Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tham luận mô hình dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo đại học công lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.98 KB, 8 trang )

Tham luận
Về mô hình dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo đại học công lập

I. Thực trạng và tổ chức và hoạt động của mô hình cung ứng dịch vụ công
trong các trường đại học công lập.
Hiện tại, mô hình cung ứng dịch vụ công trong các trường đại học công lập
được thực hiện theo các quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (sau đây gọi tắt là
Nghị định số 43).
Theo quy định tại Nghị định số 43 và Thông tư số 71/2006/TT-BTC về phân
loại các đơn vị sự nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành phân loại các đơn vị
trực thuộc theo tỷ lệ tổng nguồn thu sự nghiệp trên tổng số chi hoạt động thường
xuyên kể từ năm 2007, cụ thể 54 đơn vị thuộc diện điều chỉnh của Nghị định 43 được
phân loại như sau:
- 10 đơn vị được giao tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên
- 34 đơn vị được giao tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên.
- 10 đơn vị là đơn vị do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động
Các đơn vị trên đã được giao cơ chế tự chủ tài chính từ năm 2006 và tiếp tục
thực hiện cơ chế tự chủ giai đoạn 2008-2010, danh mục phân loại đơn vị Bộ Tài chính
thống nhất tại công văn số 2971/BTC-HCSN ngày 14/3/2008.
Sau 4 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, các văn bản hướng dẫn của
các bộ ngành liên quan và thực hiện thí điểm, cho tới nay toàn hệ thống mới chỉ có 06
trường đại học trực thuộc được thí điểm chuyển từ mô hình tiếp nhận ngân sách nhà
nước sang hình thức tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (trong tổng
số 54 đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ thực hiện Nghị định 43), là các trường:
-

Trường Đại học Hà Nội.
Trường Đại học Ngoại thương.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.


Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Viện Đại học Mở Hà Nội.
Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh.


Trong thực tế, với cơ chế tài chính hiện tại, chỉ có 2 loại hình là đơn vị tự chủ
hoàn toàn, và đơn vị tự chủ một phần với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, không có
trường đại học nào hoàn toàn không có nguồn thu do theo quy định tất cả sinh viên
theo học tại các trường đại học, cao đẳng công lập đều phải đóng học phí (ngoại trừ
sinh viên ngành sư phạm được miễn học phí theo Luật Giáo dục). Tuy nhiên, trong
thực tế, hầu hết các trường đại học sư phạm đều đã chuyển sang thành trường đại học
đa lĩnh vực (ĐH Hải Phòng, ĐH Quy Nhơn v.v...) số còn lại cũng mở rộng ngành
nghề đào tạo để tạo thêm nguồn thu ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp phát.
Theo báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện Nghị định số 43, có thể thấy các
trường đại học đã từng bước làm quen với cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính. Đánh giá kết quả những
mặt tích cực và tòn tại trong quá trình thực hiện Nghị định số 43 như sau:
1. Những mặt tích cực của việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm
- Việc thực hiện Nghị định 43 đã mang lại những kết quả tích cực trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, bộ máy quản lý được tổ chức gọn nhẹ hơn, đội ngũ cán bộ
giảng dạy đã tăng lên đáng kể về số lượng cũng như chất lượng, đảm bảo tỷ lệ sinh
viên/giảng viên theo quy định nhờ cơ chế tuyển dụng linh hoạt. Số sinh viên tuyển
mới đã tăng lên đáng kể đáp ứng nhu cầu học tập và cung cấp nguồn nhân lực có chất
lượng cho xã hội.
Các trường đã không thụ động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách của Nhà nước
mà đã chủ động hạch toán, huy động nguồn lực từ các hoạt động cung cấp dịch vụ và
nghiên cứu khoa học tạo nguồn lực tái đầu tư phát triển sự nghiệp. Sau 4 năm triển
khai thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43, hầu hết các
trường đại học đã chủ động phát huy được vai trò của các đơn vị sự nghiệp công lập

trong công tác đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học đáp ứng nhu cầu của
xã hội, chất lượng cung ứng dịch vụ công trong giáo dục đại học đã được nâng lên
một bước. Qua đó, chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của chính sách trao thêm
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Những vấn đề còn hạn chế trong việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các trường đại học công lập.
Thực tế mức độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học công hiện
nay còn hạn chế thể hiện trên một số mặt sau:
- Về công tác đào tạo:
Quy trình đăng ký mở ngành đào tạo chưa được phân cấp và đã bộc lộ một số
điểm hạn chế cho quyền tự chủ của các đơn vị


Về công tác tuyển sinh hiện đang thực hiện theo phương thức tuyển sinh 3
chung mặc dù có những ưu điểm nhất định, nhưng cần phải tiếp tục được đổi mới.
Về văn bằng chứng chỉ và các loại giấy tờ khác liên quan đến quản lý và học
tập của người học chưa được trao quyền tự chủ mạnh, hiện nay chỉ mới có 5 đại học
và trường đại học Bách khoa Hà Nội được tự in ấn, quản lý và cấp phát văn bằng.
- Về quản lý nghiên cứu khoa học:
Cơ chế đăng ký, xét duyệt, đánh giá và nghiệm thu các đề tài nghiên cứu khoa
học và đầu tư phòng thí nghiệm từ các nguồn ngân sách nhà nước chưa phát huy được
tính chủ động của các trường, dẫn tới hiệu quả thấp. Cơ chế này còn nặng về thủ tục
hành chính, người làm nghiên cứu khoa học còn phải đầu tư quá nhiều thời gian vào
quản lý, thanh quyết toán tài chính; cơ chế kiểm soát tài chính của nhà nước còn cứng
nhắc dẫn tới việc sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học hiệu quả thấp.
b. Cơ chế tài chính thiếu hợp lý
Thứ nhất, từ nhiều năm qua kinh phí đầu tư cho đào tạo từ ngân sách nhà nước
và từ học phí tính trên đầu sinh viên sụt giảm giá trị thực nhiều lần.
Thứ hai, các trường đại học thiếu quyền chủ động trong việc huy động và sử
dụng các nguồn kinh phí từ xã hội. Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm về tài chính đối

với các trường đại học công lập theo quy định tại Nghị định số 43 chưa làm rõ trách
nhiệm chia sẻ kinh phí đào tạo giữa nhà nước và người học, còn mang nặng tính bình
quân, chưa gắn với các tiêu chí đảm bảo chất lượng. Mặt khác, cơ sở giáo dục chất
lượng cao không được thu học phí cao, điều này chưa khuyến khích các trường đầu tư
cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng, tạo ra bất lợi thiếu bình đẳng về điều kiện phát
triển của các cơ sở đại học trong nước với các cơ sở có yếu tố đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, thực hiện tự chủ tài chính theo quy định tại Nghị định số 43 các trường
mới chủ yếu tập trung xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ cho việc hạch toán
tài chính tại đơn vị. Các định mức chi cụ thể và cơ chế quản lý đầu tư phát triển, quản
lý chi phát triển sự nghiệp vẫn thực hiện theo các văn bản pháp luật hiện hành khác,
nên thực chất quyền tự chủ về tài chính của các trường chưa được trao đầy đủ.
Thứ tư, quy định khung học phí hiện nay thiếu bình đẳng, hạn chế năng lực
cạnh tranh của các trường đại học công lập.
Việc quy định khung học phí chung theo nhóm ngành đào tạo cho tất cả các
trường đại học công lập, thì những trường đại học công lập có uy tín truyền thống sẽ
không còn cơ hội để đứng vững vị trí hàng đầu. Việc quy định khung học phí có thể
cần thiết đối với đa số các trường công lập trong giai đoạn hiện nay, nhưng không thể
phù hợp với toàn bộ hệ thống đại học công lập.
c. Việc phân loại các trường đại học công lập dựa trên tỷ lệ thu sự nghiệp với
tổng chi hoạt động thường xuyên để xác định mức độ tự chủ là chưa phù hợp


Theo quy định tại Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43 thì trường đại học công lập được phân
làm 3 loại:
- Tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên.
- Đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên.
- Do ngân sách nhà nước đảm bảo.
Tuy vậy, việc quy định mức thu học phí và quản lý nguồn thu từ học phí của
các trường tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên cũng giống như các trường

tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên là những trường vừa có nguồn
thu từ học phí vừa được cấp kinh phí chi thường xuyên là không bình đẳng giữa các
trường đại học công lập gây khó khăn trong hoạt động đối với các trường tự đảm bảo
kinh phí hoạt động. Thực tế các trường tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên
trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, hàng năm nhà nước vẫn phải cấp bù kinh phí chi
thường xuyên vì trong quá trình thực hiện các hoạt động của trường thu không đủ chi.
Mặt khác, trong cùng một loại trường tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động
thì các trường này có sự khác biệt rất lớn về quy mô, kinh nghiệm quản trị, trình độ
năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và dải chênh lệch thu/chi
tài chính rất rộng từ trên 10% đến dưới 100%. Nghĩa là điều kiện thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm rất khác nhau nhưng lại được điều chỉnh chung một nội dung
và mức độ tự chủ giống nhau là không phù hợp.
Để thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các trường đại
học công lập không chỉ dựa vào một tiêu chí là tài chính mà phải đánh giá các trường
về năng lực quản lý, trình độ giảng viên, nhóm ngành đào tạo, nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ và chất lượng đầu ra, định mức được chi phí cần thiết cho đào
tạo/ 1 sinh viên đối với mỗi ngành đào tạo. Nghĩa là các trường được tự chủ, tự chịu
trách nhiệm toàn diện cần phải đạt được một số điều kiện nhất định, những trường
chưa đủ điều kiện phải phấn đấu đủ điều kiện để được giao thực hiện tự chủ.
Nhìn dưới góc độ toàn hệ thống, có thể nhận thấy cơ chế quản lý hiện nay có
một số bất cập cần phải đổi mới.
3. Đề xuất sửa đổi, bổ sung mô hình cung ứng dịch vụ công
a. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ
- Về xây dựng quy hoạch phát triển, kế hoạch hoạt động hàng năm
+ Căn cứ quy hoạch phát triển, Trường quyết định kế hoạch hoạt động hàng
năm (trong đó có chỉ tiêu tuyển sinh, các chỉ tiêu khác về đào tạo, nghiên cứu khoa
học và các loại hình dịch vụ) và có trách nhiệm gửi đăng ký kế hoạch hoạt động hàng
năm tới cơ quan chủ quản để biết, hỗ trợ, theo dõi, kiểm tra.



+ Đối với các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước giao, Trường phải huy động cán
bộ, giảng viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường và sử dụng kinh phí nhà nước
cấp tương ứng với nhiệm vụ được giao để thực hiện thông qua hình thức hợp đồng,
đặt hàng giữa cơ quan nhà nước với trường.
- Về mở ngành đào tạo
+ Căn cứ vào danh mục đào tạo của nhà nước, Trường mở ngành đào tạo trình
độ đại học, cao đẳng, chuyên ngành đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ khi đảm bảo các
điều kiện về đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo và cơ sở vật chất phù hợp với
ngành đào tạo, trình độ đào tạo theo các quy định hiện hành và có trách nhiệm báo
cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo trước khi thực hiện.
+ Việc mở ngành mới chưa có trong danh mục đào tạo của Nhà nước, trường
phải xây dựng đề án trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
- Về chương trình đào tạo
+ Xây dựng các chương trình đào tạo của trường theo mô hình của các trường
đại học tiên tiến trên thế giới trên cơ sở đảm bảo những nội dung quy định chung của
Bộ Giáo dục và Đào tạo (khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về các môn lý luận
chính trị, giáo dục quốc phòng - an ninh, giáo dục thể chất…) và có trách nhiệm báo
cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo để theo dõi, tổng hợp, hỗ trợ, kiểm tra.
+ Mở rộng các chương trình đào tạo chất lượng cao, các chương trình đào tạo
tiên tiến; quyết định hình thức đào tạo của trường theo niên chế hoặc tín chỉ.
- Về tuyển sinh
+ Trường tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm trên cơ sở quy định chung
và có trách nhiệm báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo trước khi tuyển sinh.
+ Được xây dựng đề án tuyển sinh riêng trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng
đầu vào bảo đảm không tái diễn việc luyện thi và phù hợp với từng hệ ngành đào tạo,
trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
- Về khoa học và công nghệ
+ Trường tự xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ và biện pháp tổ chức
thực hiện căn cứ vào định hướng ưu tiên phát triển khoa học và công nghệ của nhà
nước, nhu cầu của xã hội, nhu cầu của doanh nghiệp, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực

hoạt động của trường.
+ Quyết định việc tham gia tuyển chọn, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ cấp Bộ, cấp Nhà nước và biện pháp tổ chức thực hiện căn cứ vào danh
mục các nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ,
ngành và địa phương công bố hàng năm.
+ Quyết định biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
do cơ quan nhà nước giao hoặc đặt hàng, đảm bảo chất lượng và tiến độ theo yêu cầu.


+ Được ký hợp đồng thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ
khoa học và công nghệ với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Trường ban hành quy định cụ thể việc quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học
và các dịch vụ khoa học công nghệ theo hướng giảm các thủ tục hành chính, khoán
chi tiêu để tăng tính chủ động của các chủ nhiệm đề tài, dự án, đồng thời chi một tỷ lệ
kinh phí thích hợp cho năng lượng sử dụng, khấu hao cơ sở vật chất và đầu tư phát
triển, phù hợp với các quy định hiện hành của nhà nước.
- Về hoạt động liên doanh, liên kết và hợp tác quốc tế
+ Trên cơ sở quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về những nội dung bắt buộc
của chương trình đào tạo, trường quyết định hợp tác, liên kết đào tạo với các trường
đại học nước ngoài đã kiểm định chất lượng (có trong danh mục được Bộ Giáo dục và
Đào tạo công nhận) và được công nhận kiểm định chất lượng; trường có trách nhiệm
báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo để tổng hợp, hỗ trợ, kiểm tra.
+ Quyết định trong việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở trong nước để
đào tạo theo nhu cầu xã hội, theo đặt hàng của các địa phương, doanh nghiệp và các
tổ chức có nhu cầu với cam kết đảm bảo các điều kiện về chất lượng theo quy định
hiện hành.
- Về văn bằng, chứng chỉ
+ Trường xây dựng đề án in các loại văn bằng, chứng chỉ theo mẫu thiết kế
riêng khi đáp ứng các nội dung bắt buộc của hệ thống văn bằng chứng chỉ của nhà
nước, trình Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định và phê duyệt.

+ Trường quản lý, cấp phát văn bằng, chứng chỉ cho các trình độ đào tạo (cao
đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ), chương trình và loại hình đào tạo của trường phải phù
hợp với quy định về văn bằng, chứng chỉ của Luật Giáo dục và Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
+ Trường có trách nhiệm công khai các thông tin liên quan về việc cấp văn
bằng chứng chỉ trên website của trường để người học, các cơ quan tuyển dụng lao
động cũng như các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát.
b. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, biên chế
Trường thực hiện các nội dung tự chủ, tự chịu trách nhiệm về công tác tổ chức
bộ máy, biên chế theo các quy định tại Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐTBNV ngày 15/4/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo. Đây là một trong
những nội dung cơ bản đã được phân cấp triệt để cho các đơn vị.
c. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
- Quyền tự chủ về các khoản thu, mức thu
+ Học phí hệ chính quy đối với các chương trình đại trà


Trường được áp dụng theo khung học phí quy định của Nhà nước
+ Học phí đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao
Căn cứ vào quy định của pháp luật và mức chi thường xuyên nhà nước cấp,
Trường tự xây dựng mức học phí đối với các chương trình đào tạo đặc biệt - chất
lượng cao tương xứng với các điều kiện đảm bảo chất lượng theo nguyên tắc đủ bù
đắp chi phí đào tạo và công bố công khai mức học phí của năm học và dự kiến toàn
khóa đối với mỗi chương trình trước khi tổ chức tuyển sinh. Trường có trách nhiệm
báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo trước khi thực hiện.
+ Học phí đối với các chương trình đào tạo theo nhu cầu xã hội, đào tạo theo
địa chỉ, theo đặt hàng của các địa phương, doanh nghiệp, Bộ, ngành, các chương trình
liên kết đào tạo quốc tế.
Trên cơ sở thỏa thuận của các bên liên quan, trường được quyết định các mức

học phí, lệ phí tương xứng để đủ trang trải toàn bộ kinh phí đào tạo, đồng thời hỗ trợ
đầu tư tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ giảng dạy và nghiên cứu
khoa học.
+ Đối với các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư
vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước,
Trường được quyết định các mức thu, khoản thu cụ thể theo nguyên tắc đủ bù đắp chi
phí và có tích lũy.
- Quyền tự chủ về sử dụng nguồn tài chính
+ Trường được tự chủ trong việc lập kế hoạch và sử dụng kinh phí ngân sách
nhà nước cấp thường xuyên và các nguồn thu hợp pháp khác để chi cho các hoạt động
thường xuyên, tăng cường năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý nhà
trường trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước về quản lý tài
chính.
+ Được mở tài khoản tại kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản kinh phí
thuộc ngân sách nhà nước; mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để phản ánh các khoản
kinh phí thuộc nguồn thu hợp pháp của trường.
- Quyền tự chủ quản lý và sử dụng tài sản
+ Đối với tài sản nhà nước trong trường đại học công lập, Trường được phép áp
dụng quản lý và sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ
theo chức năng, nhiệm vụ được giao như một đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài
chính theo Luật Quản lý, Sử dụng tài sản Nhà nước số 09/2008/QH12 ngày 03/6/2008
và Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ.
+ Đối với tài sản tự có, các trường quản lý và sử dụng theo quy định tại quy chế
tài chính nội bộ của trường, trong đó:
Được quyết định mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất từ quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, vốn huy động theo quy hoạch phát triển trường được cấp


có thẩm quyền phê duyệt; tham gia đấu thầu các hoạt động dịch vụ, phù hợp với lĩnh
vực chuyên môn của trường.

Được sử dụng thương hiệu, uy tín, chất lượng, tài sản đầu tư từ quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp, vốn vay, vốn huy động của cán bộ giảng viên, viên chức trong
trường để quyết định liên doanh, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư
xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của trường và quy định của pháp luật.
Các hoạt động liên doanh, liên kết đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước để đầu tư phát triển và thực hiện các hoạt động dịch vụ của trường được hưởng
ưu đãi theo quy định của Chính phủ quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày
30/8/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.



×