Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

TIỂU LUẬN: Quản lý ngân sách trên địa bàn tỉnh ở Thái Bình - Thực trạng và giải pháp pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.8 KB, 75 trang )








TIỂU LUẬN:

Quản lý ngân sách trên địa bàn
tỉnh ở Thái Bình - Thực trạng
và giải pháp







Lời mở đầu

1- Trong những năm qua cùng với sự đổi mới và phát triển kinh tế xã hội, công
tác tài chính ngân sách cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Luật Ngân sách nhà nước
ban hành năm 1996, đã khẳng định vai trò quan trọng của công tác tài chính, ngân
sách trong tình hình hiện nay. Đặc biệt Luật ngân sách nhà nước đã khẳng định ngân
sách xã là cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước. Qua hơn 4 năm thi hành
luật, công tác quản lý tài chính ngân sách đã đạt được những kết quả nhất định, đóng
góp quan trọng vào công tác quản lý hoạt động kinh tế - xã hội của chính quyền cơ sở
xã, phường, thị trấn.
Cùng với Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành
các văn bản hướng dẫn tạo nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn công


tác quản lý tài chính ngân sách xã tương đối hoàn chỉnh. Hệ thống văn bản ban hành
đã xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong công tác quản
lý tài chính ngân sách xã, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý chặt chẽ, và sử dụng
có hiệu quả mọi khoản thu, chi và các khoản huy động đóng góp của nhân dân, tăng
cường trách nhiệm kiểm tra giám sát của các ngành các cấp, nâng cao vai trò vị trí của
công tác tài chính ngân sách xã. Tuy nhiên để có được hệ thống cơ chế quản lý mang
lại hiệu quả cao, phải thường xuyên nghiên cứu, điều chỉnh sửa đối cho phù hợp.
Thực tế công tác tài chính ngân sách xã ở Thái Bình những năm qua bên cạnh
những thành tựu đạt được đã bộc lộ nhiều tồn tại thiếu sót, trong quản lý, điều hành,
phân công trách nhiệm ở tất cả các khâu lập, chấp hành và kế toán, quyết toán ngân
sách. Đặc biệt đã bộc lộ nhiều khó khăn trong việc xây dựng ngân sách xã ổn định,
cân đối tích cực, vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trước sự phát triển của kinh tế, xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, yêu cầu mới về quản lý kinh tế, mở rộng
quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm của cấp chính quyền cơ sở, việc củng cố và
tăng cường công tác tài chính ngân sách xã đặt ra nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
công tác tài chính ngân sách hiện nay, nhằm xây dựng ngân sách xã thực sự là cấp


ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách nhà nước, ngang tầm, đủ lực để phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã phường vững mạnh theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX.
Với mục tiêu trên việc nghiên cứu phân tích tình hình thực tiễn công tác ngân
sách xã ở Thái Bình, để chỉ ra những tồn tại thiếu sót, thấy rõ những vấn đề bức xúc
trong công tác quản lý cần giải quyết, từ đó có những giải pháp đối với xây dựng và
phát triển ngân sách xã ở Thái Bình hiện nay rất cần được sự quan tâm của các cấp,
các ngành trong Tỉnh.
Là cán bộ công tác trong ngành Tài chính, trước bức xúc đó tôi chọn đề tài
"Quản lý ngân sách trên địa bàn tỉnh ở Thái Bình - Thực trạng và giải pháp".
2- Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu ở góc độ quản lý ngân sách xã. Phạm vi

nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Thái Bình
3- Đề tài được lựa chọn nghiên cứu nhằm tăng cường quản lý ngân sách xã ở
địa bàn tỉnh nông thôn.
Phù hợp với mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chính sau
đây:
- Làm rõ thêm nội dung cơ bản của ngân sách xã và quản lý ngân sách xã
- Phân tích thực trạng quản lý ngân sách xã ở Thái Bình
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý ngân sách xã ở Thái
Bình.
4- Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu thích ứng với tính chất quản lý
ngân sách xã. Trong đó chú trọng phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử; thống
kê, phân tích, so sánh, tổng hợp
5- Kết cấu đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được chia thành 3 chương

Trước đòi hỏi bức xúc của công tác tài chính ngân sách xã ở Thái Bình, rất
mong được sự quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ của Thầy giáo và nhà trường để đề tài


được hoàn thiện, có được những giải pháp hữu hiệu, đưa công tác quản lý Tài chính
ngân sách xã vào nề nếp, xây dựng ngân sách xã ở Thái Bình đủ mạnh để góp phần
củng cố chính quyền cơ sở, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.



Chương 1
Ngân sách xã và một số nội dung cơ bản
về quản lý ngân sách xã


1.1. Sự ra đời, tồn tại và quá trình phát triển Ngân sách xã
1.1.1. Quá trình hình thành Ngân sách xã
Lịch sử phát triển của nước ta cũng như các nước trên thế giới đều có quỹ xã,
nay gọi là Ngân sách xã. Mặc dù trong quá trình hình thành và cơ chế quản lý có sự
khác nhau nhưng đều xem ngân sách xã là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống
tài chính quốc gia. Đến nay ngân sách xã của dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm
lịch sử và gắn liền với nhiều triều đại khác nhau như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
Nguyễn cho đến ngày nay. Tuy mỗi thời kỳ Xã có tên gọi khác nhau nhưng chức
năng, nhiệm vụ ít có sự thay đổi, ngân sách xã phục vụ cho bộ máy chính quyền Nhà
nước cấp xã thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là: Quản lý nhân khẩu, ruộng đất, thu tô, thu thuế, thu phen tạp dịch.
Hai là: Giữ gìn trị an, phép nước.
Ba là: Chăm lo lợi ích công cộng, đê điều, tưới tiêu đồng ruộng, đường xá, cứu
tế xã hội
Công tác quản lý tài chính ngân sách xã ở thời kỳ nào cũng được coi trọng, có
chức năng, chức danh, nhiệm vụ và kỷ luật tài chính cụ thể như: Xã trưởng thời nhà
Lê, xã quan thời nhà Trần Đến thời nhà Nguyễn, chính quyền thực dân pháp quy
định chức sắc 3 kỳ khác nhau, ở Bắc kỳ là tiên chỉ, Trung kỳ là hương bản, Nam kỳ là
hương bộ, nhưng đều phụ trách công tác tài chính và có Hội đồng kỳ mục (Bắc kỳ);
Đại hội đồng kỳ mục (Nam kỳ); Thường trực hội đồng kỳ mục (Trung kỳ) có nhiệm vụ
lập ngân sách xã.
Thời kỳ nào kỷ luật tài chính ngân sách xã cũng được coi trọng và có chế độ
quản lý, quy định quy mô ngân sách cụ thể. Thời nhà Lê quy định quy mô ngân sách
xã đối với xã lớn 50 quan, xã vừa 30 quan, xã nhỏ 20 quan. Chế độ quản lý quỹ và


tiền mặt quy định xã chỉ được giữ lại 30 quan để chi tiêu thường xuyên, số dư phải gửi
vào nhà giàu cất giữ.
Trải qua quá trình phát triển với những thăng trầm của lịch sử, gắn với các triều

đại thịnh, suy khác nhau, đến nay Ngân sách xã thực sự trở thành công cụ, phương
tiện vật chất bằng tiền có tác dụng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước. Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 64/CP, ngày
08/04/1972, ban hành Điều lệ ngân sách xã, từ đó ngân sách xã thực sự được quản lý
theo luật lệ thống nhất của Nhà nước. Sự phân cấp rõ ràng trong quản lý thu chi cho
xã đã tạo điều kiện cho ngân sách xã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của mình trong
việc huy động nguồn lực tài chính để trang trải các khoản chi tiêu cho sự nghiệp giải
phóng miền nam thống nhất đất nước.
Sau giải phóng, thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội
ở nông thôn, ngân sách xã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc xây dựng
nông thôn mới. Năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết 138-HĐBT đã
tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của ngân sách xã. Từ đây ngân sách xã chính thức
được thừa nhận là một cấp ngân sách của chính quyền cơ sở. Đến năm 1996 khi Luật
Ngân sách nhà nước được ban hành thì ngân sách xã chính thức được thừa nhận là
cấp ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách Nhà nước.
1.1.2. Khái niệm - Đặc điểm ngân sách xã
Trong điều kiện ngày nay việc thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của ngân sách
xã được coi là điều tất yếu. Chính vì vậy, trong cơ cấu tổ chức hệ thống ngân sách nhà
nước ở hầu hết các quốc gia đều có ngân sách xã (hoặc vùng); song quan niệm về
ngân sách xã lại chưa có sự đồng nhất. Ngay ở nước ta, trong khuôn khổ các văn bản
pháp quy về ngân sách xã cũng đã có sự khác nhau.
Điều lệ ngân sách xã ban hành (ngày 08/04/1972) ghi ngân sách xã là kế hoạch
thu chi tài chính của chính quyền cấp xã, để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, giữ
vững an ninh, trật tự trị an, bảo đảm tài sản công cộng, quản lí mọi hoạt động kinh tế,


văn hoá, xã hội trong xã, động viên giám sát các hợp tác xã và công dân thi hành
nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo thông tư 14 -TC/NSNN ngày 08/03/1997 của Bộ tài chính về hướng dẫn
quản lý thu, chi ngân sách xã, phường, thị trấn (Sau đây gọi chung là ngân sách xã) thì

ngân sách cấp xã là một bộ phận của ngân sách Nhà nước do Uỷ ban nhân dân cấp xã
xây dựng, quản lý và Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định, giám sát thực hiện. Chính
vì vậy, đòi hỏi phải có một khái niệm về ngân sách xã một cách đầy đủ, thống nhất
làm cơ sở cho việc xác định các yêu cầu, nhiệm vụ của ngân sách xã sau này.

Do vậy, ngân sách xã được định nghĩa như sau: Ngân sách xã là toàn bộ các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện
các chức năng của nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ được phân công quản lý.
Từ góc độ quản lý, theo Luật ngân sách nhà nước thì ngân sách xã là một cấp
ngân sách nằm trong hệ thống ngân sách nhà nước, do vậy khái niệm về ngân sách nhà
nước đã hàm chứa khái niệm về ngân sách xã và được hiểu như sau: Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm về ngân sách xã như sau:
Thứ nhất: Ngân sách xã là một quỹ tập trung của cơ quan chính quyền Nhà
nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Huy động
nguồn thu vào quỹ (gọi là thu ngân sách xã ) và phân phối sử dụng nguồn vốn của quỹ
( gọi là chi ngân sách xã ).
Thứ hai: Các hoạt động thu, chi của ngân sách xã luôn gắn với chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền xã theo luật định, đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp xã. Chính vì vậy các chỉ tiêu thu chi của ngân
sách xã luôn mang tính pháp lý.


Thứ ba: Thông qua các hoạt động thu, chi của ngân sách xã là biểu hiện các
quan hệ lợi ích giữa một bên là lợi ích chung của cộng đồng các cơ sở mà chính quyền
xã là người đại diện với một bên là lợi ích của các chủ thể kinh tế xã hội khác (tổ chức
hoặc cá nhân). Các quan hệ này phát sinh trong cả quá trình thu và chi ngân sách xã.

Thứ tư: Các quan hệ thu - chi ngân sách xã rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhưng các khoản thu - chi này chỉ được thừa nhận khi được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm: Ngân sách xã vừa là một cấp trong hệ thống Ngân sách nhà nước vừa
là một đơn vị dự toán. Bởi vì ngân sách xã vừa thực hiện nhiệm vụ thu chi của một
cấp ngân sách nói chung (mặc dù nguồn thu và nhiệm vụ chi là rất nhỏ bé) vừa là đơn
vị nhận bổ sung từ ngân sách cấp trên và được sử dụng luôn nguồn vốn đó. Với đặc
thù là đơn vị hành chính cấp cơ sở có mối liên hệ trực tiếp với dân, do dân, vì dân,
giải quyết các mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân, cho nên đây là đơn vị hành
chính giúp Nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ trực tiếp tới mọi người dân.
1.1.3. Nội dung nguồn thu và nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã
Nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được hình thành dựa trên cơ sở
khả năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm
vụ về quản lý kinh tế - xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp đảm
nhiệm. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế, xã hội với
phân cấp quản lý tài chính- ngân sách. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã
hội và sự phân cấp quản lý ngân sách xã mà trong từng thời kỳ cụ thể nguồn thu và
nhiệm vụ chi có những thay đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
quốc gia.
Trong điều kiện hiện nay kể từ khi thực hiện luật ngân sách Nhà nước, nguồn
thu, nhiệm vụ chi, của ngân sách được quy định cụ thể tại điều 34 và 35 của luật và
các văn bản pháp quy khác hướng dẫn thi hành luật. Cụ thể theo luật sửa đổi bổ sung
một số điều của luật ngân sách Nhà nước thông qua ngày 20/05/1998 và căn cứ vào


thông tư 118/2000/TT- BTC ngày 22/12/.2000 quy định về quản lý ngân sách xã và
các hoạt động tài chính khác ở xã, phường, thị trấn quy định như sau:
1.1.3.1. Nguồn thu của Ngân sách xã
+ Các khoản thu mà ngân sách xã được hưởng 100%
- Thuế môn bài thu từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4 đến bậc 6 kể cả số

thu khoán (không áp dụng đối với phường).
- Các khoản phí, lệ phí quy định thu vào ngân sách xã.
- Chênh lệch thu lớn hơn chi từ các hoạt động sự nghiệp có thu của xã.
- Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích 5% và hoa lợi công
sản do xã quản lý.
- Các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: Các khoản đóng góp theo
pháp luật quy định, các khoản đóng góp trên nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng do Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào ngân sách xã quản lý
(không áp dụng đối với phường khoản thu huy động đóng góp để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng) và các khoản đóng góp tự nguyện khác.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở ngoài nước trực tiếp cho
ngân sách xã.
- Thu kết dư ngân sách xã năm trước.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) với ngân sách cấp trên
gồm:
- Thuế Sử dụng đất nông nghiệp (tối thiểu để lại cho xã 20%)
- Thuế Chuyển quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Thuế Nhà đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Tiền cấp quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng đối với xã, thị trấn)


- Thuế Tài nguyên.
- Lệ phí trước bạ nhà đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài
lá, hàng mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát sa, ka ra ô kê, kinh
doanh chơi gôn, ca si nô, trò chơi bằng máy Giắc-Pốt, kinh doanh vé đặt cược đua
ngựa, đua xe.
- Các khoản thu phân chia khác: Tuỳ theo tình hình địa phương Tỉnh có thể
phân chia cho xã các khoản thu phân chia mà trung ương để lại cho địa phương.

Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cụ thể các nguồn thu cho ngân sách xã do Uỷ
ban nhân dân Tỉnh quy định, được ổn định từ 3- 5 năm phù hợp với tình hình ngân
sách của địa phương. Để giảm bớt khối lượng nghiệp vụ, khuyến khích tăng thu; có
thể giao chung cho các xã cùng một tỷ lệ. Việc phân chia nguồn thu và tỷ lệ phần trăm
(%) các nguồn thu cho ngân sách cấp xã được tuân thủ theo nguyên tắc tạo chủ động
cho chính quyền xã trong việc cân đối ngân sách, khai thác khả năng nguồn thu tại xã.
+ Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên
- Thu bổ sung cân đối ngân sách được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa dự
toán chi được giao và dự toán từ các nguồn thu được phân cấp ( các khoản thu 100%
và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm ). Số bổ sung này được ổn định từ 3
đến 5 năm, hàng năm được tăng thêm một số phần trăm trên cơ sở trượt giá, tốc độ
tăng trưởng kinh tế và khả năng ngân sách của địa phương.
- Thu bổ sung có mục tiêu (nếu có) tuỳ theo khả năng ngân sách và các nhiệm
vụ mục tiêu được giao.
Ngoài các khoản thu trên, chính quyền xã không được đặt ra các khoản thu trái
với quy định của pháp luật.
1.1.3. 2. Nhiệm vụ chi của ngân sách xã
* Chi thường xuyên về:
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước xã, phường, thị trấn, bao gồm:


- Sinh hoạt phí theo mức quy định hiện hành
- Sinh hoạt phí đại biểu Hội đồng nhân dân
- Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước
- Chi về phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh
- Công tác phí
- Chi về hoạt động văn phòng như: Tiền nhà, điện nước, điện thắp sáng, vật liệu
văn phòng, bưu phí, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết
- Chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc.
- Chi khác.

+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng Cộng sản
Việt Nam của xã, phường, thị trấn sau khi đã trừ đi khoản thu đảng phí theo điều lệ và
các khoản thu khác của Đảng (nếu có).
+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị- xã
hội của xã, phường, thị trấn (Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam). Sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác
(nếu có).
+ Đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ và các đối tượng khác theo
chế độ hiện hành.
+ Công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội
- Huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và
các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã, phường,
thị trấn theo quy định của pháp lệnh về dân quân tự vệ;
- Đăng ký nghĩa vụ quân sự, tiễn đưa thanh niên đi nghĩa vụ quân sự
- Tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn.


- Các khoản chi khác.
+ Công tác xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao do xã,
phường, thị trấn quản lý.
- Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ nghỉ việc theo chế độ hiện hành, chi thăm hỏi
các gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác do xã, phường, thị trấn
quản lý.
- Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, truyền thanh do xã, phường,
thị trấn tổ chức, quản lý.
+ Hỗ trợ các lớp bổ túc văn hoá, trợ cấp nhà trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp
cho giáo viên mẫu giáo và cô nuôi dạy trẻ do xã, thị trấn quản lý (đối với phường do
ngân sách cấp trên chi)

+ Sự nghiệp y tế:
- Mua sắm, trang bị hoặc bổ sung đồ dùng chuyên môn phục vụ khám chữa
bệnh.
- Phòng bệnh và sự nghiệp y tế khác.
+ Quản lý sửa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ
sở do xã, thị trấn quản lý như: Trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn
hoá, thư viện, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao, cầu, đường giao thông, công
trình cấp và thoát nước công cộng, riêng đối với thị trấn còn có nhiệm vụ chi quản
lý, sửa chữa cải tạo vỉa hè, đường phố nội thị, đèn chiếu sáng, công viên, cây xanh
+ Hỗ trợ các hoạt động sự nghiệp có thu.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
* Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội theo sự phân cấp của Tỉnh từ nguồn ngân sách và nguồn huy động đóng góp
trên nguyên tắc tự nguyện của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định.


1.1.4. Vị trí, vai trò của ngân sách xã, phường, thị trấn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn hiện nay.
Việc đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước làm thay đổi căn bản vai trò của
Ngân sách nhà nước. Cũng như Ngân sách nhà nước, ngân sách cấp xã có vai trò rất
quan trọng, cấp xã là tổ chức chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý Nhà nước có
chức năng, nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của Nhà nước cơ sở, Nhà nước do dân, vì
dân, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
đó chính quyền cấp xã phải có nguồn tài chính đủ mạnh để góp phần thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế- xã hội tại cơ sở. Qua hoạt động thu- chi của ngân sách xã đã thể hiện
vai trò cụ thể của Ngân sách cấp xã như sau:
1.1.4.1. Ngân sách xã đảm bảo nguồn lực vật chất cho sự tồn tại và hoạt động
của bộ máy chính quyền Nhà nước cấp xã
Trong quá trình phát triển của xã hội, từ khi Nhà nước ra đời đòi hỏi phải có

nguồn lực vật chất nhất định để bộ máy hoạt động và thực hiện các chức năng kinh tế,
xã hội do cộng đồng giao phó. Nguồn lực vật chất này chỉ có thể được đảm bảo từ
ngân sách Nhà nước. Ngân sách cấp xã là bộ phận cấu thành nên Ngân sách Nhà
nước, do vậy nguồn lực vật chất để cung cấp cho bộ máy chính quyền cấp cơ sở
phần lớn phải do Ngân sách cấp cơ sở đảm nhận đó là ngân sách cấp xã. Để đảm bảo
nguồn lực vật chất này cung cấp cho toàn bộ các hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng và đảm bảo đời sống của nhân dân, Ngân sách xã phải khai thác triệt để
các nguồn thu tại xã theo luật định. Đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu cho các công việc thuộc chức năng nhiệm vụ theo quy định của luật Ngân
sách Nhà nước như: Chi lương, sinh hoạt phí cho các cán bộ xã, các khoản chi tiêu
quản lý hành chính hay mua sắm trang thiết bị cho văn phòng
1.1.4.2. Ngân sách xã là công cụ quan trọng để chính quyền cấp xã thực hiện
quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội tại địa phương


Với tư cách là cấp chính quyền cấp cơ sở gắn liền với đời sống nhân dân và
thực hiện quản lý trực tiếp đối với nhân dân, do vậy chức năng và nhiệm vụ của ngân
sách xã là phải luôn đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân trên địa bàn. Trực tiếp
liên hệ và giải quyết các công việc của dân trên mọi phương diện theo chính sách chế
độ của Nhà nước quy định nhằm đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Để giải quyết được các vấn đề trên có hiệu quả, chính quyền xã phải sử dụng một
trong những công cụ đặc biệt, đó là ngân sách xã. Thông qua hoạt động thu ngân sách
xã mà các nguồn thu được tạo lập tập trung vào quỹ ngân sách xã, đồng thời giúp
chính quyền cơ sở thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động sản
xuất kinh doanh dịch vụ và các hoạt động khác theo pháp luật nhà nước. Việc kiểm
soát thông qua ngân sách xã được thể hiện qua việc phân loại các ngành, nghề kinh
doanh, các chủng loại hàng hoá mà qua đó chống các hoạt động kinh tế phi pháp,
trốn lậu thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác. Cụ thể: Với các hình thức thu phù hợp,
với chế độ miễn giảm công bằng, ngân sách xã một mặt tác động trực tiếp đến quá
trình sản xuất kinh doanh ở cơ sở, bởi đây là đối tượng tác động chủ yếu đến thu ngân

sách xã. Việc thực hiện phân chia giữa các khoản thu nhập là vấn đề quyết định xu
hướng ngành nghề kinh doanh, qua đó kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ phát triển theo đúng định hướng. Mặt khác thu ngân sách xã còn góp phần
thực hiện các chính sách xã hội như: bảo đảm công bằng giữa những người có nghĩa
vụ đóng góp ngân sách xã, có sự trợ giúp cho những đối tượng nộp ngân sách, khi gặp
khó khăn về tài chính hoặc diện cần được ưu đãi theo chính sách của nhà nước thông
qua xét duyệt miễn giảm số thu Ngoài ra việc thực hiện đúng các phương thức và
các mức thu phạt đối với các tổ chức và cá nhân vi phạm, đã được coi như là một biện
pháp kinh tế buộc họ phải nghiêm chỉnh chấp hành tốt nghĩa vụ của mình trước cộng
đồng.
Thông qua chi ngân sách xã các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể
chính trị, xã hội ở xã được duy trì phát triển liên tục và ổn định, nhờ đó mà nâng cao
hiệu lực quản lý cơ sở.


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường bên cạnh những
mặt tích cực thì vẫn tồn tại những mặt trái của nó, thông qua hoạt động thu- chi, ngân
sách xã đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục khuyết tật đó bằng việc tạo ra
một môi trường kinh doanh thuận lợi, cho các chủ thể kinh tế, ngăn chặn sự độc quyền
trong kinh doanh, định hướng tiêu dùng xã hội, hướng xã hội tới các hoạt động phát
triển lành mạnh, hạn chế các tiêu cực và các tai, tệ nạn xã hội.
Với phương trâm " Nhà nước và nhân dân cùng làm" ngân sách xã đã cùng
nhân dân giải quyết tốt các vấn đề về cơ sở hạ tầng " Điện, đường, trường, trạm, thông
tin và nước sạch". Hầu hết các xã đều được trang bị những trạm biến thế lớn Đáp ứng
được nhu cầu điện phục vụ cho thắp sáng và cho sản xuất kinh doanh, đến nay hầu hết
các xã đã có điện thắp sáng đến từng thôn xóm, nhiều xã có điện thoại, góp phần quan
trọng thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó ngân
sách xã ưu tiên đầu tư nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông liên thôn, liên
xã làm cho hệ thống giao thông được thông suốt, giao lưu hàng hoá thuận lợi, qua đó
khai thác tiềm năng và lợi thế của từng vùng thúc đẩy xoá bỏ phương thức sản xuất cũ,

chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp phân công lại lao động trên địa bàn nông thôn, từng
bước thực hiện công nghiệp hoá, tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật vào từng làng xã
giúp kinh tế nông thôn thoát khỏi tình trạng độc canh, độc cư, chuyển từ nền kinh tế
thuần nông từng bước chuyển sang nền kinh tế tổng hợp Nông- Công- Thương phù
hợp với đặc điểm địa phương, và quy luật của thị trường.
Chi ngân sách xã, phường, thị trấn cho sự nghiệp giáo dục và sự nghiệp y tế đã
góp phần vào việc nâng cao trình độ dân trí, đảm bảo sức khoẻ nhân dân, các xã không
ngừng nâng cấp và xây dựng mới các công trình cho giáo dục và y tế đảm bảo điều
kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và khám chữa bệnh, giúp người dân yên tâm khi
tham gia phát triển sản xuất kinh doanh tại cơ sở. Từng bước xây dựng nông thôn mới
theo đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Từ phân tích trên cho thấy ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng của nhà
nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ở địa phương.


Từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn và rút ngắn sự cách biệt giữa thành thị và nông
thôn, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong cả nước.
1.2. Quy trình quản lý ngân sách xã
Căn cứ Luật ngân sách Nhà nước ( từ điều 42 đến điều 71) và thông tư
118/2000/TT-BTC ngày 22/12/2000 quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt
động tài chính khác ở xã, phường, thị trấn, quy trình quản lý ngân sách xã như sau:
1.2.1. Quản lý khâu lập dự toán ngân sách xã
Lập dự toán ngân sách xã là quá trình phân tích đánh giá giữa khả năng và
nhu cầu các nguồn tài chính của ngân sách xã để từ đó xác lập các chỉ tiêu thu- chi dự
kiến có thể đạt được trong kỳ kế hoạch, xác lập các biện pháp chủ yếu về kinh tế tài
chính và hành chính để đảm bảo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu thu- chi. Lập dự toán
ngân sách xã là khâu mở đầu cho một chu trình ngân sách làm cơ sở, nền tảng cho các
khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách cho nên khi lập dự toán phải đảm
bảo các yêu cầu sau:
- Lập dự toán phải bám sát kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội tại xã.

- Phải tính toán đầy đủ và chính xác các khoản thu theo đúng chế độ quy định.
- Bố trí hợp lý các nhu cầu chi tiêu đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
chính quyền cấp xã đồng thời góp phần xây dựng nông thôn phát triển.
- Dự toán phải lập theo đúng mục lục ngân sách và mẫu biểu quy định của Bộ
tài chính.
+ Căn cứ lập dự toán:
- Chế độ phân cấp về nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách xã.
- Chế độ quy định về thu ngân sách
- Chế độ, tiêu chuẩn định mức về chi ngân sách xã
- Các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã
- Số kiểm tra về dự toán ngân sách xã do cấp trên thông báo.


- Tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã năm hiện hành.
+ Trình tự lập dự toán ngân sách xã:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách xã 6 tháng đầu năm và dự
kiến khả năng ngân sách cả năm.
- Các bộ phận thuộc Uỷ ban nhân dân xã, tổ chức Đảng và đoàn thể căn cứ vào
chức năng, nhiệm vụ được giao và chế độ, định mức, tiêu chuẩn, lập dự toán nhu cầu
chi ngân sách.
- Ban tài chính xã phối hợp với đội thuế xã (nếu có) tính toán các khoản thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn.
- Ban tài chính xã tính toán, cân đối, lập dự toán thu, chi ngân sách xã trình Uỷ
ban nhân dân xã báo cáo chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã để xem xét
trước khi gửi Uỷ ban nhân dân huyện và phòng tài chính huyện.
- Căn cứ vào quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của Huyện, thị xã,
Uỷ ban nhân dân xã lập dự toán chi tiết trình Hội đồng nhân dân xã quyết định.
1.2.2. Quản lý khâu chấp hành dự toán ngân sách xã
Chấp hành dự toán ngân sách xã là khâu tiếp theo của một chu trình ngân sách,
là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm

hiện thực các chỉ tiêu thu chi ghi trong dự toán ngân sách được duyệt. Để quản lý khâu
chấp hành dự toán ngân sách cần tiến hành quản lý tốt các nội dung sau:
* Quản lý quá trình thu
- Ban tài chính xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế giám sát, kiểm tra
các nguồn thu đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời nộp vào ngân sách Nhà nước.
Riêng khoản thu từ quỹ đất công ích 5% và hoa lợi công sản là nguồn thu thường
xuyên của ngân sách xã, vì vậy không được khoán thầu thu một lần cho nhiều năm.
Trường hợp cần thiết có thể thu cho một số năm nhưng chỉ trong nhiệm kỳ của Hội
đồng nhân dân.


- Khuyến khích các đối tượng thu nộp ngân sách trực tiếp tại kho bạc Nhà
nước, trường hợp đối tượng phải nộp ngân sách không có điều kiện nộp tiền trực tiếp
vào ngân sách tại Kho bạc Nhà nước, thì các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của cơ
quan nào cơ quan đó thu sau đó viết giấy nộp tiền mang tới Kho bạc Nhà nước để nộp
vào ngân sách Nhà nước.
- Nghiêm cấm thu không có biên lai, thu để ngoài sổ sách.
- Trường hợp phải hoàn trả khoản thu ngân sách xã, Kho bạc Nhà nước xác
nhận rõ số tiền đã thu vào ngân sách xã để ban tài chính xã làm căn cứ thoái thu cho
đối tượng được hoàn trả.
- Chứng từ thu phải được luân chuyển theo đúng quy định.
- Đối với số thu bổ sung của ngân sách xã, phòng tài chính huyện, thị xã căn
cứ vào dự toán bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu chi từng quý và khả năng cân
đối ngân sách huyện, thị xã thông báo và cấp bổ sung ngân sách hàng quý cho xã chủ
động điều hành ngân sách.
* Quản lý quá trình chi
+ Nguyên tắc chi:
- Việc thực hiện chi phải đảm bảo điều kiện: Đã được ghi trong dự toán, đúng
chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định, được chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã hoặc người
được uỷ quyền chuẩn chi.

- Cấp phát ngân sách xã chỉ dùng hình thức lệnh chi tiền. Trường hợp thanh
toán bằng tiền mặt phải kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt, Kho bạc Nhà nước kiểm
tra, đủ điều kiện thì thực hiện thanh toán.
- Trong trường hợp thật cần thiết như tạm ứng công tác phí, ứng tiền trước cho
khách hàng, cho nhà thầu theo hợp đồng, chuẩn bị hội nghị, tiếp khách, mua sắm nhỏ
được tạm ứng ngân sách để chi khi có đủ chứng từ hợp lệ, Ban tài chính xã phải lập
bảng kê chứng từ chi và giấy đề nghị thanh toán tạm ứng gửi Kho bạc Nhà nước nơi


giao dịch làm thủ tục chuyển tạm ứng sang thực chi ngân sách.

- Các khoản thanh toán từ ngân sách xã qua Kho bạc Nhà nước cho các đối
tượng có tài khoản giao dịch ở Kho bạc Nhà nước hoặc ở ngân hàng phải được thực
hiện bằng hình thức chuyển khoản.
- Đối với các khoản chi từ các nguồn thu được giữ lại tại xã, Ban tài chính xã
phối hợp với Kho bạc Nhà nước định kỳ kiểm tra, làm thủ tục ghi thu- ghi chi để
quản lý qua ngân sách xã.
+ Đối với chi thường xuyên:
- Ưu tiên chi trả sinh hoạt phí, các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, không để nợ
sinh hoạt phí và các khoản phụ cấp.
- Các khoản chi thường xuyên khác phải căn cứ vào dự toán năm, tình hình tổ
chức thực hiện công việc, khả năng của ngân sách xã tại thời điểm để thực hiện chi
cho phù hợp.
+ Đối với chi đầu tư phát triển:
- Việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách xã thực hiện theo quy
định của nhà nước và phân cấp của Tỉnh.
- Đối với dự án đầu tư bằng nguồn đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện của
nhân dân, phải mở sổ theo dõi và phản ánh đầy đủ, kịp thời quá trình thu nộp và sử
sụng mọi khoản đóng góp bằng tiền, ngày công lao động, hiện vật của nhân dân. Quá
trình thi công, nghiệm thu và thanh toán phải có sự giám sát của Ban giám sát dự án

do nhân dân cử. Kết quả đầu tư và quyết toán dự án phải được thông báo công khai
cho nhân dân biết.
1.2.3. Quản lý khâu quyết toán Ngân sách xã
Quyết toán ngân sách xã là khâu cuối cùng của chu trình ngân sách. Đó là việc
tổng kết lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách năm, nhằm đánh giá lại toàn bộ kết
quả hoạt động của một năm ngân sách, từ đó rút ra những ưu, nhược điểm và bài học


kinh nghiệm cho những chu trình ngân sách tiếp theo. Do vậy quản lý khâu quyết toán
ngân sách cần làm những công việc sau:
- Ban tài chính xã lập báo cáo quyết toán thu- chi ngân sách xã hàng năm trình
Uỷ ban nhân dân xã xem xét để trình Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn, đồng thời gửi
Phòng tài chính huyện, thị xã để tổng hợp. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho
Phòng tài chính huyện, thị xã chậm nhất ngày 15/2 năm sau. - Quyết toán chi ngân
sách xã không được lớn hơn quyết toán thu ngân sách xã, kết dư ngân sách xã là số
chênh lệch lớn hơn giữa số thực thu và số thực chi ngân sách xã. Toàn bộ kết dư được
chuyển vào thu ngân sách năm sau.
- Báo cáo quyết toán được phê duyệt lập thành 5 bản để gửi Hội đồng nhân
dân xã, Uỷ ban nhân dân xã, Phòng tài chính huyện, thị xã, lưu Ban tài chính xã và
thông báo công khai nơi công cộng cho nhân dân trong xã biết. - Phòng
tài chính huyện, thị xã có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu- chi ngân sách
xã; trường hợp có sai sót phải báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã yêu cầu Hội
đồng nhân dân xã điều chỉnh.





Chương 2
Thực trạng công tác quản lý ngân sách xã ở Thái Bình

và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã

2.1. Vài nét về đặc điểm, tình hình kinh tế-xã hội ở Thái Bình
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên
Thái Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Nam
Định, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên và Thành phố Hải
Phòng. Với 49,25 km bờ biển cùng hệ thống giao thông thuỷ bộ đi Nam Định, Hưng
Yên, Hải Phòng, Hải Dương đã tạo thành mạch máu giao thông thuận lợi cho phát
triển kinh tế, giao lưu của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá
giữa các đơn vị kinh tế trong tỉnh với tỉnh bạn và giao lưu quốc tế trong cơ chế thị
trường.
Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 154.224 ha, trong đó diện tích đất nông
nghiệp là 96.567 ha, đất canh tác là 94.300 ha, còn lại là đất thổ cư và sử dụng cho
mục đích khác. Tổng dân số trong tỉnh là 1.814.500 người, trong đó có 1.697.000
người dân sống ở nông thôn. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã, tổng số đơn vị hành chính
cơ sở là 285, trong đó có 272 xã, 6 phường và 7 thị trấn. Thái Bình có lực lượng lao
động dồi dào trên 1.060 ngàn người, phần lớn đều có trình độ văn hoá và có kinh
nghiệm trong sản xuất. Sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên cùng với nguồn nhân lực dồi
dào làm phong phú thêm tiềm năng, thế mạnh cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh nói chung và cho ngân sách nói riêng.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế
Thái Bình là một tỉnh chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống nhân dân còn
thấp so với các tỉnh trong khu vực. Trong những năm gần đây cùng với sự đi lên của
nền kinh tế đất nước, nền kinh tế Thái Bình cũng có nhiều chuyển biến tích cực.
+ Về nông nghiệp


Với đặc thù là một tỉnh thuần nông, trong phương hướng phát triển kinh tế, nông
nghiệp luôn được xác định là mặt trận hàng đầu. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tập
trung chỉ đạo triển khai nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,

mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng
ruộng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng-vật nuôi và tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp
có sự tăng trưởng mạnh và liên tục cả về năng suất, chất lượng. Với phương châm
mạnh dạn đầu tư thâm canh tăng vụ và áp dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp
nên năng suất không ngừng tăng lên, đến nay năng xuất lúa toàn tỉnh đạt trên 12
tấn/ha, nhiều xã đạt trên 13 tấn/ha, nhiều năm liền Thái Bình giữ vững sản lượng
lương thực trên một triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thay đổi theo hướng chuyển
dần sang sản xuất hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu. Đời sống nông dân không ngừng
được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng thay đổi rõ rệt.
- Năm 1990 lương thực bình quân 460 kg/người
- Năm 1996 lương thực bình quân 553 kg/người
- Năm 1999 lương thực bình quân 579 kg/người
- Năm 2001 lương thực bình quân 595 kg/người.
Ngành trồng trọt phát triển đã tạo điều kiện cho chăn nuôi cũng phát triển, số
lượng đàn trâu-bò và đàn lợn không ngừng tăng lên qua các năm. Đàn lợn tăng nhanh
từ 402.100 con năm 1996 lên 776.000 con năm 2001, đàn bò tăng từ 29.160 con năm
1996 lên 40.263 con năm 2001. Chất lượng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi cũng
được quan tâm, các sản phẩm như Lợn hướng nạc, gà công nghiệp, cá lồng, vịt thịt, vịt
lấy trứng, ngỗng, con đặc sản không ngừng tăng lên, thu nhập của người dân ngày
càng tăng cao.
Trong những năm gần đây Thái Bình đã xác định kinh tế biển là mũi nhọn, là
hướng đột phá trong phát triển kinh tế, do vậy đã có nhiều chính sách hỗ trợ đẩy mạnh
nuôi trồng và đánh bắt hải sản, tăng nhanh xuất khẩu hải sản thu ngoại tệ, mở ra một
hướng đi đúng, giầu tiềm năng cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
+ Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp


Ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong tỉnh rất đa dạng và phong
phú với tổng số 108 doanh nghiệp Nhà nước, cùng 39 ngành nghề khác nhau đã hình
thành nhiều làng nghề, nằm rải rác ở các địa phương như: Tơ tằm, dệt vải, thêu ren ở

Hưng Hà, Vũ Thư; Chạm bạc, làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu ở Kiến Xương; dệt chiếu
và làm cói ở Tiền Hải, Quỳnh Phụ đã thu hút số lượng lớn lao động nông nhàn sau
thời vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân. Nhìn chung
các ngành phát triển tương đối đồng đều ở mọi thành phần kinh tế, việc chuyển đổi cơ
cấu, mở rộng đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm đã đạt kết quả khá, thị trường
được mở rộng, chính sách phát triển nghề và làng nghề được triển khai có tác dụng
khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, yên tâm sản xuất. Các khu công
nghiệp ở Thị xã, Tiền Hải, Diêm Điền được hình thành nhằm đẩy mạnh sự thu hút đầu
tư và tạo đà phát triển cho những năm sau. Một số ngành tăng mạnh như: Sản xuất vật
liệu xây dựng, dệt may, chế biến lương thực-thực phẩm đưa giá trị sản xuất ngành
công nghiệp năm 2001 đạt 1.635,7 tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2000. Trong đó khu
vực quốc doanh tăng 16,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 12%.
Tuy nhiên là một tỉnh thuần nông nên công nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên
thị trường, đặc biệt là công nghiệp mũi nhọn chưa có, việc mở rộng quy mô sản xuất
tiến hành còn chậm, các nhà đầu tư nước ngoài cũng còn rất dè dặt khi đầu tư vào tỉnh,
sản phẩm làm ra sức cạnh tranh chưa cao, chưa có thị phần cả trong nước và trên thế
giới, khả năng tích luỹ kém, sự tác động ảnh hưởng tới lĩnh vực nông nghiệp rất hạn
chế.
2.1.3. Đặc điểm về văn hoá-xã hội
Là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, có nền văn minh lúa nước lâu đời, có
điều kiện thuận lợi về tự nhiên, xã hội cho giao lưu và phát triển văn hoá, do vậy nền
văn hoá trong tỉnh rất đa dạng và phong phú. Cùng với việc khơi dậy, bảo tồn các giá
trị văn hoá truyền thống, trong những năm gần đây một số thiết chế và nhiều giá trị
văn hoá mới hiện đại đã được xây dựng.


Hệ thống giáo dục đào tạo ngày càng được hoàn thiện, gần 100% các cháu
trong độ tuổi đi học đều được đến trường, các trường phổ thông đã được tăng cường
về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, không còn tình trạng học ba ca, số học
sinh tốt nghiệp các cấp đạt bình quân 99% hàng năm, đội ngũ giáo viên được quan

tâm, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của ngành và nâng cao chất lượng
giảng dạy
Công tác y tế có nhiều tiến bộ, chất lượng khám và chữa bệnh không ngừng
được cải thiện, nâng cao. Cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh được tăng cường
thường xuyên từ tỉnh đến cơ sở, nhờ đó mà từng bước đáp ứng được nhu cầu khám
chữa bệnh của nhân dân. Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống dịch
bệnh được quan tâm và đạt kết quả tốt, nhiều năm không có bệnh dịch lớn xẩy ra.
Thái Bình là một tỉnh giầu truyền thống văn hoá, với kết quả đạt được những
năm vừa qua đã tạo ra đời sống tính thần vui tươi lành mạnh trong nhân dân, các
phong trào trong sản xuất, xây dựng nếp sống văn hoá từ các gia đình đến làng xã tiếp
tục được nhân rộng, đã khơi dậy, phát huy động lực to lớn, góp phần đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng nông thôn mới.
2.1.4. Khái quát cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngân sách xã ở Thái Bình
+ Sở Tài chính-Vật giá Thái Bình là đơn vị quản lý nhà nước của tỉnh, có
nhiệm vụ tham mưu cho Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh triển khai
thực hiện pháp luật, chính sách chế độ của Nhà nước về quản lý tài chính ngân sách
của tỉnh trên địa bàn. Phối hợp với các ngành, các cơ quan tài chính Nhà nước ở địa
phương thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực hiện sự chỉ đạo chuyên
môn nghiệp vụ trong ngành tài chính. Với những nhiệm vụ khái quát trên, năm 1995
Sở Tài chính-Vật giá Thái Bình thành lập thêm phòng quản lý ngân sách xã bố trí 8
cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm làm công tác quản lý ngân
sách nói chung và ngân sách xã nói riêng.


+ Phòng tài chính kế hoạch ở các huyện và Thị xã đều thành lập tổ theo dõi
quản lý ngân sách xã, mỗi tổ có từ ba đến năm người có trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm về quản lý ngân sách xã.
+ ở xã phường, thị trấn được thành lập ban Tài chính gồm một trưởng ban và từ
một đến hai kế toán. Đội ngũ cán bộ tài chính xã thường xuyên được bồi dưỡng nâng
cao trình độ nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới, đến nay có tới 90% cán bộ kế toán xã

có trình độ từ trung cấp Tài chính kế toán trở lên.
Nhìn chung hoạt động của bộ máy quản lý ngân sách xã ở Thái Bình trong
những năm gần đây có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng, hiệu quả công tác
cao, đáp ứng được yêu cầu về quản lý tài chính, ngân sách trong tình hình mới, góp
phần quan trọng vào việc xây dựng ngân sách xã thành cấp ngân sách hoàn chỉnh
trong hệ thống ngân sách nhà nước.
2.2. Tình hình quản lý thu- chi ngân sách xã qua các năm 1999-2001 Sau
5 năm triển khai thi hành Luật Ngân sách Nhà nước và 4 năm thực hiện củng cố, tăng
cường công tác quản lý tài chính ngân sách xã, theo tinh thần nghị quyết số 06 của
Tỉnh uỷ Thái Bình; tuy gặp nhiều khó khăn nhưng tình hình quản lý ngân sách xã ở
Thái Bình đã đạt được những thành tựu nhất định. Nhờ cơ chế khoán thu- khoán chi
các xã đã chủ động khai thác, phát huy thế mạnh trong công tác quản lý ngân sách xã,
hạn chế tình trạng trông chờ ỷ lại cấp trên. Ngân sách xã phối hợp cùng ngân sách các
cấp về cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần làm thay
đổi bộ mặt nông thôn trong tỉnh.
Để thấy được những thành tựu đã đạt được và những hạn chế trong quản lý thu-
chi ngân sách xã ở Thái Bình, tìm ra những nguyên nhân tác động đến tình hình đó
nhằm đưa ra những giải pháp tăng cường công tác quản lý ngân sách xã trong điều
kiện của tỉnh hiện nay, cần phải đi sâu phân tích tình hình quản lý ngân sách xã trong
những năm vừa qua.
2.2.1. Về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách

×