Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tài liệu triết học những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.26 KB, 36 trang )

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM

Lịch sử Triết học Việt Nam với tư cách là một bộ môn khoa học, nó chỉ mới
được ra đời cách đây không lâu. Hiện nay, nó được trình bày rải rác trong các bộ sách
về Lịch sử tư tưởng Việt Nam, chẳng hạn như của Nguyễn Đăng Thục (7 tập), của Viện
Triết học (2 tập) và của Trần Văn Giàu (3 tập). Đó là chưa kể còn một số sách báo,
chuyên khảo ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến nó. Nhìn chung, lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam đã được xới lên; nhiều giai đoạn, nhiều vấn đề đã được
nghiên cứu khá sâu. Nhưng đáng tiếc cho đến nay, vẫn chưa có cuốn sách nào về Triết
học Việt Nam hay Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.
Thực ra, trước khi xuất hiện triết học Mác - Lênin, ở Việt Nam đã có truyền thống Văn,
Sử, Triết, Tôn giáo bất phân, bởi vậy, không có triết học với tư cách là một bộ môn
khoa học độc lập, mà chỉ có những tư tưởng hay học thuyết triết học nằm trong các
cuốn sách về văn, sử hay tôn giáo. Nếu xét ở góc độ những vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường của triết học mácxít thì quả thật ở Việt Nam khía cạnh này rất mờ nhạt.
Nhưng từ việc, ở Việt Nam trước kia chỉ có những người hiền, hiền triết, minh triết mà
nói rằng họ không có các nhà triết học thì e rằng đã dùng con mắt hiện tại mà nhìn
nhận, đánh giá người xưa. Việt Nam nằm giữa hai nền văn minh với những hệ thống
triết học đồ sộ là Ấn Độ và Trung Hoa, phải chăng về hình nhi thượng (tức bản thể
luận, vũ trụ quan), chúng ta đã có hai nền triết học khổng lồ này cung cấp, vấn đề là
vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của mình? Thực ra cũng không hoàn
toàn hẳn như vậy. Học thuyết triết học Trần Thái Tông, tư tưởng về Lý Khí của Lê Quí
Đôn, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, … đã nói lên điều đó.


Bài này, bước đầu chúng tôi trình bày một cách khái quát quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng triết học Việt Nam đến năm 1958, trước khi có sự du nhập của triết
học phương Tây. Trong khoảng thời gian đó, lịch sử Việt Nam có thể được phân làm
bốn thời kỳ lớn:
1. Thời kỳ tiền sử kéo dài từ kỷ Hồng Bàng đến hết nhà Triệu, tức là đến năm 110
trước C.N.


2. Thời kỳ Bắc thuộc: từ 110 trước C.N. đến năm 938.
3. Thời kỳ phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập: từ 939 đến hết thế kỷ XIV.
4. Thời kỳ ổn định, thịnh vượng và khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam:
1400 – 1858.
Sự phát triển kinh tế xã hội, văn hoá tinh thần ở hai thời kỳ đầu đã tạo cơ sở cho sự
hình thành và phát triển của tư tưởng triết học của dân tộc—triết học Việt Nam, trong
các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
I. Cơ sở hình thành và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam
a/ Cơ sở xã hội. Với tư cách là thượng tầng kiến trúc, triết học nhìn chung, nó bị qui
định bởi hạ tầng cơ sở, tồn tại xã hội. Vậy cơ sở xã hội của Việt Nam là gì?
Hiện nay, sự phân kỳ xã hội Việt Nam vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Trong giáo
trình Lịch sử Việt Nam cho rằng thời Văn Lang của các vua Hùng (700-258 tr. CN) và
An Dương Vương (257-208 tr. CN) là thời kỳ chuyển từ xã hội nguyên thủy lên xã hội
phân chia giai cấp sơ kỳ kiểu phương thức sản xuất châu Á. Theo Phan Huy Lê, từ thời
Hùng Vương, An Dương Vương trở đi , nước ta bước vào xã hội phân hoá giai cấp sơ
kỳ với kết cấu kinh tế xã hội đặc thù của phương Đông, ... mà chúng tôi tạm gọi là


phương thức sản xuất châu Á. Trên nền tảng của phương thức sản xuất này, quan hệ
sản xuất phong kiến dần dần nảy sinh và dẫn đến việc xác lập của chế độ phong kiến
vào khoảng thế kỷ XV. Như vậy, ở Việt Nam không có chế độ nô lệ. Hồng Phong cho
rằng mãi cho đến thế kỷ XV, xã hội Việt Nam vẫn thuộc hình thái của phương thức sản
xuất châu Á. Theo Trần Quốc Vượng, từ thế kỷ XIX trở về trước, xã hội Việt Nam là
một xã hội tiểu nông truyền thống nằm trong khung cảnh của phương thức sản xuất
châu Á. Nếu vậy thì chúng ta không có cả chế độ phong kiến. Chỉ qua đấy ta cũng thấy
rằng xã hội Việt Nam là một xã hội phát triển không bình thường.
Vào cuối giai đoạn văn minh sông Hồng, trên cơ sở văn hoá Đông Sơn phát triển rực
rỡ, nhà nước Văn Lang ra đời, mặc dù đó là nhà nước phôi thai, kết cấu cộng đồng
nguyên thủy vẫn chưa hoàn toàn bị thủ tiêu. Nếu phát triển bình thường, nghĩa là quốc
gia đó sẽ đi theo qui luật phân hoá giai cấp, phân công lao động, phát triển chế độ tư

hữu, ... Nhưng những quá trình đó chỉ vừa mới bắt đầu thì nhà Tần, rồi đến nhà Hán
xâm lược, đặt ách nô dịch hơn 1.000 năm. Và cái cộng đồng mang đậm màu sắc
nguyên thủy đáng lẽ bị phá vỡ một cách tự nhiên trong quá trình phát triển của nhà
nước Văn Lang, thì nay lại phải cố kết lại để tạo nên sức mạnh chống xâm lược và
đồng hoá.
Với chiến thắng Bạch Đằng chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc không lâu, nước ta lại rơi
vào loạn 12 xứ quân. Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, nhưng chẳng mấy chốc Lê
Đại Hành lại phải đem quân chống Tống. Từ đó qua Lý, Trần, Hồ không có triều đại
nào là không có kháng chiến chống xâm lược. Tưởng chừng sau kháng chiến chống
quân Minh, nước ta có một nền hoà bình lâu dài. Nhưng chỉ 90 năm sau đã xảy ra
chiến tranh Nam Bắc triều, rồi tiếp đến Trịnh Nguyễn phân tranh. Tây Sơn lên chưa
được bao lâu thì nhà Nguyễn thay thế. Nhà Nguyễn thống nhất được gần nửa thế kỷ thì


Pháp đã nổ súng xâm lược.
Đã chiến tranh thì không thể có sự phát triển bình thường được. Sức sản xuất, khoa học
kỹ thuật chậm phát triển.Sự phát triển không bình thường của xã hội Việt Nam còn thể
hiện ở cấu trúc kinh tế xã hội. Nhìn đại thể, xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp
với chế độ làng xã, chế độ đem lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé một cuộc sống cô lập, biệt
lập. Làng xã này tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc, bị trói buộc bởi những xiềng
xích nô lệ của các qui tắc cổ truyền, từ đó nó làm hạn chế lý trí của con người trong
những khuôn khổ chật hẹp và đôi khi trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín.
Những làng xã này, nếu nhìn từ trên cao xuống, chúng giống như những ốc đảo độc
lập, như những mảnh nhỏ của con run sau khi chặt ra nhưng chúng vẫn sống, tồn tại.
Và cũng chính nhờ tính chất đó mà ở một số thời kỳ, đặc biệt là thời Bắc thuộc, nước
mất nhưng còn làng, và nhờ còn làng mà cuối cùng còn nước. Theo C. Mác, công xã
hay làng này là cơ sở bền vững cho chế độ chuyên chế phương Đông; còn cái xã hội
truyền thống đó, mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi, kéo dài từ những thời
hết sức xa xưa cho đến những năm đầu của thế kỷ XIX. C. Mác đã dùng khái
niệm”Bất động”, “Tĩnh” để chỉ xã hội phương Đông trong đó có Việt Nam.Trong thư

gửi Ph. Ănghen ngày 2.6.1853, ông viết:” Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất
là cơ sở của tất cả các hiện tượng ở phương Đông”. Trong thư gửi lại ông ngày
6.6.1853, Ph.Ănghen nhấn mạnh:” Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất thực sự
là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông”. Chính từ đặc điểm đó mà C.Mác
đưa ra khái niệm “Phương thức sản xuất châu Á”.
Vậy, hạt nhân trong phương thức sản xuất châu Á, suy cho cùng là không có sở hữu tư
nhân về ruộng đất. ”Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ, suất hải chi tân mạc phi
vương thần” (Đất đai dưới bầu trời không có chỗ nào không phải là của vua, người trên
đất đai ấy không ai là không phải thần dân của vua) (Kinh Thư). Với Phương thức sản


xuất châu Á như vậy, nó làm cho xã hội Việt Nam luôn gặp những kết cấu mới xen lẫn
các kết cấu cũ, hình thái kinh tế mới xen lẫn hình thái kinh tế cũ. Ngay như từ thời
Trần sang thời Lê, đó được xem là một bước ngoặt từ điền trang thái ấp với chế độ nô
tỳ sang quan hệ địa chủ tá điền. Về đại thể là như vậy, song địa chủ nhỏ đã có từ thời
Lý Trần, còn chế độ nô tỳ vẫn còn tồn tại lâu dài ở thời Lê. Trần Đình Hượu cho rằng
phương thức sản xuất châu Á chỉ đưa đến cải lương chứ không đưa đến cách mạng.
Với quyền lãnh hữu chứ không có quyền sở hữu, nhiều nước phương Đông dễ tiến lên
XHCN hơn là TBCN.
b/ Đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam. Từ sự khác nhau về cơ sở xã
hội, phương thức sản xuất, nên triết học ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
1. Nếu như triết học phương Tây thường gắn liền với những thành tựu của
khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên, triết học Ấn Độ gắn liền với tôn
giáo, triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị, đạo đức, thì triết học
Việt Nam gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi phản
ánh hiện thực đó, triết học Việt Nam hướng chủ yếu đến vấn đề nhân sinh,
đạo




làm

người





tưởng

trung

tâm



yêu

nước.

2. Nếu như triết học phương Tây có khuynh hướng trội là đi từ thế giới quan
đến nhân sinh quan (từ bản thể luận đến nhận thức luận, lô gíc học), thì
triết học Việt Nam lại có khuynh hướng trội là đi từ nhân sinh quan đến
thế giới quan. ở Việt Nam, vấn đề trung tâm, hàng đầu là vấn đề con
người, đạo lý làm người (nhân sinh quan), sau đó các nhà tư tưởng mới đi
tìm cách lý giải , đặt cơ sở cho những vấn đề trên (thế giới quan). Điều
này bị qui định bởi phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam.


3. Tư tưởng triết học Việt Nam là sự thể hiện, phản ánh nhân sinh quan, thế

giới quan của cộng đồng dân tộc; nó phát triển từ những ý niệm thô sơ,
chất phác về nhân sinh, vũ trụ lên trình độ lý luận, song do khuynh hướng
trội nêu trên nên nó thiếu tính hệ thống chặt chẽ và thường là cải biến nội
dung các khái niệm trong các học thuyết được du nhập từ bên ngoài nhằm
mục

đích

xây

dựng



bảo

vệ

đất

nước.

4. Cũng chính vì khuynh hướng trội nêu trên mà vấn đề cơ bản của triết học,
tức vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, trong triết học Việt Nam là rất
mờ nhạt, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
không trải ra trên khắp mọi vấn đề, nhưng nhìn chung, khuynh hướng duy
tâm tôn giáo có vẻ nổi trội hơn khuynh hướng duy vật vô thần.
Nếu triết học phương Tây hơi nghiêng về duy vật, hướng ngoại , thì triết học
Việt Nam lại hơi ngả về duy tâm, hướng nội. Nếu triết học phương Tây nghiêng
về lấy ngoài để giải thích trong thì triết học Việt Nam lại ngả về lấy trong để giải

thích ngoài theo kiểu của cụ Nguyễn Du, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nếu biện chứng trong triết học phương Tây nghiêng về đấu tranh, thì biện chứng
trong triết học Việt Nam lại ngả về thống nhất. Nếu vận động, phát triển trong
triết học phương Tây đi lên theo con đường xoáy trôn ốc thì vận động, phát triển
trong triết học Việt Nam lại đi theo con đường vòng tròn, tuần hoàn.
Tóm lại , đối với xã hội Việt Nam ta thấy có hai điểm nổi bật xuyên xuốt lịch sử,
đó là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hai mặt hoạt động này liên hệ mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau, không tách rời nhau. Và chính điều này cùng với cái mà
C.Mác gọi là phương thức sản xuất châu Á được chúng ta phân tích ở trên đã
quy định đặc điểm của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.


II. Vài nét về kinh tế, xã hội và thế giới quan của người Việt thời tiền sử
Thời đại đồ đá kéo dài từ mấy triệu năm đến mấy ngàn năm cách ngày nay đã
đánh dấu bước chuyển từ hái lượm, săn bắn sang chăn nuôi trồng trọt. Qua
những tư liệu khảo cổ ta thấy người Việt cổ bước đầu đã có ý niệm về sự cân
xứng, đã có tư duy phân loại (ở Văn hoá Sơn Vi), có lòng tin ở thế giới bên kia,
mà ở đó người chết vẫn tiếp tục lao động (công cụ lao động ở bên cạnh người
chết ở văn hoá Sơn Vi). Cư dân Hoà bình đã biết chọn nơi cư trú, biết dùng lưu
hoàng để vẽ lên người, biết đến nhịp điệu, dùng ký hiệu để ghi. Theo GS. Hà
Văn Tấn, đây là quá trình hình thành hoạt động đếm và phạm trù số lượng, từ đó
ra đời các số đếm tách khỏi vật đếm (trừu tượng hoá khỏi vật cụ thể). Cuối thời
đồ đá mới (3000 năm Tr. CN) với nghề trồng lúa nướ c, người Việt đã có ý niệm
về đường tròn, chuyển động quay, có ý thức về nhịp điệu, cân xứng, đã có quan
niệm về thời gian, vũ trụ (Trên đồ gốm ở Bắc Sơn đã có mặt trời hình tròn, có
hình chữ S, nửa số 8). Họ tôn thờ sức mạnh tự nhiên như mưa, gió, đặc biệt là
mặt trời đã trở thành thần linh của họ.
Cách đây khoảng 4000 năm (Tức vào 2000 năm Tr. CN) người Việt đã bước vào
giai đoạn đồng thau (hợp kim đồng thiếc) - thời kỳ tiền Đông Sơn. Đến thời kỳ
Đông Sơn, kỹ thuật đồng thau phát triển cao với sự ra đời của những trống đồng.

Nếu văn hoá tiền Đông Sơn có niên đại từ 2000 Tr. CN đến 700 Tr. CN ở các lưu
vực sông Hồng thì văn hoá Đông Sơn từ 700 Tr. CN đến 100 với việc hình thành
quốc gia Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ hình thành
cái lõi đầu tiên của dân tộc. Thời kỳ này người Việt đã có sự quan sát thế giới
bên ngoài khá tinh tế, từ đó tái tạo, biểu hiện khá chân thực, khéo léo (Qua
tượng bò, gà, ... v.v. làm bằng đất nung). Nhìn đồ trang sức cân xứng, tinh xảo,
nhẵn, đẹp khiến nay chúng ta cũng phải ngạc nhiên. Người Đông Sơn đã biết


làm chủ nhịp điệu, tuân theo tính đối xứng chặt chẽ và biết đến nhiều dạng đối
xứng khác nhau. Điều này thể hiện tư duy trừu tượng khá cao ở họ. Qua trống
đồng ta thấy đã có suy nghĩ, nhận xét, tính toán về hình học (đã biết chia hình
tròn làm sáu phần bằng nhau, đã biết liên hệ giữa bán kính và đường tròn). Như
vậy bước đầu họ đã có nhận thức hình học và tư duy chính xác.
Trên một số đồ gốm (kể cả gốm Phùng Nguyên) các trang trí hoa văn biểu hiện
mô hình vũ trụ gồm ba thế giới: Trời, Người và dưới đất, trong đó có sự biến
chuyển của mùa màng, đời sống thực vật là liên tục, không cùng, thể hiện qua
những đường xoắn nối liền nhau, lặp đi lặp lại. ở đây đã xuất hiện phong cách
tượng trưng với những ký hiệu quy ước - bước phát triển mới của tư duy trừu
tượng.
Qua các huyền thoại ta còn thấy thế giới thứ tư, đó là thế giới dưới nước. Và như
vậy "Tứ phủ" đã hình thành.
Qua các trống đồng ta thấy người Đông Sơn đã có một tri thức khá cao về luyện
kim, chế tạo đồ đồng, đồ sắt. Khi tái hiện thế giới hiện thực họ đã không chú ý
đến chi tiết của đối tượng được miêu tả, mà chỉ chú ý đến những đặc điểm cơ
bản, và thể hiện chúng bằng những đường nét ước lệ, cách điệu nhưng rất sinh
động.
Nhà khảo cổ học Pháp Madeleine Colani cho rằng ngôi sao nhiều cánh giữa mặt
trống đồng là hình mặt trời, còn người, chim, hươu trên mặt trống đều xoay
quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, trùng với chiều của quả đất xoay

quanh mặt trời. Vành ngoài cùng của trống đồng Ngọc Lũ chứa 336 vòng tròn
nhỏ ứng với chu kỳ một năm mặt trăng quay quanh mặt trời. Qua trống đồng rất
có thể cư dân Đông Sơn đã có lịch pháp riêng cần thiết cho nông nghiệp và hàng


hải. Theo Bùi Huy Hồng, thời Hùng Vương đêm có 5 giờ, ngày có 5 giờ. Mỗi
giờ lại chia làm 10 khoảng.
Những chiếc thuyền trên tang trống có thể là nghi lễ đưa tiễn hồn người chết, có
thể là lễ hội cầu mùa - một lễ nghi chủ yếu của cư dân nông nghi. Rất có thể
những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối, tục đua thuyền, tục thả diều có từ
thời này.
Thời kỳ Đông Sơn, theo GS. Hà Văn Tấn đã hình thành tư duy lưỡng hợp (lưỡng
phân) giữa khô và ướt, lửa và nước, Nhật và Nguyệt, chim và rắn, thấp và cao,
v.v. Theo Porée-Maspéro, văn hoá, phong tục, thần thoại, trống đồng,... ở đây
đều biểu hiện tính lưỡng hợp, giao tranh, giao hoà giữa các yếu tố đối lập.
Quan niệm về thế giới nổi bật nhất là truyện bánh chưng bánh dầy. Người Việt
cổ cho rằng trời thì tròn còn đất thì vuông. Tròn là sáng tạo, vuông là vạn vật.
Bởi vậy, bình dân có câu: "Mẹ tròn con vuông", hay "Trăm năm tính cuộc vuông
tròn" là vậy. Nhìn chung, tư tưởng triết học Việt Nam thời tiền, sơ sử còn khá
đơn giản, mộc mạc, chất phác.
III. Sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam trong cuộc đấu tranh thời Bắc
thuộc
Thời Bắc thuộc kéo dài từ thời phụ thuộc vào nhà Hán (110 Tr. CN) (có người
cho nó bắt đầu từ Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của An Dương Vương,
năm 207 Tr. CN) tới năm 939 khi Ngô Quyền giành được độc lập. Nhưng trước
Ngô Quyền đã có Dương Đình Nghệ, cha con Khúc Hạo nổi dậy trong lúc nhà
Đường mất (906), Nam Bắc phân tranh. Bởi vậy, nếu nói thời kỳ Bắc thuộc thì
phải kể ra ba thời điểm tương đối quan trọng: Thời Hán (293 năm), thời Ngũ đại



(314 năm) và thời Tuỳ Đường (304 năm).
Điểm nổi bật của giai đoạn này là dân tộc ta bị vong quốc, trở nên phụ thuộc, nô
lệ, đất nước ta trở thành những châu quận của phương Bắc; nhân dân ta sống
trong khổ cực, hờn căm và tủi nhục. Mâu thuẫn cơ bản nổi bật ở đây là cuộc đấu
tranh giữa nhân dân ta với quân xâm lược, giữa khuynh hướng Hán hoá và
chống Hán hoá. Tuỳ từng thời kỳ, tuỳ thế và lực của mỗi bên mà mâu thuẫn này
lúc căng, lúc dịu.
Phân tích thời kỳ Bắc thuộc, một số học giả cho rằng, do ta ở khá xa Trung
Quốc, đường xá hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt nên chính quyền đại diện phương
Bắc nhiều khi chỉ hữu danh vô thực.
Về mặt tư tưởng, giai đoạn Bắc thuộc cũng là giai đoạn tam giáo (Nho, Phật,
Lão) truyền vào nước ta, trong đó Phật giáo là nổi trội hơn cả. Nếu Nho, Lão
vào nước ta theo vó ngựa của quân xâm lược thì Phật vào nước ta chủ yếu bằng
đường biển trực tiếp từ Ấn Độ. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu, mà có nhà nghiên
cứu còn cho rằng nó có sớm hơn cả trung tâm Bành Thành và Lạc Dương của
Trung Quốc. Cuốn "Lý hoặc luận" - cuốn sách đầu tiên của Phật giáo Trung
Quốc, theo nhiều học giả, được Mâu Tử viết ở Bắc Việt Nam. Những khuynh
hướng Phật giáo Việt Nam sau này: Thiền, Phật giáo dân gian, v.v... đều có mầm
mống ở giai đoạn đầu tiên này (II-III). Năm 580 ở Việt Nam đã xuất hiện dòng
thiền Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) và năm 820 lại xuất hiện dòng thiền Vô
Ngôn Thông.
Trong "Lý hoặc luận", khi đả phá quan điểm đại Hán, Mâu Tử đã cho rằng đất
Hán chưa hẳn là trung tâm trời đất (Hán địa vị tất địa tất vi thiên trung dã).


Mâu Tử đều gọi Nho, Phật, Lão là đạo. Đạo không vì ca ngợi mà thành sang,
không vì chê bai mà thành hèn, nó mênh mông như trời, thẳm sâu như biển; nó
không có tên, không thể mô tả được. Bản chất của đạo là ở nhà có thể thờ cha
mẹ, làm chủ một nước có thể trị dân, riêng bản thân có thể sửa mình. Đạo là con
đường dẫn đến “vô vi”. Như vậy, theo Mâu Tử,”vô vi” của Lão là bản thể của

đạo, của tam giáo.
Ở Phật, vô vi gần với hư vô, vô tâm, gần với cái lặng sâu kỳ diệu; ở Lão, vô vi là
không làm nhưng lại là làm tất cả, sống nhu thuận theo tự nhiên; ở Nho, vô vi là
vô tư, đạm bạc, chất phác. Để đạt đến bản thể - vô vi (Ngôi nhà chung) này mỗi
giáo đi theo một con đường và vào bằng những cửa khác nhau: Phật dùng bố thí,
trì giới; Lão dùng đức giảm dần; Nho dùng nhân nghiã để giữ tính. Người có căn
cơ khác nhau thì đi bằng những con đường khác nhau.
Mỗi giáo có phạm vi, ứng dụng khác nhau: Khổng sửa sang việc đời, Phật, Lão
để chí vô vi. Như vậy, Nho nghiêng về nhập thế, còn Phật, Lão nghiêng về xuất
thế. Mặc dù thế nhưng chúng không đối lập nhau, mà bổ sung cho nhau, trong
đó Phật là cao hơn cả. Đó cũng là cuộc tổng hợp, hỗn hợp, hỗn dung, đụng độ
đầu tiên giữa Nho,Phật, Lão trên mảnh đất Việt Nam.
Sự hỗn dung giữa tam giáo và tư tưởng bản địa mà hạt nhân là tư tưởng yêu
nước tạo nên thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt thời Bắc thuộc.
Tư tưởng yêu nước, ý thức cộng đồng dân tộc ban đầu được thể hiện qua các
huyền thoại "Đồng bào" (cùng một cái bọc mà ra) của Lạc Long Quân và Âu
Cơ; huyền thoại Kinh Dương Vương cũng nói lên Việt và Hán cùng có chung
một tổ tiên - đó là Viêm Đế họ Thần Nông, chứ không phải Hán là Hạ mà Việt là


Man Di.
Ý thức cộng đồng đã đạt đến đỉnh cao ở Lý Bí. Sau khi đánh đuổi quân Lương,
ông tự xưng là Nam đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Đặt
tên nước là Vạn Xuân là có ý đồ mong muốn sự lâu bền muôn đời của đất nước,
từ đó tạo lập tư tưởng quyết tâm gìn giữ đất nước độc lập lâu dài.
Qua lăng kính tư tưởng yêu nước, ý thức cộng đồng mà Nho Phật Lão cũng có
sự biến cải. Chẳng hạn, Phật ở giai đoạn này cũng phải là người cứu dân ra khỏi
lầm than khổ cực bằng cách tham gia chống hạn (Phật Mẫu Man Nương), gạt bỏ
những tên quan tham lam tàn bạo (trong tư tưởng của Mâu Tử và Khương Tăng
Hội) và nguyền rủa bọn phương Bắc bằng quan điểm gieo ác sẽ gặp ác, gieo gió

sẽ gặp bão. Phật ở Giao Châu lúc đầu là ông thần có phép lạ khuyến thiện trừ ác,
sau đó trải qua cuộc khủng hoảng ở thế kỷ VI qua sáu bức thư, Phật từ ông thần
trên mây được đưa vào tâm người bởi hai phái Thiền Tỳ Li Đà Lưu Chi và Vô
Ngôn Thông với quan điểm tức tâm tức Phật, Phật không ngoài tâm, ngoài tâm
không có Phật. ở một khía cạnh nào đó có thể nói sự chuyển biến của Phật giáo
thời Bắc thuộc là từ chủ nghĩa duy tâm khách quan đi đến chủ nghĩa duy tâm
chủ quan. Điều này phản ánh một hiện thực lịch sử là muốn đứng lên giải phóng
dân tộc không thể trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên bên ngoài mà phải
phát huy nội lực vốn có của dân tộc, của mỗi con người. Như vậy, lịch sử cho
thấy, mặc dù thời Bắc thuộc kéo dài hàng ngàn năm nhưng chúng ta không bị
đồng hoá vì:
Thứ nhất, như ta đã phân tích, nhân dân ta luôn có ý thức cộng đồng, tinh thần
yêu nước lúc ngấm ngầm, khi trào dâng, càng ngày càng mãnh liệt. Bởi vậy,
không sớm thì muộn nhất định chúng ta sẽ giành được độc lập.


Hai là, về mặt văn hoá, chúng ta đã có một nền văn hoá bản địa phát triển từ thời
các vua Hùng. Mặt khác, đến thời kỳ Bắc thuộc, để đối trọng với văn hoá Trung
Hoa mà đại diện là Nho giáo, người Việt xưa đã xiển dương nền văn hoá Ấn Độ
mà đại diện là Phật giáo. Không phải ngẫu nhiên mà Phật giáo ở giai đoạn Bắc
thuộc lại là Phật giáo mang đậm màu sắc Ấn Độ. Điều này nói lên rằng trong
những buổi đầu dựng nước và giữ nước, vô tình hay hữu ý, ông cha ta đã biết
chống lại sự đồng hoá về mặt văn hoá của Hán tộc, bằng cách đề cao một nền
văn hoá khác lớn không kém gì văn hoá Trung Hoa - Văn hoá Ấn Độ mà đại
diện là Phật giáo Ấn Độ. Qua sự đối trọng này mà văn hoá bản địa vẫn được duy
trì, giữ vững và tiếp tục đi theo con đường của riêng nó. Không những thế nó
còn tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá nhân bản khác để làm phong phú
thêm cho nền văn hoá của mình. Và cũng chính điều đó quy định trước việc đề
cao Phật giáo ở những giai đoạn sau, giai đoạn Đinh, Lê, Lý, Trần.
IV. Tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập

(thế kỷ X – XIV)
Từ thế kỷ X (939) đến hết thế kỷ XIV (1399) là thời kỳ phục hồi và xây dựng
đất nước, nó trải dài qua năm triều đại: Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, trong đó quan
trọng nhất là thời Lý - Trần (1010 - 1399). Đây là thời kỳ các xu hướng tư tưởng
triết học Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với những chiến công xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Về kinh tế, nhà nước đặc biệt quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Đi ều này thể
hiện ở việc xây dựng quản lý các công trình thuỷ lợi (đê Cơ Xá thời Lý), đẩy
mạnh khẩn hoang, nhà vua cử hành lễ cày tịch điền vào đầu tháng giêng hàng
năm, chính sách "ngụ binh ư nông",… Từ đó nông nghiệp phát triển và kéo theo


các nghề thủ công nghiệp (dệt vải, nung gạch ngói, đồ gốm, luyện kim, đúc
chuông ...) đều phát triển. Việc trao đổi hàng hoá trong nước và buôn bán với
nước ngoài được đẩy mạnh với các đường thuỷ bộ tấp nập.
Ruộng đất suy cho cùng là thuộc nhà nước đứng đầu là vua. Bên dưới còn có
điền trang, thái ấp của quý tộc và ruộng của nhà chùa. Tư hữu ruộng đất đã có từ
đầu Lý và phát triển mạnh vào cuối Trần.
Về giai cấp, có tầng lớp quý tộc, quan lại đứng đầu nhà nước là nhà vua, tầng
lớp tăng lữ, nông dân, nông nô và nô tỳ trong các điền trang thái ấp; thợ thủ
công và lái buôn; địa chủ và nho sĩ ngày càng tăng ở cuối thời Trần. Tất cả
những giai cấp này tuy có nơi; có lúc đấu tranh với nhau, nhưng đều có một
nhiệm vụ chung là dựng nước và giữ nước. Chính nhiệm vụ cứu nước đã làm
cho các giai cấp đối kháng xích lại gần nhau để chiến đấu chống kẻ thù chung và
tạo nên những chiến công hiển hách. Nhưng khi hết quân xâm lược, giai cấp
thống trị đi vào con đường ăn chơi hưởng lạc, xã hội đi xuống thì mâu thuẫn
giữa thống trị và bị trị lại nổi lên bằng những cuộc khởi nghĩa nông dân ở cuối
triều Lý và cuối triều Trần.
Năm 1070 nhà Lý lập Văn Miếu, 1075 mở khoa thi đầu tiên gọi là minh kinh
bác học, 1076 lập Quốc Tử Giám. Thời Lý - Trần liên tục mở các khoa thi để

chọn người hiền tài. Chính vì vậy mà trong tầng lớp lãnh đạo cuối Trần đã phân
làm hai: Tầng lớp quý tộc tôn thất nhà vua và tầng lớp quan lại Nho sĩ. Cùng với
sự phát triển của chế độ tư nhân về ruộng đất gắn liền với tầng lớp địa chủ, tầng
lớp này ngày càng có ưu thế. Sự ra đời tầng lớp lao động trí óc là điều kiện cho
sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của dân tộc.
Thời Lý - Trần, văn học, nghệ thuật, chèo, tuồng, kiến trúc, điêu khắc đều phát


triển.
1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam (X - XVI)
Những cuộc chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta đối với đội quân xâm lược
phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, Lê Hoàn đánh tan quân
Tống, nhà Lý còn sang tận đất Tống chủ động đánh địch khi địch đang chuẩn bị
tiến hành xâm lược nước ta, đặc biệt là ba lần đánh tan quân Nguyên của nhà
Trần) đã thổi một luồng sinh khí mới vào tư tưởng yêu nước, đã làm cho ý thức
cộng đồng và lòng tự hào dân tộc có bước phát triển mới ... Điều này thể hiện rõ
qua Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, bài "Nam quốc sơn hà". ở đây
vấn đề độc lập, chủ quyền được trịnh trọng tuyên ngôn một cách đanh thép.
Trước đó, năm 1054, sau khi Lý Thánh Tông lên ngôi đã đặt hiệu nước ta là Đại
Việt. Nếu năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế,
quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (năm sau phong cho con trưởng là
Nam Việt Vương); thì đến năm 1054, Lý Nhật Tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi quốc
hiệu là Đại Việt, đóng đô ở kinh thành Thăng Long. Đó quả là một bước tiến dài
trên con đường tự khẳng định mình. Khác với lần trước, lần này sau 22 năm (tức
năm 1076) bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên đã ra đời, khẳng định nước ta có vua
(Nam đế) ngang hàng với Hoàng đế phương Bắc. Quyền độc lập, tự chủ, bình
đẳng giữa các nước là một điều thiêng liêng bất khả xâm phạm, hiển nhiên
không một ai có thể chối cãi được. Bất cứ kẻ thù nào động chạm tới nền độc lập
tự chủ ấy đều không tránh khỏi chuốc lấy thất bại thảm hại.
Nam quốc sơn hà nam đế cư (Sông núi nước Nam, vua Nam ở).

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rõ ràng phân định tại sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)


Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
Sang thời Trần những tư tưởng về sự tồn tại lâu dài (Vạn Xuân) của giang sơn
đất nước, của núi sông nước Đại Việt ngày càng được khẳng định.
Chính lòng tự hào dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên những chiến công
hiển hách trước quân Tống, quân Nguyên. Và sự chiến thắng Tống - Nguyên
làm nức lòng mọi người, đưa lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước Đại
Việt lên một bước mới.
Chính cái đó nó đã làm nền sản sinh ra dòng thiền Thảo Đường thời Lý và dòng
Trúc Lâm thời Trần, đã ra đời chữ Nôm và việc dùng thuốc Nam để chữa bệnh
cho mọi người. Sự hình thành thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là hệ quả, lôgic tất
yếu để tiếp nối và hoàn tất sự nghiệp vang dội ở bến Chương Dương, cửa Hàm
Tử, sông Bạch Đằng.
Lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự cường, chủ nghĩa yêu nước còn được thể
hiện ở những tư tưởng sáng suốt của các minh quân thời kỳ Lý- Trần. Từ những
năm 1267, Nho sĩ bắt đầu được giữ quyền bính. Trong tầng lớp lãnh đạo đã phân
chia làm hai: quý tộc tôn thất nhà vua ủng hộ Phật giáo và quý tộc bàn giấy
(hành khiển) với những khuôn pháp lễ nghĩa của phương Bắc, xuất thân từ các
nhà Nho, ủng hộ Nho giáo. Đứng trước mâu thuẫn ngày càng tăng như vậy, Vua
Trần Minh Tông nói : "Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu
nghe theo kế của bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay ".
Ông phê phán bọn nhà Nho, là một Phật tử nhưng ông cũng phê phán cả bọn
theo Phật quá khích.Yêu nước gắn liền với thương dân, các triều Lý Trần đều coi
"ý dâ n", "lòng dân" là cơ sở của mọi quốc sách. Trong Chiếu dời đô, Lý Công
Uẩn khẳng định: "Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay



đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Trần Quốc Tuấn đưa ra
chính sách Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để
giữ nước. Lòng thương dân còn thể hiện ở việc phát chẩn thóc hoặc giảm thuế
khi mất mùa. Không chỉ thương dân mà còn tôn trọng dân, phát huy sức mạnh
của dân. Điều đó thể hiện qua hội nghị Diên Hồng, hội nghị Bình Than đời Trần.
Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện trong khí tiết khảng khái của các anh
hùng thời Lý Trần. Trần Quốc Tuấn trước Vua tuyên bố "Bệ hạ hãy chém đầu tôi
trước rồi hãy đầu hàng". Trần Bình Trọng bị bắt vẫn hiên ngang thét vào mặt
quân thù : "Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc".
Yêu nước có nghĩa là lấy ý muốn của dân làm ý muốn, mong muốn của mình
(Dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm). Đó cũng là tư tưởng của
ông Vua, vị thiền sư, nhà Phật tử Trần Thái Tông. Qua đây, ta thấy chủ nghĩa
yêu nước thời Lý Trần mang đậm sắc thái ảnh hưởng của Phật giáo. Điều này
cũng đúng với sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học ở thời kỳ lịch sử này
và khác với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở những giai đoạn sau.
2. Tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam (X - XIV).
Triết học Phật giáo thời kỳ X - XIV được tập trung ở hai vấn đề : bản thể và con
đường trở về bản thể.
a. Bản thể luận.
Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi đã có một loạt khái niệm có tính chất bản thể như
"thể", "diệu bản", "chân tính", "chân thân", "pháp tính", "hư vô", "tâm ấn", v.v...
Bản thể là bất sinh, bất diệt, không được không mất. Bản thể và hiện tượng như


nước và sóng.
"Chân

thân

thành


vạn

tượng

Vạn tượng tức chân thân"
Ngoài những khái niệm trên, dòng Vô Ngôn Thông còn dùng những khái niệm
sau để chỉ bản thể: “tâm”, "chân như", "Phật tính", "Pháp thân", "Hư không".
Theo họ, "Thể ư tự nhiên". Mọi vật đều có chung bản thể này. Bản thể và hiện
tượng là bất hợp, bất phân ly:
"Sắc

thân

dữ

diệu

thể,

Bất hợp bất phân ly"
Theo họ, "Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh". Đây là quan điểm duy tâm
theo đúng nghĩa của nó. Quan điểm này chi phối toàn bộ Phật giáo Việt Nam
thời Lý Trần và cả sau này. Kế thừa, phát triển những tư tưởng trên, Trần Thái
Tông đưa ra khái niệm "Không", "Hư". Trong "Khoá hư lục" ông cho rằng "Do
không khởi vọng, vọng thanh sắc, sắc tự chân không, Thị vọng tòng không,
không hiện vọng, vọng sinh chúng sắc".

"Chúng sinh ảo cấu, tòng vọng nhi sinh". Cụ thể ông nói: “Cái do niệm khởi,
duyên hội, ngũ uẩn hợp thành, thể mạo vong sinh, hình dung giả xuất”. Niệm ở

đây chính là hành, là nghiệp. Bởi vậy, mục đích trong triết học của ông là thủ
tiêu niệm "Thuỳ vô niệm thuỳ vô sinh".
Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là "Bất nhã thiện căn", "Bồ đề giác tính", "Bản
lai diện mục". Những cái này ai ai cũng có, nhưng vì tham sân si mà đánh mất


chúng.
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) đã dùng khái niệm "bản thể" và cho rằng
"bản thể như nhiên tự không tịnh". Như vậy, bản thể tự không tịnh, tồn nhiên
như nhiên, hồn nhiên muôn đời, chẳng được chẳng mất. Ông còn nói: "Bản thể
như như chỉ tự nhiên", tức bản thể là cái tự nhiên như thế là như thế, không phải
cầu ở đâu cả.
Nếu Trần Thái Tông dùng "Bản lai diện mục" thì Tuệ Trung dùng "Nương sinh
diện" (mặt người mẹ). Bản thể còn là điểm bắt đầu, là gốc (mô lai tị). Không thể
dùng "trí" mà biết được bản thể, không thể dùng thức mà hiểu được bản thể. Nếu
ở Trần Thái Tông từ không khởi vọng, vô minh, niệm thì ở Tuệ Trung, từ không
(vô) xuất hiện huyễn hoá (ảo hoá, vô minh) phân thành nhị kiến.
"Thân

tông



tướng

bản

lai

không


Huyễn hoá phân sai thành nhị kiến"
Xuất hiện vô minh cũng là xuất hiện nhị kiến, có nhị kiến là do vô minh, thủ tiêu
nhị kiến thì vô minh tự diệt. Do đó, nhiệm vụ của Trần Thái Tông là thủ tiêu
niệm, còn ở Tuệ Trung là thủ tiêu nhị kiến (Vong nhị kiến).

Để chỉ bản thể, Trần Nhân Tông dùng khái niệm "bản" vì khuây bản (quên mất
gốc) nên mới tìm Bụt vì Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa. Nếu những khái
niệm chỉ bản thể ở trên cho ta mường tượng nó tồn tại ở khắp mọi nơi thì đến
Trần Nhân Tông ta có cảm giác nó chỉ tồn tại trong con người. Và bản cũng
chính là tâm, lòng, Phật, báu vật trong mỗi người mà họ không biết. Phật, Tịnh
độ là lòng trong sạch. Nếu ở Trần Thái Tông dùng Bồ đề giác tính thì Trần Nhân


Tông dùng tính sáng (giác tính), đối lập với vô minh. Ông kêu gọi trở về một
lòng, nhất tâm. Ông cho rằng chỉ vì phân biệt kén chọn, nên sinh ra lắm mối
nhiêu giềng (dường). ở đây ta thấy phân biệt kén chọn cũng là nhị kiến ở Tuệ
Trung. Như vậy, tư tưởng là một, nhưng những thiền ngữ ở Thái Tông bóng bẩy
hơn, của Tuệ Trung mạnh mẽ, mãnh liệt hơn, còn ở Nhân Tông thực tế hơn,
chững chạc hơn.
b. Con đường trở về bản thể.
Muốn trở về với bản thể, theo thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi là phải quay đầu vào
trong, đừng vướng vào có không; còn thiền phái Vô Ngôn Thông, phải hội đắc
được chân như, đạt đến tâm không, hư vô tâm. Dĩ nhiên, trước hết và đầu tiên
phải tu dưỡng đạo đức, cái mà Phật giáo gọi là giữ giới. Tiếp theo giai đoạn giới
là định. Không thể có định, có sự tập trung cao độ của tinh thần, tư tưởng, nếu
thân và tâm không trong sạch. Khi đầu óc cháy bỏng bởi những khát vọng, ham
muốn, tham lam, ích kỷ; khi tâm hồn bị thiêu đốt bởi dục vọng; khi tâm tính mịt
mù, mờ mịt, thì không thể có một nhận định thực sự khách quan, trung thực,
chính xác, đúng đắn về sự vật hiện tượng được. Bởi vậy, giới (tu dưỡng đạo đức)

là điều kiện không thể t hiếu được cho việc tập trung tinh thần (định). Mà có tập
trung tinh thần thì mới có trí tuệ được. Có trí tuệ thì mới trở về, thể nhập với bản
thể,tức ngộ hay giải thoát. Do đó, giới định tuệ trong Phật giáo liên hệ mật thiết
với nhau, bổ xung cho nhau, làm điều kiện cho nhau để đi đến giải thoát.
Trần Thái Tông kêu gọi quay đầu lại trở về quê hương, buông thả tâm thì chìm
sâu địa ngục; phải hồi quang phản chiếu, vô khổ ngoại cầu; phải biện tâm, kiến
tính. Để trở về với bản thể, Trần Thái Tông đưa ra hệ thống luyện tập gọi là "Lục
thì sám hối khoá nghi tự" chia một ngày đêm làm sáu buổi, mỗi buổi xám hối


một căn, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, dần dần nó biến
tâm hành giả thành hư vô - cái bản thể không thể hiện ở mỗi con người. Để trở
về với bản thể, Thượng Sĩ dùng phương pháp vong nhị kiến, buông bỏ tất cả
(phá chấp) từ đó sẽ có một cuộc sống ung dung tự tại (phóng cuồng). Trở về bản
thể đối với Trần Nhân Tông là phải đến một lòng, nhất tâm, diệt vô minh (giữ
tính sáng).
Nhìn chung, triết học Phật giáo (X- XIV), đặc biệt thời Lý Trần là triết học duy
tâm theo đúng nghĩa của nó.
V. Tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XV đến 1858
1 Thời Lê sơ
Sau khi đánh tan quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, một tầng lớp địa chủ quan liêu
mới ra đời, chế độ quân điền ức thương được thi hành. Kinh tế xã hội chủ yếu
vẫn là nông nghiệp - nông thôn - làng xã. Khác với thời Trần, các công thần thời
Lê sơ được trao chức, chứ không phong tước, chia đất; Nho sĩ chiếm số lượng
lớn trong đội ngũ quan liêu; từ đó tạo ra một bộ máy quan liêu hành chính.
Do yêu cầu muốn độc tôn Nho giáo nên Phật giáo ngày càng đi xuống, dồn về
những vùng nông thôn làng xã. Thời Lê sơ, Nho giáo chi phối hầu hết mọi lĩnh
vực, trước hết trong hệ thống giáo dục từ địa phương đến triều đình. Lê Thánh
Tông cho lập bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám. Thời Lê sơ, Nho giáo là hệ tư tưởng
chủ đạo. Làng nước lấy "hiếu" làm trục hoành, "trung" làm trục tung để giàng

buộc, liên kết, tự điều chỉnh, làm chất keo dính chặt mọi thành viên trong xã hội.
Tư tưởng Nho giáo thời Lê sơ ảnh hưởng ở khía cạnh đạo đức, ứng xử, văn học,
còn khía cạnh triết học, triết lý thì rất hạn chế. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa


Lam Sơn đã đưa vấn đề con người, dân tộc nổi trội lên hàng đầu. Để minh hoạ
điều này, ta đi sâu vào một nhà tư tưởng tiêu biểu là Nguyễn Trãi (Qua những
tác phẩm của ông, chẳng hạn như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô,
ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, v.v.).
Quan niệm về quốc gia, dân tộc ở Nguyễn Trãi đã tiến lên một bước quan trọng
khi ông xác định "Quốc" bằng lãnh thổ, văn hoá, phong hoá,và lịch sử.
Về lãnh thổ, ông cho rằng ngay từ xưa Giao Chỉ đã không phải lãnh thổ Trung
Quốc, ở ngoài cương giới Trung Quốc. Ông chỉ rõ: "Nước An Nam xưa bị Trung
Quốc xâm chiếm là từ Tần, Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc
có núi cao sông lớn, bờ cõi rành rành".
Về văn hiến, theo ông, tuy An Nam ở ngoài Ngũ Lĩnh mà có tiếng là nước thi
thư, những bậc trí mưu tài giỏi đời nào cũng có.
Về văn phong, tập quán là hoàn toàn khác Trung Quốc từ hàm răng mái tóc,
cách thức ăn mặc cho đến cưới xin, ma chay, giỗ tết, đình đám, hội hè, cách làm
ăn sinh sống. Ông nói: "Người nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục
của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong
nước"(Dư địa chí).
Lịch sử dân tộc ta rất oai hùng qua nhiều triều đại với những hoàng đế riêng và
nhiều anh hùng hào kiệt. Nước ta là một quốc gia độc lập. Ai xâm phạm tới,
trước sau sẽ chuốc lấy sự thất bại.
"Xét
Thật
Bờ

nước


cõi

Đại
một
sông

Việt

ta

nước

văn

hiến

núi

đã

riêng


Phong
Trải

tục
Triệu,


Bắc
Đinh,

Lý,

Nam
Trần

cũng

nối

đời

khác
dựng

nước

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi đàng làm đế một phương
Tuy

mạnh

yếu



lúc


khác

nhau

Mà hào kiệt không bao giờ thiếu".
Đây là quan niệm rõ ràng và tương đối hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc, về chủ
quyền ngang hàng với phương Bắc của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Đây cũng là
bản tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc ta ở thế kỷ XV.
Vấn đề con người trong tư tưởng Nguyễn Trãi được tập trung ở khái niệm nhân
nghĩa và đạo làm người.
Nhân nghĩa ở ông là một đường lối, chính sách cứu nước và dựng nước, trong
kháng chiến chống giặc cũng như trong xây dựng hoà bình. "Kẻ nhân giả lấy
yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều", "Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy
trí nhân làm thay đổi cường bạo", cao hơn nữa, nhân nghĩa còn là cơ sở của
đường lối, chuẩn mực của ứng xử, giải quyết mọi việc, nó là phương pháp luận
cho mọi suy nghĩ, hành động. "Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng
làm của"; "Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải
lấy nhân nghĩa làm đầu". (Lại thư trả lời Phương Chính).
Nhân nghĩa còn thể hiện ở việc tha cho hàng binh để tuyệt mối chiến tranh sau
này, để tiếng thơm muôn thuở.Tư tưởng nhân nghĩa còn thể hiện ở việc lên án
chiến tranh, yêu hoà bình: "Đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy
hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến".
Tư tưởng nhân nghĩa của ông còn thể hiện ở tư tưởng lấy dân làm gốc: "Chở


thuyền và lật thuyền cũng là dân","Dân như nước", "Theo ý mình mà ức lòng
người, tất đến trăm năm oán giận". Từ đó "Dân tâm" (lòng dân) đã trở thành cơ
sở cho chủ nghĩa nhân đạo của ông.
Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã đạt đến tư tưởng nhân đạo
cao cả.

Chủ nghĩa nhân đạo này dựa trên một số tư tưởng có tính chất duy vật ở ông,
chẳng hạn "Đói rét thiết thân thì không đoái gì đến lễ nghĩa" (Tấu cầu phong),
"Một buổi không có ăn, cha con hết tình nghĩa" (Lại thư cho Vương Thông),
khiến cho nó mang tính hiện thực, tích cực, toàn diện. Chính vì vậy, ông chủ
trương dẹp xong quân giặc, chia nửa số quân về làm ruộng.
Đạo làm người ở ông là phải vươn tới mẫu người quân tử, hào kiệt, đại trượng
phu, phải có ba đức tính: nhân, trí, dũng.
Đạo làm người của ông được phát triển từ đạo làm người của Nho, nhưng lại
khác Nho ở chỗ trung không phải là trung với một triều đại, một ông vua, mà là
trung với nước, nhân không phải là lòng thương người chung chung mà là
hướng vào người nghèo khổ, là yêu dân, cứu dân. Như vậy, ông đã phát triển
đạo làm người của Nho giáo trong điều kiện giữ nước và dựng nước lúc bấy giờ.
Ông đã tìm thấy mối quan hệ nhân quả giữa các sự vật hiện tượng, đặc biệt khi
phân tích nguyên nhân của chúng. "Phúc hay hoạ đều có manh mối từ lâu, không
phải gây nên bởi một ngày". Ông nói: "Xem việc làm như thế nào, xét duyên do
vì sao lại như thế, sự vui vẻ do đâu mà có. Thế thì nhân tình thực dối thế nào,
mảy may cũng không thể che dấu được" (Lại thư cho Vương Thông, Sơn Thọ).
Ông đã nhìn thấy và giải quyết tốt mối liên hệ chằng chịt giữa cái nhỏ và cái lớn,


giữa việc gần và việc xa, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, khi ông nói:
"Không thấy việc nhỏ mà hại việc lớn, không lấy nhìn gần mà lãng nhìn xa"
(Lam Sơn thực lục). Sự vật, hiện tượng, con người luôn biến đổi (mệnh không
thường), việc đời phức tạp (trời khó khăn) nên phải nghĩ chỗ khó mà mưu việc
dễ. Công khó thành mà dễ hỏng nên phải cẩn thận lúc đầu mà tỉnh về sau. "Phải
coi chừng mối hoạ loạn có khi do yên ổn mà nên. Phải đón ngăn ý kiêu sa có khi
do sung sướng mà đến". Nếu cần phải "nghĩ giữ nước từ khi chưa nguy", "Phải
cẩn thận lúc trước để tính lúc sau, phải làm nên việc lớn từ việc nhỏ".
Giữa chủ quan (lòng người, ý người, ý dân, sức người, sức dân) và khách quan
(lẽ trời, vận trời, sức trời, lòng trời - xu thế lịch sử khách quan, xu thế thời đại)

có mối liên hệ biện chứng. "Trên hợp lòng trời. Dưới hợp lòng người". Trong hai
cái đó, mặc dù dưới dạng thần bí nhưng ông đã thấy ra cái thứ hai là cơ sở quy
định cái thứ nhất. "Phải thuận được lòng trời mới hợp được lòng người". Khi đã
hiểu ra cái thứ hai thì phải lượng sức mình, hiểu đúng thực lực của mình, từ đó
nâng cao tính năng động để đạt đến mục đích. Chẳng hạn như Lê Lợi dựng nước
cơ nghiệp là do "Biết người biết mình, hay yếu hay mạnh", "đã do trời mà biết
thời, lại có trí để công thành" (Phú núi Chí Linh). Chính cái này đã chống lại chủ
nghĩa duy tâm về mệnh trời thần bí trong Nho giáo.
Chính vì phân tích mối liên hệ chủ quan và khách quan đúng đắn mà ông tìm ra,
phát hiện thời cơ. Thời là lúc hoàn cảnh khách quan thuận lợi để hoạt động chủ
quan con người đạt đến kết quả không ngờ. Ông kêu gọi "Thời sao, thời sao!
Thực không nên lỡ". Từ hiểu thời, thời mới thông biến. Đó là điều đáng quý ở
người quân tử. Mặt khác, phải tạo dựng lực lượng chủ quan để đón thời, tức tạo
"thế", vì có thời mà không có thế thì thời cơ đến sẽ bỏ lỡ mất. "Được thời có thế
thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu,


×