Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Tiểu luận Incoterms 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.99 KB, 42 trang )

óc ngoặc với các phần tử xấu để ăn cắp hàng
bên trong. Khi hàng đến cảng đích trọng lượng bị thiếu hụt khá nhiều so với chứng từ giao hàng.
Không đòi được bảo hiểm, vì theo nguyên tắc CIF họ chỉ bảo hiểm rủi ro từ cảng tới cảng chứ
không phải từ bãi đóng hàng. Chuyển sang đòi người bán.
Rõ ràng, nếu trường hợp trên bán hàng theo quy tắc CIP thì người mua sẽ khiếu nại được người
bảo hiểm hoặc người vận tải để đòi bồi thường chứ không phải người bán. Khi được hỏi tại sao
không sử dụng quy tắc CIP trong trường hợp này cho thích hợp như ICC khuyến cáo thì DN nói
trên cho biết người trước ký hợp đồng như thế nào thì người sau cũng cứ thế mà ký.

 Phải luôn nhớ rằng, khi mua bán hàng vận chuyển bằng container quy tắc FAS và FOB
phải được thay thế bằng FCA, quy tắc CFR thay bằng CPT và CIF thay bằng CIP như
ICC đã khuyến cáo.
3. Sử dụng điều kiện theo cách của Việt Nam
a.Lợi ích:


-Đối với những doanh nghiệp chưa nắm chắc về nghiệp vụ đàm phán ngoại thương, khi
mua CIF và bán FOB các doanh nghiệp không phải thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hóa
nên có thể tránh được những rủi ro về thuê tàu và mua bảo hiểm.
-Những doanh nghiệp Việt Nam có vốn thấp, khi xuất khẩu theo điều kiện FOB có thể
giảm bớt cước phí vận tải và bảo hiểm.
-Giảm thiểu rủi ro về mặt thanh toán nếu xuất khẩu theo giá FOB. Chẳng hạn như đối với
lô hàng có chi phí cao, một khi bạn hàng mất khả năng thanh toán, mất mát khi áp dụng
điều kiện FOB sẽ nhỏ hơn so với khi áp dụng điều kiện CIF
b.Bất lợi:
-Bán theo giá FOB thu về lượng ngoại tệ thấp hơn cho đất nước so với bán theo giá CIF:
giá mua FOB rẻ hơn CIF.
-Thường thì người xuất khẩu sẽ thuê tàu và mua bảo hiểm ở các công ty thuộc nước họ.
Vậy nếu mua CIF, bán FOB, doanh nghiệp Việt Nam nhường quyền này cho bạn hàng, vô
tình khiến các doanh nghiệp bảo hiểm và hãng tàu trong nước mất đi việc làm. Trong khi
các doanh nghiệp bảo hiểm và hãng tàu nước ngoài chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị phần


bảo hiểm đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam
-Nếu trực tiếp giao dịch với các công ty bảo hiểm hàng hải và hãng tàu, người thuê sẽ được
hưởng một khoản tiền hoa hồng. Ta không giao dịch thì mất đi khoản này vào tay bạn hàng.
-Khi mua CIF và xảy ra tổn thất với hàng hóa, doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó
khăn khi phải đàm phán trực tiếp với hãng tàu và bảo hiểm nước ngoài.
-Tiềm ẩn rủi ro cho nhà nhập khẩu theo điều kiện CIF do không được chủ động chỉ định
hãng vận tải. Người xuất khẩu được quyền lựa chọn hãng vận chuyển và hãng vận chuyển
này có thể hùa theo người xuất khẩu để lừa dối người nhập khẩu. Hay như rủi ro tiềm ẩn là
người bán sẽ chọn hãng vận tải giá rẻ, và theo quy luật “tiền nào, của nấy”, dịch vụ cũng
kém theo mức độ rẻ, thời gian chuyển tải dài ngày. Trong khi nếu nhập khẩu theo điều
kiện FOB thì người nhập khẩu chủ động chọn hãng vận tải, do vậy biết rõ lịch trình lô
hàng và có những quyết định phù hợp.


X. Giải pháp:
1. Đối với doanh nghiệp:
-Cần chủ động hơn trong các đàm phán kí kết hợp đồng, tạo nên sự liên kết mạnh mẽ với các
ngành liên quan như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải,…
-Cần tự nâng cao năng lực chính bản thân doanh nghiệp về mọi mặt như nhân lực, tài chính, uy
tín,…
-Tìm hiểu kỹ các “từ ngữ quan trọng” trong Incoterms, đặc biệt là các quy tắc đầu tiên của
Incoterms 2010 là chỉ sử dụng tiếng anh. Mặt khác, có rất nhiều những từ viết tắt như FCA,
FOB, CIF,… có thể được xem là “từ ngữ quan trọng” trong Incoterms, những từ này khi được
sử dụng đã xác lập một số quyền và nghĩa vụ.
-Cần thay đổi tập quán mua CIF và bán FOB, mua FOB và bán CRF, CIF mới có thể tận dụng
lợi thế trong kiểm soát lô hàng nếu đối tác chưa thanh toán đủ hoặc không thanh toán tiền thì
các doanh nghiệp chỉ tốn số ít tiền chở hàng về còn hơn mất cả lô hàng.
-Phối hợp tốt với các cơ quan có thẩm quyền.
2. Đối với chính phủ:
-Tạo các điều kiện hỗ trợ hoặc tạo ràng buộc pháp lý để thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu, các hãng vận tải, công ty bảo hiểm để đảm bảo lợi ích quốc gia.
-Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích phát triển ngành vận tải hàng hải: phát triển các
đội tàu trong nước, nâng cao cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực,… song song với các
ngành bảo hiểm thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có cơ sở, điều kiện thực hiện tốt nhất các
điểu khoản trong Incoterms.
-Thành lập các cơ quan có nhiệm vụ hỗ trợ, tư vấn các doanh nghiệp trong việc áp dụng các
điều khoản Incoterms và các hợp đồng thương mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp
Việt Nam theo điều khoản đã kí kết trong hợp đồng.
3. Đối với các chủ thể liên quan:


-Các công ty bảo hiểm cần có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nâng cao
chất lượng, uy tín của công ty.
-Các công ty vận tải cần phải nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, đa dạng hóa các dịch vụ,
nghiệp vụ xuất nhập khẩu để hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp.
-Còn đối vối hệ thống ngân hàng Việt Nam:
+ Ngân hàng thương mại cần nâng chất lượng dịch vụ tư vấn xuất nhập khẩu cho các khách
hàng doanh nghiệp của mình, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Cùng
với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, các ngân hàng thương mại cần chủ động hợp tác
chặt chẽ để hỗ trợ tư vấn các phương thức giao nhận hàng cho các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu.
+ Ngân hàng phát triển Việt Nam là đơn vị đầu mối thực hiện chính sách tín dụng xuất
khẩu của Nhà nước cần nghiên cứu và có chính sách ưu đãi đối với các đơn vị xuất khẩu theo
điều kiện nhóm C và nhập khẩu theo điều kiện nhóm F trong hoạt động tín dụng của mìn




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×