyên truyền giáo dục pháp luật xã hội chủ
nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được phổ biến rộng rải
trong toàn thể nhân dân, một bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc chấp
hành, gây rối trật tự xã hội ở địa phương.
2.2. Quan điểm, chủ trương, định hướng về công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật XHCN và tăng cường pháp chế XHCN trên địa bàn
huyện.
Quá trình đưa pháp luật XHCN và pháp chế XHCN vào cuộc sống được
bắt đầu bằng hoạt động phổ biến và giáo dục pháp luật, đây là khâu đầu tiên
của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải pháp luật và pháp
chế vào cuộc sống. Vì thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào như tuân thủ
pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật thì
trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Bên cạnh đó việc giáo dục pháp luật
XHCN và pháp chế XHCN còn giúp hình thành ý thức pháp luật trong nhân
dân, tạo lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn trọng pháp luật cho

18


mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật, pháp chế trong
cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật XHCN và
pháp chế XHCN:
- Bảo đảm thực hiện sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, pháp chế theo tinh thần và nội dung
được nêu tại Nghị quyết Đảng bộ huyện năm 2015; tập trung đẩy mạnh và

hướng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, pháp chế về từng xã.
- UBND huyện phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, pháp chế; tăng cường thực hiện chủ trương xã hội hóa trong
việc khuyến khích, tạo điều kiện, huy động sự tham gia, đóng góp của các
thành phần kinh tế, nguồn lực xã hội vào công tác này.
- Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, pháp chế với giáo dục đạo đức,
nâng cao ý thức pháp luật, đạo đức công vụ, trách nhiệm nghề nghiệp cho đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân
dân; thông qua hoạt động thực thi công vụ kết hợp phổ biến, giáo dục pháp
luật, pháp chế cho nhân dân; gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án với việc tuyên truyền, phổ biến các quy
định của pháp luật, pháp chế có liên quan.
- Kế thừa và tiếp tục phát huy các kết quả của công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, pháp chế trong những năm qua; tổng kết thực tiễn để chọn lọc,
nhân rộng những mô hình, cách thức có hiệu quả trong công tác này.
Điều đầu tiên khi tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
XHCN, pháp chế XHCN tại địa bàn huyện là cần phải tìm hiểu tâm lý xã hội,
nhu cầu tiếp cận và học tập pháp luật của người dân địa phương. Hàng năm,
Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, pháp chế huyện đều được kiện toàn do
đồng chí Chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, Phòng Tư pháp làm phó ban,
các thành viên tham gia đầy đủ. Ngay từ đầu năm, dưới sự chỉ đạo của Đảng
ủy - HĐND - UBND, Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật xã kết hợp với

19


Ủy ban MTTQ và các ngành đoàn thể xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật, pháp chế cho từng tháng, quý, năm. Chú trọng tập
trung vào các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết, các Thông tư, Nghị định, Luật
mới ban hành có hiệu lực pháp luật.

2.3. Qúa trình thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên địa bàn
huyện Bắc Trà My.
2.3.1. Bộ máy, chủ trương về công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị số: 02/1998/CT-TTG; Quyết
định số: 03/1998/QĐ-TTg ngày 07.01.1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế trong tình
hình mới, trong những năm qua tình hình công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục Pháp luật, tăng cường pháp chế trên địa bàn xã có những chuyển biến và
phát triển đáng kể và trở thành hoạt động thường xuyên, chủ động tích cực
với sự tham gia đông đảo của đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang
và các tầng lớp nhân dân.
Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương được thực hiện
thông qua phòng tư pháp phối hợp với ban tuyên giáo và các tổ chức đoàn thể,
đề ra các chủ trương thực hiện:
Hằng năm trong nghị quyết của Đảng bộ, HĐND huyện và kế hoạch
công tác của UBND huyện đều có nội dung chỉ đạo công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xác định rõ mục
đích, yêu cầu đó là:
- Nâng cao nhận thức về phát luật cho mọi tầng lớp nhân dân, phát huy
trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật.

20


- Tập trung vào tuyên truyền, phổ biến pháp luật, pháp lệnh, các văn bản
dưới luật do các cơ quan ở TW và địa phương ban hành nhằm phục vụ có hiệu
quả cho nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

- Gắn công tác phổ biến giáo dục pháp luật với công tác giáo dục chính
trị-tư tưởng, văn hoá, truyền thống.
- Thực hiện thường xuyên, liên tục công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật với những nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền phù hợp với
đối tượng, từng địa bàn.
2.3.2. Các hoạt động.
Để công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa đạt hiệu quả cao cần củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công
tác phổ biến giáo dục pháp luật bằng cách định kỳ, tổ chức các lớp bồi dưỡng
lý luận chính trị, nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật.
Thường xuyên đổi mới các hình thức, biện pháp phổ biến giáo dục pháp
luật. Triển khai trên diện rộng những hình thức mới đang pháp huy hiệu quả
trên thực tế. Tăng cường giới thiệu các quy định của pháp luật thông qua hình
thức tuyên truyền miệng tối tận thôn xóm như trao đổi, đối thoại, thảo luận,
giải đáp những yêu cầu từ phía người dân nhằm nâng cao tính chủ động trong
việc tiếp nhận kiến thức pháp luật. Nâng cao chất lượng dạy và học pháp luật
ở nhà trường. Đồng thời tích cực huy động sức mạnh và lợi thế sẵn có của các
phương tiện thông tin đại chúng, pháp huy vai trò của hoạt động hoà giải ở cơ
sở trong tuyên truyền giáo dục pháp luật. Tăng cường giáo dục pháp luật trợ
giúp pháp lý cho các thôn xóm giao thông đi lại khó khăn, thường xảy ra vấn
đề làm mất trật tự an toàn xã hội.
2.3.3. Kết quả.
Trong hai năm qua, toàn huyện đã tổ chức các đợt tuyên truyền miệng có
các bộ luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết cho cán bộ và nhân dân. Đáng
chú ý là:

21


- Đã tổ chức tập huấn nội dung các văn bản pháp luật được quốc hội

thông qua như: Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức chính phủ; Bộ Luật hình
sự 2015, Tố tụng hình sự 2015; Bộ luật dân sự, Tố tụng dân sự 2015; Luật trẻ
em; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật hộ tịch; Luật Hôn nhân
gia đình; Luật báo chí... được triển khai đến cán bộ công chức trong toàn
huyện và nhân dân ở địa phương.
- Công tác tuyên truyền giáo dục Pháp luật trong nhân dân được triển
khai thường xuyên đến tận thôn, tổ dân cư, xã còn phát huy vai trò, chức
năng của đài truyền thanh trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, đưa tin
đài giới thiệu nội dung chủ yếu của văn bản luật, phản ánh những cá nhân,
đơn vị thực hiện tốt pháp luật, phê phán kịp thời những trường hợp vi phạm
pháp luật. Trong năm 2017, ngay sau khi UBND huyện ban hành kế hoạch
thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật năm 2017, Phòng Tư
pháp (cơ quan thường trực) Tham mưu Hội đồng phối hợp PBGDPL huyện tổ
chức quán triệt, phổ biến các văn bản luật như: Luật trẻ em, Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hộ tịch, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ
Luật Dân sự và Luật báo chí năm 2017 cho cán bộ công chức, viên chức,
người lao động các cơ quan, ban, ngành huyện và cán bộ, nhân dân tại 9/13
xã, thị trấn với hơn 986 lượt người tham dự. Phối hợp Ủy ban MTTQVN
huyện, Phòng Dân tộc huyện triển khai Kế hoạch liên tịch thực hiện Đề án
‘‘Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số’’ giai đoạn 2015-2025 trên địa bàn huyện Bắc Trà My. Tổ
chức 02 đợt đối thoại chính sách, pháp luật theo quy định của Luật tổ chức
chính quyền địa phương để lắng nghe phản ánh, kiến nghị của nhân dân.
UBND các xã như: xã Trà Giang tổ chức hội thi tìm hiểu về Luật trẻ em, xã
Trà Dương tổ chức hội thi tìm hiểu về Luật giao thong đường bộ, xã Trà Nú tổ
chức hội thi tuyên truyền về sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh trên
địa bàn xã. Tổ chức sơ kết công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
6 tháng đầu năm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2017.

22



Tuyên truyền 10 tin bài trên Cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp. Tiến hành rà
soát và củng cố đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, chỉ đạo, hướng dẫn các xã,
thị trấn củng cố kiện toàn đội ngũ Tuyên truyền viên pháp luật. UBND các xã,
thị trấn phối hợp với các ban ngành ở xã tổ chức nhiều đợt tuyên truyền
xuống tận thôn, khu dân cư. Trong năm, các xã đã tổ chức được 69 buổi, có
trên 7678 lượt người tham dự. Tổ chức cuộc thi viết “Tìm hiểu pháp luật về
tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng năm 2017 cho
toàn thể cán bộ, những người hoạt động không chuyên trách, công chức cấp
xã, cán bộ thôn, tổ dân phố của 13 xã, thị trấn. Có hơn 800 bài dự thi nộp về
huyện. Ban Tổ chức cuộc thi đã tổ chức tổng kết, trao giải và công nhận 05 cá
nhân, 05 tập thể đạt giải trong cuộc thi.
- Công tác tuyên truyền thông qua các hội diễn nghệ thuật quần chúng,
các hình thức toạ đàm dân chủ dân cư, các hội thi của các đoàn thể, kiến thức
pháp luật cũng được lồng ghép phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân.
- Bên cạnh đó, hoạt động của ban hoà giải ở từng xã cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc giáo dục pháp luật, qua đó tăng cường khối đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, giữ vững trật tự ở thôn xóm, góp phần xây dựng ý thức
pháp luật, giáo dục mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
- Trong năm 2017 tình tình ANCT-TTATXH trên địa bàn được giữ vững
và ổn định. Công an huyện đã tổ chức xây dựng và cũng cố mạng lưới an ninh
nhân dân đảm bảo số lượng, chất lượng. Mặt khác phối hợp với các ngành,
Mặt trận và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền giáo dục Pháp luật trong nhân
dân, nhờ vậy việc đấu tranh phòng chống tội phạm được triển khai thực hiện
có hiệu quả ngăn chặn xử lý kịp thời không để xảy ra điểm nóng trên địa bàn
huyện. Năm 2017 xảy ra 271 vụ vi phạm trên các lĩnh vực. Trong đó: xác lập
hồ sơ 101 vụ vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, gổm: khai thác
rừng trái phép 05 vụ, vận chuyển lâm sản trái phép 12 vụ, cất giữ lâm sản trái
phép 60 vụ, phá rừng 24 vụ; trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và chất lượng

hàng hóa: 104 vụ; trong lĩnh vục trật tự trị an: 64 vụ; tai nạn giao thông: xảy

23


ra 20 vụ làm 02 người chết, bị thương 21 người, 16 xe mô tô bị hư hỏng nhẹ,
ước tính thiệt hại khoảng 9.500.000đ; 01 vụ cháy xe khách, thiệt hại: 01 xe
khách bị hư hỏng hoàn toàn (ước tính thiệt hại khoảng 1,5 tỷ đồng). Tệ nạn
ma túy trên địa bàn huyện có chiều hướng gia tăng, hiện có 60 đối tượng
nghiện, trong đó Công an có hồ sơ quản lý đối với 60 đối tượng nghiện. Trong
năm đã lập hồ sơ trình Hội đồng tư vấn huyện đưa 01 đối tượng đi cai nghiện
bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động tỉnh.
Tình hình thông tin tội phạm phát sinh trong năm 2017 xảy ra là 40 vụ,
tăng 5,26 % so với cùng kỳ năm 2016 (năm 2016 là 38 vụ). Tình hình tội
phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng nhất là loại tội
trộm cắp tài sản (14 vụ) và các tội vi phạm về quản lý, bảo vệ rừng, tăng so
với năm 2016 (09/6).
Các vụ việc vi phạm pháp luật xảy ra được phát hiện và đưa ra xét xử
theo đúng quy định của pháp luật, qua công tác xét xử đã có tác dụng giáo dục
người phạm tội, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa, góp phần tích cực vào
việc đấu tranh phòng chống tội phạm giữ vững an ninh trật tự địa phương.
- Về tổ chức các hoạt động nhân Ngày Pháp luật Nước CHXHCN Việt
Nam năm 2015 (09/11/2015): Tổ chức tuyên truyền, tư vấn pháp luật nhằm
hưởng ứng “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” năm
2017 tại 13 xã, thị trấn. Các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn huyện
treo băng rôn tuyên truyền “Ngày Pháp luật”
- Về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật theo các lĩnh vực chuyên
ngành của các cơ quan ban ngành, địa phương ở huyện: Phòng Y tế tổ chức
triển khai các văn bản mới của cấp trên thông qua các đợt kiểm tra về vệ sinh an
toàn thực phẩm cho những cơ sở chế biến kinh doanh an toàn thực phẩm và các

trường bán trú trên địa bàn huyện; các văn bản về Y dược tư nhân và Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế với hơn 150 người dự; Phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện triển khai tuyên truyền Luật Đất đai 2013,
Luật Khoáng sản 2010, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các nghị định,

24


thông tư, văn bản hướng dẫn thi hành luật cho 158 tổ chức, doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn các xã Trà Sơn, Trà Tân, Trà Giang, Thị
trấn Trà My và gần 70 cán bộ chủ chốt tại 13 xã, thị trấn và cấp 230 bộ tài
liệu; Phối hợp Trung tâm Văn hóa thông tin- Thể thao huyện treo hơn 20 câu
băng rôn, pano, khẩu hiệu tại các tuyến đường chính trên địa bàn trung tâm thị
trấn, các xã trong các ngày hưởng ứng về môi trường và Đài phát thanh
truyền hình huyện duy trì chuyên mục Tài nguyên- Môi trường phát sóng định
kỳ 02 lần/tuần nhằm vận động, giáo dục cán bộ và nhân dân nâng cao nhận
thức của cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện. Phòng Lao động Thương
binh và Xã hội huyện tuyên truyền trên Đài Truyền thanh - truyền hình huyện
về các bản tin của ngành Lao động Thương binh và Xã hội huyện như lĩnh
vực bảo trợ xã hội, người có công, bảo hiểm y tế, an toàn lao động, việc làm,..
Phòng Văn hóa Thông tin huyện hướng dẫn tuyên truyền các văn bản luật có
liên quan đến các lĩnh vực như an toàn giao thông, phòng chống ma túy, tệ
nạn xã hội, hôn nhân gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, bảo vệ quyền
trẻ em, bảo vệ môi trường. Đội Kiểm tra Liên ngành huyện tổ chức 12 đợt ra
quân kiểm tra hoạt động kinh doanh Internet, trò chơi điện tử; kiểm tra các
dịch vụ văn hóa trên địa bàn. Qua đó lồng ghép nhắc nhở, tuyên truyền các
chủ hộ kinh doanh hoạt động tuân thủ đúng pháp luật quy định. Thanh tra
huyện: Tổ chức lớp tập huấn công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết
khiếu nại, tố cáo, phản ánh kiến nghị với số lượng 148 người tham gia. Hội
Liên hiệp phụ nữ huyện: Quyết định thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án

343 về “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Đề án 704 về “Giáo
dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt” giai đoạn 2016-2021. Đồng thời tổ chức
mở 01 lớp truyền thông tại huyện cho 120 chị là CT, PCT, UVBTV, UVBCH,
lực lượng nòng cốt, HVPN tham gia. Cấp cơ sở tuyên truyền đến CB, HVPN
có con dưới 16 tuổi với chủ đề “ Giáo dục trẻ vị thành niên”, kiến thức nuôi
dạy con, chăm sóc sức khỏe sinh sản”, đề án 343 tuyên truyền phẩm chất đạo

25


×