Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại nguyễn văn đẩu thị xã từ sơn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.94 KB, 62 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------

TRẦN HỮU TRƢỜNG
Tên chuyên đề:
ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƢỠNG VÀ ĐIỀU TRỊ
MỘT SỐ BỆNH THƢỜNG GẶP TRÊN ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN NUÔI
TẠI TRẠI NGUYỄN VĂN ĐẨU, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:Chính quy
Chuyên ngành:Chăn nuôi Thú y
Khoa:Chăn nuôi Thú y
Khóa học:2013 - 2017

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------

TRẦN HỮU TRƢỜNG
Tên chuyên đề
ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƢỠNG VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT
SỐ BỆNH THƢỜNG GẶP TRÊN ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN NUÔI TẠI
TRẠI NGUYỄN VĂN ĐẨU, THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo:Chính quy
Chuyên ngành:Chăn nuôi Thú y
Lớp:K45 - Chăn nuôi Thú y
Khoa:Chăn nuôi Thú y
Khóa học:2013 - 2017
Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Dƣơng Thị Hồng Duyên

Thái Nguyên, năm 2017


i
LỜI CẢM ƠN
Qua 5 năm học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, được sự chỉ bảo và giảng dậy nhiệt tình của quý thầy cô, đặc biệt là
quý thầy cô khoa Chăn nuôi Thú y đã truyền đạt cho em những kiến thức về
lý thuyết và thực hành trong suốt thời gian học tại trường. Và trong thời gian
thực tập tại trang trại của bác Nguyễn Văn Đẩu (Phường Đồng Nguyên - Thị
Xã Từ Sơn - Tỉnh Bắc Ninh) em đã có cơ hội áp dụng những kiến thức học ở
trường vào thực tế ở trang trại, đồng thời học hỏi được nhiều kinh nghiệm
thực tế tại trang trại. Cùng với sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp của mình.
Từ những kết quả đạt được này, em xin chân thành cảm ơn:
Quý thầy cô Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, đã truyền đạt
cho em những kiến thức bổ ích trong thời gian qua. Đặc biệt là cô Dương Thị
Hồng Duyên – Giảng viên bộ môn Dược lý - VSATTP, khoa chăn nuôi Thú
Y, Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo để em
hoàn thành bài luận văn này.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các bác, cô, chú và anh
chị trong trang trại Bắc Đẩu (phường Đồng Nguyên – thị xã Từ Sơn - tỉnh

Bắc Ninh) đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, những người
thân yêu luôn động viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường cũng
như trong quá trình thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Trần Hữu Trƣờng


ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Chỉ tiêu đạt được của trại trong 3 năm gần đây(2015 – 2017) ......... 5
Bảng 2.2. Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung.............................................. 21
Bảng 3.1. Một số phác đồ điều trị của bệnh thường gặp ................................ 35
Bảng 4.1. Quy mô tại trại chăn nuôi Bắc Đẩu ................................................ 36
Bảng 4.2. Lịch sát trùng trại lợn nái................................................................ 37
Bảng 4.3. Quy định khối lượng thức ăn chuồng bầu ...................................... 38
Bảng 4.4. Quy định khối lượng thức ăn với lợn nái ....................................... 39
Bảng 4.5. Lịch phòng bệnh bằng vaccine cho đàn lợn ................................... 40
Bảng 4.6. Lịch phòng bệnh bằng thuốc cho đàn lợn....................................... 41
Bảng 4.7. Kết quả điều tra tình hình mắc một số bệnh ở lợn nái, lợn con ..... 42
Bảng 4.8. Hiệu quả điều trị một số bệnh thường gặp ở lợn nái sinh sản và lợn con 46
Bảng 4.9. Kết quả sử dụng vaccine phòng bệnh cho lợn con và lợn nái ........ 47
Bảng 4.10. Một số công tác phục vụ sản xuất khác ........................................ 48


iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT


CP

: Charoen Pokphand

Cs

: Cộng sự

E. coli

: Escherichia coli

FSH

: Folliculo Stimulin hormone

LH

: Lutein hormone

MMA

: Mastitis Metritis Agalactia
(Hội chứng viêm vú, viêm tử cung và mất sữa)

Nxb

: Nhà xuất bản


PGF 2α

: Prostaglandin F 2α

S. choleraesuis

: Shalmonella enteria choleraesuis

S. typhysuis

: Salmonella typhysuis


iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ............................................ iii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
Phần 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
1.2. Mục đích của đề tài ................................................................................ 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài................................................................................... 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
2.1. Điều kiện cở sở nơi thực tập .................................................................. 3
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập ........................ 3
2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở ...................................... 4
2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong ngoài nước có
liên quan đến nội dung của đề tài .................................................................. 6
2.2.1.Cơ sở khoa học ..................................................................................... 6

2.2.2. Một số bệnh ở lợn nái ....................................................................... 13
2.3. Những kết quả nghiên cứu trong ngoài nước có liên quan đến đề tài . 28
2.3.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước .................................................. 28
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .................................................. 31
Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP TIẾN HÀNH33
3.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................... 33
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 33
3.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu .................................................... 33
3.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 33
3.3. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện.................................. 33
3.3.1. Các chỉ tiêu theo dõi.......................................................................... 33


v
3.3.2. Phương pháp theo dõi (hoặc thu thập thông tin)............................... 34
3.3.2.4. Xác định hiệu quả của phác đồ điều trị đối với một số bệnh ......... 34
3.3.3. Phương pháp xử lí số liệu ................................................................. 35
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 36
4.1. Quy mô, cơ cấu đàn lợn của trại .......................................................... 36
4.2. Kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái ................................................ 36
4.3. Kết quả phòng trị một số bệnh thường gặp.......................................... 42
4.4. Kết quả phục vụ sản xuất ..................................................................... 46
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 49
5.1. Kết luận ................................................................................................ 49
5.2. Đề nghị ................................................................................................. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 51


1


Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở Việt Nam. Đến
nay phong trào nuôi lợn thịt hướng nạc đã và đang phát triển mạnh mẽ theo
hình thức trang trại ở nhiều địa phương, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
người chăn nuôi và trở thành 1 nghành chăn nuôi chính chiếm tỉ trọng cao
trong cơ cấu chăn nuôi hiện nay.
Để năng suất chăn nuôi được nâng cao người chăn nuôi đã ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Tuy nhiên, để đạt được
hiệu quả cao thì bên cạnh việc đảm bảo các tiêu chuẩn về thức ăn, chuồng trại,
kĩ thuật chăn nuôi… Thì đàn giống tốt là tạo tiền đề cho các quy trình chăm
sóc nuôi dưỡng đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn nhất
của chăn nuôi lợn nái sinh sản là dịch bệnh còn xảy ra phổ biến gây nhiều thiệt
hại cho đàn lợn nái nuôi trong các trang trại cũng như nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia
đình. Đối với lợn nái nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp cho nên tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ngày càng nhiều hơn do khả năng thích
nghi của đàn lợn nái với điều kiện ngoại cảnh nước ta còn kém. Mặt khác trong
quá trình sinh đẻ lợn nái dễ bị nhiễm các vi khuẩn như Streptococcus, E. coli…
Xâm nhập và gây nhiễm trùng và dễ mắc các bệnh như viêm tử cung, viêm
phổi, đây là các loại bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của lợn
mẹ. Bệnh tuy không xảy ra ồ ạt nhưng gây thiệt hại lớn cho lợn nái, nghiêm
trọng hơn bệnh vẫn âm thầm làm hạn chế khả năng sinh sản của đàn lợn nái ở
các lứa tiếp theo, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của toàn
ngành chăn nuôi lợn. Với mục đích góp phần năng cao khả năng sinh sản của
đàn lợn, nâng cao hiệu quả của điều trị bệnh. Vì vậy em đã tiến hành thực hiện
chuyên đề: “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị một số bệnh
thường gặp tại trại Nguyễn Văn Đẩu, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh”



2
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái ngoại
nuôi theo mô hình trang trại tại trại Nguyễn Văn Đẩu, phường Đồng Nguyên,
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra một số phác đồ điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái ngoại.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về bệnh viêm tử cung ở
lợn. Là cơ sở khoa học cho công tác phòng và điều trị bệnh, góp phần nâng
cao năng suất chăn nuôi lợn nói chung.


3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Điều kiện cở sở nơi thực tập
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập
Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Văn Đẩu nằm trên một cánh đồng
rộng, các xa khu dân cư, thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong
những trang trại có quy mô lớn. Trang trại có tổng diện tích khoảng hơn 5 ha là
khu chăn nuôi tập trung cùng các công trình phụ. Được thành lập và đi vào sản
xuất từ năm 1997 với số vốn đầu tư lên tới gần 30 tỷ đồng, trang trại chuyên
nuôi lợn sinh sản do Công ty Cổ phần thức ăn chăn nuôi GreenFeed Việt Nam
cung cấp 3 giống lợn Landrace, Yorkshire và Duroc. Khu sản xuất gồm 8
chuồng đẻ, 2 chuồng bầu, 3 chuồng cách ly nuôi 1.200 lợn nái, 20 lợn đực,120
lợn hậu bị. Lợn sau khi sinh 19 đến 23 ngày thì được xuất chuồng. Mỗi năm
trang trại cho xuất ra thị trường khoảng 10.000 - 15.000 con lợn giống.
Trang trại áp dụng quy trình nuôi lợn theo kỹ thuật cao từ khâu chọn
giống đến kỹ thuật chăn nuôi. Khu sản xuất được phân ra nhiều phân khu
chuồng trại liên hoàn nhau để nuôi lợn theo từng giai đoạn riêng và áp dụng

chế độ dinh dưỡng phù hợp cho từng loại lợn và thời gian mang thai. Thức ăn
cho mỗi loại lợn cũng có chế độ dinh dưỡng khác nhau. Lợn được nuôi trong
chuồng kín có hệ thống quạt thông gió, hệ thống giàn mát và sưởi ấm đủ yêu
cầu về nhiệt độ.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và nhân viên của trại gồm 1 quản lí, 1 kỹ sư
chính, 2 tổ trưởng và 24 công nhân phụ trách, trang trại đã góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động trong vùng còn nhiều khó khăn này. Với việc
chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, các biện pháp phòng chống dịch bệnh
cho đàn vật nuôi của trại được thực hiện chủ động và tích cực. Kỹ sư của trại
đã chủ động tổ chức tiêm phòng đầy đủ cho đàn lợn. Mỗi con lợn đều có một


4
hồ sơ riêng cho việc phối tinh, đẻ, xuất chuồng, nhập chuồng… Chính xác tới
từng ngày. Để phòng tránh dịch bệnh, khu chuồng nuôi được quản lý nghiêm
ngặt. Mọi nhân viên trong trại cho đến khách, muốn vào chuồng lợn đều phải
đi qua hệ thống sát trùng, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo và đi ủng chuyên dụng.
Trong các chuồng lợn, ngày vài lần, công nhân làm vệ sinh cũng như phun
thuốc sát trùng xuống nền chuồng. Xung quanh trạng trại được trồng cây xanh
để tạo môi trường tự nhiên thông thoáng cho lợn sinh trưởng và phát triển tốt
nhất. Hàng ngày, toàn bộ lượng phân mà đàn lợn thải ra đều được đóng bao,
chuyển ra khu tập trung cách xa khu sản xuất và bán lại cho nhân dân trồng rau
màu xung quanh vùng. Nguồn nước thải rửa chuồng được thu gom và xử lý tại
các khu dành riêng cho chất thải.
2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở
2.1.2.1. Đối tượng sản xuất
Trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản gồm 3 giống bố mẹ chính 3 giống
lợn là Landrace, Yorkshire và Duroc, lợn con sinh được lai từ 3 giống trên.
Lợn sau khi sinh 19 - 23 ngày thì được xuất chuồng.
2.1.2.2. Kết quả sản xuất của cơ sở trong những năm gần đây

Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Văn Đẩu là một trong những trang
trại có quy mô lớn. Với số vốn đầu tư lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất, trại luôn đạt kết quả sản xuất cao. Dưới đây là một số chỉ tiêu mà trại
đã đạt được trong 3 năm gần đây:


5
Bảng 2.1. Chỉ tiêu đạt đƣợc của trại trong 3 năm gần đây(2015 – 2017)
Số lợn
Chỉ tiêu

Nái hậu bị (con)
Nái được phối (con)
Tỷ lệ đậu thai (%)
Tổng số lợn con sinh ra (con)
Tổng số lợn con sinh sống (con)

Năm

Năm

Năm 2017

2015

2016

(6 tháng đầu năm)

340


360

209

3201

3253

1638

89,32

91,32

91,25

32.823

34.103

17.159

30.764

31.964

16.083

1.544


1.604

807

28.220

30.360

16.276

Số lợn con chết, loại sau sinh
(con)
Số lợn con cai sữa (con)

Qua bảng trên ta có thể thấy, kết quả sản xuất của trại tăng lên theo từng
năm: số heo nái hậu bị từ năm 2015 là 340 nái, tới năm 2016 tăng lên 360 nái.
Tỷ lệ phối đậu thai từ 89,32% (năm 2015) tăng lên 91,25% (năm 2017). Số heo
con sinh ra, sống tới lúc cai sữa tăng lên, từ năm 2015 là 28.220 con tới năm
2016 là 30.360 con. Để đạt được những kết quả như trên, ngoài việc áp dụng
khoa học kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên có tay
nghề cao… Trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về vệ sinh thú y,
với phương châm “phòng dịch hơn dập dịch”. Trang trại chăn nuôi của ông
Nguyễn Văn Đẩu là một trong những trang trại sử dụng cám của công ty
GreenFeed có kết quả chăn nuôi khá tốt.


6
2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong ngoài nƣớc có
liên quan đến nội dung của đề tài

2.2.1.Cơ sở khoa học
2.2.1.1. Cấu tạo giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục cái
Theo Đặng Quang Nam (2002) [7], cơ quan sinh dục cái có các bộ phận
sau:
- Buồng trứng (Ovarium): gồm một đôi (dài 1,5 - 2,5cm, khối lượng 3 -5
gam) nằm trước cửa xoang chậu, ứng với vùng đốt sống hông 3 - 4. Bề mặt
buồng trứng có nhiều u nổi lên.
Buồng trứng được bọc ở ngoài bởi màng liên kết sợi chắc, bên trong
chia làm 2 phần, cả 2 phần đều phát triển một thứ mô liên kết sợi xốp tạo nên
một loạt chất đệm. Dưới lớp màng liên kết của buồng trứng có nhiều tế bào
trứng non phát triển dần thành nang trứng nguyên thủy, sau đó phát triển thành
nang trứng sơ cấp và cuối cùng phát triển thành bao noãn chín. Dưới tác dụng
của kích tố đặc biệt là kích tố sinh dục tuyến yên, trứng chín sẽ rụng.
Như vậy, buồng trứng có 2 chức năng là sản sinh ra tế bào trứng và tiết
ra hormone sinh dục có ảnh hưởng tới tính biệt, tới chức năng tử cung (đặc tính
thứ cấp của con cái).
- Ống dẫn trứng (Oviductus): ống dẫn trứng dài 15 - 20cm, uốn khúc
nằm ở cạnh trước dây chằng rộng. Ống dẫn trứng bắt đầu ở bên cạnh buồng
trứng đến đầu tử cung và được chia làm 2 phần: Phần trước tự do có hình phễu
loe ra gọi là loa vòi (loa kèn) có tác dụng hứng tế bào trứng chín rụng, phần sau
thon nhỏ có đường kính dài 0,2 - 0,3cm nối với sừng tử cung.
Cấu tạo ống dẫn trứng xếp từ ngoài vào trong gồm có: màng tương mạc
đến từ dây chằng rộng, lớp cơ (2 lớp: cơ vòng ở trong, cơ dọc ở ngoài),lớp
niêm mạc trong cùng có nhiều gấp nếp chạy dọc và không có tuyến.


7
- Tử cung (Uterus): tử cung là nơi cung cấp dinh dưỡng và phát triển của
thai. Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bóng đái.
Tử cung gồm 3 phần: sừng, thân, cổ tử cung. Sừng tử cung dài ngoằn

ngoèo như ruột non, dài 30 - 50cm, có dây chằng rộng rất dài nên khi thiến có
thể kéo sừng tử cung ra ngoài được. Thân tử cung ngắn, niêm mạc thân và
sừng tử cung là những gấp nếp nhăn nheo theo chiều dọc. Thai làm tổ ở sừng
tử cung. Cổ tử cung không có gấp nếp hoa nở mà là những cột thịt xen kẽ cài
răng lược với nhau.
Cấu tạo tử cung xếp từ ngoài vào trong có: tương mạc được nối với dây
chằng rộng, lớp cơ rất phát triển (dày, khỏe, có cấu tạo phức tạp phù hợp với
chức năng chứa thai phát triển và đẩy thai khi đẻ. Cơ dọc ở ngoài, cơ vòng ở
trong và phát triển mạnh ở cổ tử cung tạo thành cơ thắt), lớp niêm mạc trong
cùng màu hồng nhạt có nhiều gấp nếp với nhiều tuyến tiết chất nhờn.
- Âm đạo (Vagina): âm đạo là đoạn nối tiếp sau cổ tử cung, trước âm hộ.
Đây là nơi tiếp nhận dương vật khi giao phối, phía trên là trực tràng, phía dưới
là bóng đái, nó được ngăn cách với âm hộ bởi màng trinh.
Cấu tạo: lớp ngoài là tương mạc phủ phần trước âm đạo. Lớp giữa là lớp
cơ trơn xếp theo các chiều khác nhau dính lẫn lộn với tổ chức liên kết bọc
ngoài. Lớp niêm mạc có nhiều gấp nếp nhăn nheo theo chiều dọc, trong đó
có nhiều chất nhờn. Âm đạo có khả năng co giãn rất lớn và là đường đi ra
của thai.
- Âm hộ (Vulva): đây là đoạn sau cùng của bộ máy sinh dục cái, sau âm
đạo và ngăn cách âm đạo bởi màng trinh. Âm hộ nằm dưới hậu môn và được
thông ra ngoài bởi một khe thẳng đứng gọi là âm môn. Trong âm hộ còn có lỗ
thông với bóng đái, tuyến tiền đình (Bartholin) và khí quan cương cứng gọi là
âm vật (Clitoris).


8
Âm môn là một khe thẳng đứng dưới hậu môn, có 2 môi nối với nhau
bởi 2 mép. Môi lớn ở ngoài dày trùm lấy môi nhỏ ở trong. Mép trên hơi nhọn,
mép dưới rộng bao quanh âm vật. Mép trên và dưới được bao bởi lớp da mỏng
mịn, phía dưới mép dưới có lông.

Bộ phận phía trong âm hộ và âm môn:
+ Màng trinh (Hymen): ngăn cách giữa âm đạo và âm hộ.
+ Lỗ đái là đường thông ra của niệu đạo con cái. Lỗ đái nằm ở thành
dưới âm môn ngay sau dưới màng trinh hình một cái khe có van trùm lên, cánh
van hướng về sau. Bên cạnh lỗ đái còn có lỗ đổ ra của ống tuyến tiền đình. Đôi
tuyến này tiết ra dịch nhờn làm ẩm ướt cửa vào âm đạo phía trong âm hộ và có
thành phần sát khuẩn.
+ Âm vật (Clitoris): là tổ chức cương cứng, có nhiều dây thần kinh nên
tính cảm giác tập trung ở đây cao.
Cấu tạo âm hộ từ ngoài vào có các lớp sau: Lớp da mỏng mịn có nhiều
sắc tố, lớp cơ gồm cơ thắt và dây treo âm hộ, lớp niêm mạc trong cùng có
nhiều tuyến tiết dịch nhờn.
- Tuyến vú (Mamma): lợn là động vật đa thai có từ 6 - 8 đôi vú xếp 2
hàng từ vùng ngực đến vùn bụng bẹn. Tuyến này chỉ phát triển khi con cái đến
tuổi thành thục về tính và phát triển to nhất ở thời kỳ chửa, đẻ. Thời kỳ con vật
đẻ, tuyến vú tiết ra sữa cung cấp dinh dưỡng cho con sơ sinh và lúc còn non.
Vú gồm có bầu vú và núm vú.
+ Bầu vú: bầu to đó là nơi sản sinh và chứa sữa. Ngoài cùng có lớp da
mỏng mịn tùy theo vị trí mà lớp da này do da ngực, nách hay da bụng, bẹn kéo
đến, tiếp đến là lớp cơ. Trong cùng có 2 phần cơ bản là bao tuyến và ống dẫn
xen kẽ giữa phần cơ bản ở trong như tổ chức mỡ, tổ chức liên kết, hệ thống
mạch quản thần kinh bao vây và chia vú làm nhiều thùy nhỏ trong đó có nhiều
sợi đàn hồi.


9
Bao tuyến là nơi sản sinh ra sữa giống như một cái túi, từ túi đó sữa theo
3 loại ống dẫn: Nhỏ, trung bình, lớn rồi đổ vào xoang sữa ở đáy tuyến và thông
ra ở đỉnh đầu vú.
Để hình thành một lít sữa phải có 540 lần lít máu đi qua tuyến vú, vì vậy

sự cung cấp máu cho tuyến vú rất phong phú, mao mạch bao quanh bao tuyến
dày đặc.
+ Núm vú: một bầu vú có một núm vú cấu tạo bởi da, tổ chức liên kết,
cơ và ống dẫn sữa. Ống dẫn sữa gồm 2 - 3 ống thông nối từ xoang sữa (bể sữa)
ra đầu núm vú. Ở đầu núm vú, sợi cơ trơn xếp thành vòng tạo thành cơ vòng
đầu vú giữ cho đầu vú ở trạng thái khép kín khi không thải sữa.
+ Quá trình mang thai và đẻ:
Nguyễn Xuân Tịnh (1996) [15] cho biết, thụ thai là sự kết hợp giữa tinh
trùng và trứng tạo thành hợp tử, hay nói cụ thể hơn là quá trình đồng hóa giữa
tinh trùng và trứng. Đó là kết quả của sự tái tổ hợp các gen từ 2 nguồn gen
khác nhau. Thời gian mang thai của lợn trung bình 114 ngày. Khi mang thai
thể vàng tồn tại và tiết ra kích tố progesterone ức chế sự phát triển của bao
noãn. Do đó, con vật chửa sẽ không động dục và không thải trứng.
Thời gian chửa của lợn cái được chia ra làm hai thời kỳ:
+ Chửa kỳ 1: là thời gian lợn chửa 84 ngày đầu tiên.
+ Chửa kỳ 2: là thời gian lợn chửa từ ngày chửa thứ 85 đến khi đẻ.
Theo Trương Lăng (2003) [4], trong thời kỳ lợn chửa có thể xuất hiện
hai tai biến:
+ Toàn bộ các thai chết gây sảy thai.
+ Một phần thai chết, các thai khác tiếp tục phát triển xen kẽ không bị
đẩy ra ngoài.


10
2.2.1.2. Các giai đoạn sinh sản
* Chu kỳ động dục của lợn nái
Ở lợn cái sự thành thục sinh dục xuất hiện từ lúc 6 - 7 tháng tuổi (đối với
các giống lợn ngoại) 4 - 5 tháng (đối với các giống lợn nội). Chu kỳ động dục
của lợn cái là khoảng thời gian giữa lần động dục trước đến lần động dục sau.
Chu kỳ động dục của lợn cái từ 18 - 24 ngày, trung bình 21 ngày. Động dục là

hiện tượng xuất hiện các triệu chứng động dục như âm hộ sưng lên, có màu đỏ,
lợn cái kêu la, phá chuồng, bỏ ăn, tìm con đực, đứng yên, cong đuôi lên và âm
hộ tiết ra dịch nhầy, kèm theo quá trình rụng trứng. Thời gian động dục của lợn
cái từ 4 - 5 ngày (đối với lợn ngoại), 2 - 3 ngày (đối với lợn nội).
Chu kỳ động dục bao gồm các giai đoạn: giai đoạn luteal và giai đoạn
follicular. Ngay sau giai đoạn luteal, sự rụng trứng bắt đầu xảy ra và đặc trưng
bởi sự tiết progesteron từ thể vàng (CLs). Những thể vàng bắt đầu phát
triển ngay sau khi trứng rụng, mặc dầu sau 2 - 4 ngày chúng vẫn chưa đạt
khả năng cực đại tiết progesteron. Khi progesteron tiết nhiều thì chúng ức
chế sự phát triển
của các bao noãn ở con cái. Progesteron tác động lên trung khu sinh dục
làm giảm thiểu sản sinh các yếu tổ giả phóng FRF và LRF. Hơn nữa,
progesterone hỗ trợ và cung cấp cho tử cung khả năng có chửa và gây nên sự
tiết dinh dưỡng vào tử cung để nuôi dưỡng phôi giai đoạn đầu làm tổ khoảng
12 - 16 ngày sau khi phối.
Sau 16 - 17 ngày vào thời kỳ cuối và kết thúc khi chức năng thể vàng bị
giới hạn bởi sự có mặt với nồng độ cao của hormone Prostaglandin F2α.
Hormone này được tiết bởi tử cung bắt đầu khoảng 12 - 14 ngày sau khi trứng
rụng ở con cái không có chửa, khi các buồng trứng tăng về khối lượng, đồng
thời khi nồng độ hormone prostagladin đủ sẽ tiêu huỷ thể vàng ở khoảng ngày
thứ 16 - 17 sau rụng trứng. Ở lợn nái không có chửa thể vàng tiêu biến và


11
không có chất tiết của nó là progesterone. Kết quả là tăng nhanh sự tiết các yếu
tố giả phóng FRF và LRF và dẫn đến tăng tiết FSH và LH. Các hormon đó kích
thích các bao noãn phát triển nhanh chóng lại sau 4 - 5 ngày. Sự sinh trưởng
này được kết hợp với mức tiết oestrogen trong máu bởi các bao noãn.
Oestrogen tăng tiết làm phát triển lớp tế bào bề mặt tử cung chuẩn bị cho
việc phối tinh tiếp. Giai đoạn tiết oestrogen cao nhất sẽ làm tăng cao LH và

rụng trứng. Kết quả khi mức oestrogen tăng cao là xuất hiện hiện tượng động
dục gọi là oestrus.
Biểu hiện các triệu chứng động dục ra bên ngoài và kèm theo quá trình
rụng trứng của lợn nái gọi là giai đoạn động dục hoặc là chu kỳ động dục.
.* Mang thai
Khi tế bào trứng được thụ tinh, hợp tử hình thành và làm tổ ở niêm mạc
sừng tử cung. Từ 11 đến 14 ngày hợp tử mới dính chặt niêm mạc tử cung. Lúc
đó có phản ứng miễn dịch dung nạp xẩy ra trong cơ thể lợn nái. Giai đoạn làm
tổ, ổn định vị trí và hình thành một số cơ quan mần móng ban đầu của cơ thể
kết thúc lúc 22 ngày sau khi thụ tinh được gọi giai đoạn tiền phôi và phát triển
theo 3 giai đoạn. Suốt cả thời kỳ mang thai thể vàng tồn tại và phát triển, tiết ra
hormone progesterone cần thiết để duy trì sự có chửa trong suốt thời gian có
chửa 114 ngày. Thời gian có chửa được chia thành hai thời kỳ và có thể gọi
chửa kỳ kỳ 1 và chửa kỳ 2: Chửa kỳ 1 được xác định từ khi trứng được thụ tinh
đến khoảng 90 ngày tuổi của bào thai, giai đoạn bào thai chưa phát triển mạnh
về khối lượng mà chủ yếu hình thành các cơ quan bộ phận trong cơ thể và hoàn
thiện một số chức năng hoạt động của bào thai. Chửa kỳ 2 được xác định thời
gian còn lại từ 90 ngày đến 114 ngày, đây là giai đoạn bào thai phát triển nhanh
về khối lượng và kích thước, 3⁄4 trọng lượng bào thai được phát triển ở giai
đoạn này. Tuy nhiên, đến khoảng 112 - 114 ngày sự phát triển của bào thai
hoàn thiện và bắt đầu tiết ra Cortiroids. Những hormone này sẽ tác động lên


12
màng nhau của lợn mẹ làm tiết oestrogen, hormone này sẽ kích thích tử cung
tiết ra prostaglandin F2 và tuyến yên tăng tiết oxytoxin. Hai hormones này sẽ
phá hủy thể vàng, kết quả là nồng độ progesterone trong máu giảm nhanh, tử
cung co bóp mạnh và lợn mẹ sẽ đẻ sau 20 - 30 h.
* Tiết sữa
- Sản sinh sữa:

+ Trong thời kỳ chửa, các hormone prolactin tăng tiết và tác động tăng
sinh tuyến vú, kết quả tuyến vú phát triển và tăng thể tích theo thời gian phát
triển của bào thai. Sau 3 tuần chửa bầu vú bắt đầu căng lên, các tuyến vú phát
triển mạnh cho đến trước lúc đẻ 3 tuần, hormone prolactin tăng tiết cùng với sự
tác động của nhau thai thông qua hormone progesterone. Sữa bắt đầu được sản
sinh ở trong các tuyến sữa. Quá trình này được tạo ra ở các tuyến sữa quá trình
sinh tổng hợp protein sữa (cezein), đường sữa (galactoza), mỡ sữa và các thành
phần sinh dưỡng khác từ máu. Sự hình thành sữa này được ưu tiên trong cơ thể
của lợn mẹ. Quá trình hình thành này tùy thuộc hoàn toàn vào lượng máu đi
qua bầu vú, chính vì vậy ở những núm vú nào có hệ thống động tĩnh mạch lớn
thì núm vú đó có sản lượng sữa cao.
- Tiết sữa:
+ Sau khi sữa được hình thành và tích trữ ở các túi sữa, khi xuất hiện các
triệu chứng sắp đẻ hormone oxytoxin được tiết ra và tác động lên tuyến sữa để
thải sữa ra theo các ống đầu núm vú. Sau khi đẻ lợn con tìm vú mẹ và thúc bú
kích thích lợn mẹ tiết sữa, sự tiết sữa này làm ngăn cản việc tiết hormone
GnRH, vì vậy ức chế sự phát triển của bao noãn. Quá trình phân tiết bị tác
động mạnh bởi sự mút bú của lợn con, quá hình này hình thành nên 3 pha trong
quá trình bú sữa của lợn con. Tuy nhiên sau thời gian này sự ức chế đó dần dần
được giải phóng, mặc dầu sự phát triển đầy đủ của các bao noãn trong thời kỳ
rụng trứng không giống như trong giai đoạn tiết sữa của lợn mẹ. Ngay sau cai


13
sữa và ngừng bú sữa, hoạt động của GnRH gia tăng và các bao noãn bắt đầu
phát triển. Điều này tương tự như giai đoạn bắt đầu của bao noãn trong chu kỳ
sinh sản lợn nái. Vì vậy phần lớn sự động dục và rụng trứng của lợn nái xảy ra
trong khoảng từ 5 - 7 ngày sau cai sữa lợn con.
- Năng suất sữa:
+ Năng suất sữa phụ thuộc nhiều yếu tố nội tại và ngoại cảnh. Khi lợn

nái đẻ sắp đẻ hormone oxytoxin tăng tiết để thải sữa ra ngoài, cùng với thúc bú
của lợn con tuyến sữa tăng cường sản sinh sữa và phân tiết sữa. Sản lượng sữa
cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như số lợn con để nuôi, dinh dưỡng cho
lợn mẹ, chu kỳ tiết sữa, tuổi và lứa đẻ, giống, thời tiết và khí hậu. Xác định sản
lượng sữa ở lợn nái theo hai phương pháp định tính và định lượng:
Phương pháp định tính: muốn biết sản lượng sữa của lợn cao hay thấp,
chúng ta quan sát lợn mẹ và đàn lợn con.
- Phương pháp định lượng: Cân trọng lượng của lợn con sau 21 ngày
tuổi, tính toán sản lượng sữa(SLS) lợn mẹ theo công thức sau:
SLS trong một chu kỳ tiết sữa = M1+ M2
Trong đó:
M1 là sản lượng sữa của kỳ tiết sữa thứ nhất từ ngày thứ 1 đến ngày 21
M2 là sản lượng sữa của kỳ tiết sữa thứ 2, từ 21 ngày tuổi đến lúc cai sữa
M2 = 4/5 M1
(Trọng lượng toàn ổ lợn con lúc 21 ngày tuổi – Trọng lượng toàn tổ lợn con lúc sơ sinh

M1 =

3

2.2.2. Một số bệnh ở lợn nái
2.2.2.1. Bệnh viêm tử cung
* Nguyên nhân
Theo Nguyễn Xuân Bình (2005) [1], bệnh thường xảy ra vào thời gian 1
- 10 ngày sau khi đẻ.


14
Theo Nguyễn Văn Thanh và cs. (2015) [16] viêm tử cung ở lợn nái là
một trong những tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái sau khi sinh, ảnh

hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, làm mất sữa, lợn con không có sữa sẽ còi
cọc, suy dinh dưỡng, chậm phát triển. Lợn nái chậm động dục trở lại, không
thụ thai, có thể dẫn đến vô sinh, mất khả năng sinh sản của lợn nái.
Lợn là loài có khả năng sinh sản cao, đẻ nhiều con trên lứa, nhiều lứa
trên năm, thời gian mang thai ngắn… Đây là điều kiện thuân lợi cho vi trùng
xâm nhập gây bệnh cho đường sinh dục.
Nguyễn Hữu Phước (1982) [10] cho biết: Lợn nái sinh sản đều mang vi
khuẩn trong âm đạo nhưng không gây bệnh, chỉ khi đẻ cổ tử cung mở, chất dịch
tiết đọng lại, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập, phát triển và gây bệnh.
Mặt khác theo Nguyễn Hùng Nguyệt (2004) [9], cơ quan sinh dục lợn
nái phát triển không bình thường gây khó đẻ, hoặc lợn nái đẻ khó do nhiều
trường hợp khác nhau: thai to quá, thai ra ngược, thai không bình thường… nái
tơ phối giống sớm khi khối lượng cơ thể chưa đạt 70% khối lượng trưởng
thành, nái già đẻ nhiều lứa, khi đẻ tử cung co bóp yếu hoặc viêm tử cung từ lần
trước làm niêm mạc tử cung bị rách, bị biến dạng nên nhau thai không tróc
hoàn toàn gây sót nhau, vi khuẩn xâm nhập và phát triển mạnh gây thối.
Lợn nái ngoại nhập nội cũng dễ mắc bệnh do chưa thích nghi với điều
kiện khí hậu Việt Nam.
Lê Văn Năm và cs. (1997) [8] cho rằng, có rất nhiều nguyên nhân từ
ngoại cảnh gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ
bằng dụng cụ hay sử dụng thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến muxin của chất
nhầy các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc
nuôi dưỡng bất hợp lý, thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý
của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về kích thước bình
thường và khối lượng ban đầu khoảng 3 tuần sau khi đẻ). Đây là điều kiện tốt


15
để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi
khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc đó tử

cung mở) và do thụ tinh nhân tạo (TTNT) sai kỹ thuật (dụng cụ dẫn tinh làm
tổn thương niêm mạc tử cung).
Phạm Sỹ Lăng (2006) và cs. [3] đưa ra nhận định rằng: do tinh dịch bị
nhiễm khuẩn và dụng cụ dẫn tinh không vô trùng đã đưa các vi khuẩn viêm
nhiễm vào bộ phận sinh dục của lợn nái. Do lợn đực nhảy trực tiếp, mà niệu
quản và dương vật bị viêm sẽ truyền bệnh sang lợn nái. Chuồng trại và môi
trường sống của lợn nái bị ô nhiễm, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và
sau khi lợn đẻ không tốt.
Bệnh còn xảy ra do sự thiếu xót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần
thiếu hay thừa protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm
đường sinh dục. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột, gây khó đẻ, gây viêm
đường sinh dục do xây xát. Thiếu dinh dưỡng lợn nái ốm yếu sức đề kháng
giảm không chống lại được vi khuẩn xâm nhập gây viêm tử cung. Khoáng chất,
vitamin ảnh hưởng đến viêm đường sinh dục. Thiếu vitamin A sẽ gây sừng
niêm mạc, sót nhau (Lê Hồng Mận, 2006) [6].
Theo Lê Văn Năm và cs. (1997) [8], viêm tử cung còn có thể là biến
chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian
động dục (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo
đường máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung.
Theo Madec F., Neva C. (1995) [23], bệnh viêm tử cung và các bệnh ở
đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát
triển trong âm đạo và việc gây viêm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra…
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một
cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa
phối đã bị viêm tử cung.


16
* Hậu quả của bệnh viêm tử cung
Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [2], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn

đến một số hậu quả sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai: lớp cơ trơn ở thành tử
cung có đặc tính co thắt. Khi gia súc cái mang thai, sự co thắt của cơ tử cung
giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chặt vào
tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử
cung tiết nhiều Prostaglandin F 2α (PGF 2α ), PGF 2α gây phân hủy thể vàng ở
buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây
co mạch hoặc thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi
đến thể vàng. Thể vàng bị phá hủy không tiết Progesterone nữa, hàm lượng
Progesterone trong máu giảm làm cho tính trương lực cơ của cơ tử cung tăng
lên, do đó gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp
phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesteron giảm
nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai
nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém
hoặc thai chết lưu.
- Sau khi sinh lợn con giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của
lợn con theo mẹ: khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục
thường có mặt của vi khuẩn E. coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế
sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc
mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con của
những lợn mẹ bị viêm tử cung thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ ảnh hưởng đến khả năng động dục
trở lại: nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF 2α giảm, do đó thể


17
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone. Progesterone ức chế thùy trước
tuyến yên tiết LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng,

nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
Theo Madec F., Neva C. (1995) [23], ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà
người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn bị viêm tử cung lúc sinh đẻ là:
chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh
hưởng rất lớn tới năng xuất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không
đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ
kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Ngoài
ra, viêm tử cung là một trong những nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó
làm cho tỷ lệ lợn con cai sữa thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng
quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh
giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra
biện pháp để phòng và điều trị hiệu quả.
* Các thể viêm tử cung
Các tác giả Bane A. (1986) [18]; Nguyễn Văn Thanh và cs. (2016) [13],
đều cho rằng: các quá trình bệnh xảy ra ở cơ quan sinh dục là các nguyên nhân
chính dẫn đến hiện tượng rối loạn sinh sản và giảm năng suất của gia súc cái.
Theo Đặng Đình Tín (1986) [14], bệnh viêm tử cung thường được chia
làm 3 thể: viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
- Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)
Theo Black (1983), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp niêm mạc tử cung.
Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm khả năng sinh sản
của gia súc cái. Viêm nội mạc tử cung phổ biến và chiếm tỷ lệ cao nhất trong
các thể viên tử cung (trích Phùng Thị Vân, 2004 [17]).
Nguyên nhân: khi gia súc sinh đẻ, nhất là trong những trường hợp đẻ
khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây sát, tổn


18
thương,vi khuẩn như: Streptococcus, Staphylococcus, E. coli, Salmonella,

Brucella, roi trùng xâm nhập và phát triển gây viêm nội mạc tử cung. Mặt
khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn,
bệnh lao… Thường gây ra viêm nội mạc tử cung. Căn cứ vào tính chất, trạng
thái của quá trình bệnh lý, viêm nội mạc tử cung có thể chia ra làm hai loại:
+ Viêm nội mạc tử cung cata cấp tính có mủ (Endomestritis puerperalis
Catarhalis purulenta acuta)
Bệnh này xuất hiện trên tất cả các loài gia súc, gặp nhiều ở bò, trâu và lợn. Sau
khi sinh đẻ, niêm mạc cổ tử cung và âm đạo bị tổn thương, xây sát, nhiễm
khuẩn, nhất là khi gia súc bị sát nhau, đẻ khó phải can thiệp.
Khi bị bệnh, gia súc có biểu hiện một số triệu chứng chủ yếu: thân nhiệt hơi
cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi khi
cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn dịch,
niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết… Khi con vật
nằm, dịch viêm thải ra ngoài càng nhiều hơn. Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai
bên mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại hình thành từng đám vẩy, màu
trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung
hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.
Kiểm tra qua trực tràng có thể phát hiện được một hay cả hai sừng tử
cung sưng to, hai sừng tử cung không cân xứng nhau. Thành tử cung dày và
mềm hơn bình thường. Khi kích thích nhẹ lên sừng tử cung thì mức độ phản
ứng co nhỏ lại của chúng yếu ớt. Trường hợp trong tử cung tích lại nhiều dịch
viêm, nhiều mủ thì có thể phát hiện được trạng thái chuyển động sóng.
+ Viêm nội mạc tử cung màng giả
Thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết thương đã ăn
sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử.
Trường hợp này, con vật xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt
lên cao, ăn uống và lượng sữa giảm, có khi hoàn toàn mất sữa. Con vật biểu



×