Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

công tác xây dựng đảng thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.5 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU....................................................................................................................2
NỘI DUNG................................................................................................................3
I. Bối cảnh lịch sử trước “Đổi mới”....................................................................3
II.
Q trình đổi mới tư duy, lí luận của Đảng ta..............................................7
2.1. Đổi mới tư duy lí luận của Đảng về kinh tế..............................................7
2.1.1. Q trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về mơ hình kinh tế - kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay....................7
2.1.2. Q trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về cơ cấu kinh tế và cơ
chế quản lí kinh tế..........................................................................................10
2.2. Đổi mới tư duy lí luận của Đảng trên lĩnh vực chính trị.........................14
2.3. Đổi mới tư duy lí luận của Đảng trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội và xây
dựng con người..................................................................................................17
2.3.1. Về nhân tố con người và xây dựng con người mới..........................17
2.3.2. Phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ............................19
2.4. Đổi mới tư duy lí luận của Đảng trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh
và đối ngoại.......................................................................................................21
2.4.1. Nhận thức mới của Đảng về nhiệm vụ, chiến lược bảo vệ tổ quốc....21
2.4.2. Tư duy của Đảng về đường lối, chính sách đối ngoại.........................22
KẾT LUẬN..............................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................25

1


MỞ ĐẦU
Xuất phát từ tình hình thực tế xã hội của đất nước vào thập niên 80 của thế
kỷ trước; từ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội của Đảng,
từ bản chất cách mạng và khoa học của lý luận Mác - Lênin, đứng trước xu thế tồn


cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực đời sống, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm. Cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội. Để đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải
đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đổi mới tư duy lí luận là vấn đề cơ bản,
lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. “Đảng phải thường
xun tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội mà trước hết là đổi mới tư
duy, lí luận để nâng cao trình độ và năng lực lí luận của Đảng cầm quyền”..
Đối với nước ta, đổi mới là con đường vươn lên để tự khẳng định mình trước
thế giới hiện đại, là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn. Nhận
thức được tầm quan trọng của đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy, lí luận, trong
khn khổ của bài tiểu luận, tôi tập trung nghiên cứu vấn đề “Q trình đổi mới tư
duy, lí luận của Đảng ta từ 1986 đến nay”.

2


NỘI DUNG
I.

Bối cảnh lịch sử trước “Đổi mới”
1. Thế giới
Cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ

nghĩa (XHCN) đều lần lượt lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Đây là cuộc
khủng hoảng “có tính chất mơ hình”, CNXH mà các nước đang xây dựng, thực chất
là CNXH thời chiến, chủ yếu bắt nguồn từ kinh nghiệm của Liên Xô, từng thích
hợp với những điều kiện đặc biệt của nước Nga Xơ Viết, nhưng lại được coi là mơ
hình duy nhất, phổ biến cho tất cả các dân tộc khi lựa chọn con đường phát triển
theo CNXH. Ở các nước XHCN đều lần lượt diễn ra quá trình cải tổ, cải cách, đổi

mới… dù tên gọi khác nhau, nhưng đều giống nhau ở thực chất sửa chữa mơ hình.
Từ góc độ mơ hình nhìn lại, cuộc khủng hoảng mơ hình chỉ bùng phát đồng loạt
vào những năm cuối thế kỷ trước, nhưng trước đó, cuộc khủng hoảng ở Hunggari
năm 1956, ở Tiệp khắc năm 1968, ở Ba Lan năm 1980 và ngay ở nước Nga Xô
Viết.
Dù kết quả điều chỉnh về sau có khác nhau, trào lưu cải tổ, đổi mới, cải cách,
… đã phản ánh một nhu cầu khách quan, giúp tháo dỡ một rào chắn to lớn về nhận
thức và tạo khơng khí thuận lợi cho việc phát triển công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) cũng đang diễn ra những thay đổi to
lớn do tác động không thể cưỡng lại và phản ứng dây chuyền của cuộc cách mạng
khoa học – cơng nghệ: xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống quốc tế, sự hợp
tác – phân công giữa các nước, các nền kinh tế, hình thành thị trường quốc tế và
khu vực; sự thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới theo hướng mở, sự thay bậc đổi ngôi
giữa các ngành kinh tế, không phải lúc nào và ở đâu công nghiệp nặng cũng là ưu
tiên hàng đầu, sự ra đời và chiếm lĩnh vị thế của các ngành mới: điện tử, tin học,
vật liệu mới, công nghệ sinh học, du hành vũ trụ; xu thế rút ngắn con đường phát
3


triển với sự nổi lên của những nước công nghiệp mới ở Châu Á. Thế giới đang đổi
thay.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra như vũ bão, cuốn
hút tất cả các nước ở các mức độc khác nhau, có tác động mạnh mẽ đến bước phát
triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất, đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến
việc hình thành các mối quan hệ qua lại nhiều mặt, vừa đối lập, cạnh tranh nhau,
vừa nương tựa, phụ thuộc lẫn nhau. Nền sản xuất vật chất và xã hội đang trong q
trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống
của các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các dân tộc,
vừa đặt ra những thách thức gay gắt, đặc biệt là các nước XHCN. Nếu khơng đổi
mới, cải cách mở cửa đề hịa nhịp với xu thế chung của thời đại thì sẽ bị tụt hậu so

với các nước TBCN.
Các nước xã hội chủ nghĩa đã từng gây những ảnh hưởng tích cực, đa chiều
đến sự đổi thay, điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản (CNTB) thì giờ đây, những đổi
thay ở các nước TBCN dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ đang
tác động ngày càng rõ rệt đến các nước XHCN, giống như một sự đối sánh, yêu cầu
các nước XHCN dần điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại.
2. Trong nước
Năm 1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả
nước độc lập, thống nhất, làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Tuy đã đạt được một số thành tựu và tiến bộ đáng kể nhưng cách mạng
cũng gặp khơng ít khó khăn và yếu kém.
Qua mười năm đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, vượt
qua mn ngàn khó khăn, thử thách, Đảng và nhân dân ta đã giành được những
thành tựu quan trong trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc: Tiếp quản và ổn
định vùng giải phóng, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, cấu trúc
4


lại toàn bộ nền kinh tế trên cả hai miền, chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu được
xây dựng, hoạt động phục vụ chiến tranh sang hịa bình xây dựng. Những mất cân
đối trong nền kinh tế: thu – chi, xuất – nhập, sản xuất – tiêu dùng,… được thu hẹp
hơn. Cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH được xây dựng, bắt đầu phát huy tác dụng
đối với nền kinh tế. An ninh chính trị được đảm bảo, độc lập và chủ quyền quốc gia
được giữ vững. Đặt trong hoàn cảnh một đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đây là những thành tựu quan trọng, thể hiện cố gắng rất lớn
của toàn Đảng toàn dân ta.
Tuy nhiên, từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đặc biệt
là từ sau cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Nam (1978) và sự bùng

phát đồng thời của chiến tranh biên giới Tây – Nam, tình hình đất nước khó khăn
gay gắt. Sản xuất chậm phát triển, không theo kịp với mức tăng dân số quá nhanh.
Sự cắt giảm viện trợ đột ngột từ bên ngoài trong khi nền kinh tế trong nước không
đủ nội lực khiến đất nước thiếu nghiêm trọng nguyên, nhiên vật liệu, hàng tiêu
dùng. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt lại gay gắt
thêm. Lạm phát lên tới mức phi mã, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, những
hiện tượng tiêu cực lan tràn, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của nhà nước suy giảm.
Trên thực tế, từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ kỷ XX,
đất nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, thậm
chí có cả những dấu hiệu khủng hoảng về chính trị .
Những yếu kém, tiêu cực trong đời sống đất nước là do tác động tổng hợp
của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguồn gốc sâu xa của căn bệnh
khủng hoảng chính từ những khuyết điểm trong của mơ hình CNXH (gồm cả mơ
hình mục tiêu và mơ hình bước đi, cách thức thực hiện mục tiêu) mà chúng ta đang
áp dụng. Đó là CNXH thời chiến từng cần thiết và thích hợp trong hồn cảnh miền
Bắc có chiến tranh, nhưng khi đất nước đã chuyển sang bước ngoặt mới: hịa bình điều kiện cho việc áp dụng mơ hình này đã khơng cịn, việc kéo dài và phổ biến mô
5


hình (trong những năm 1975 – 1986 từ miền Bắc và phổ biến cả ở miền Nam) đã
dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội.
Sai lầm của ta trước tiên trong sự nơn nóng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, ở
việc đề ra phương châm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách duy ý chí: nhanh, mạnh,
vững chắc… Vì vậy, khi thực hiện đã khơng tn thủ tính trình tự lịch sử, dẫn đến
“vi phạm quy luật khách quan”.
Trong cải tạo, ta nơn nóng muốn cải tạo nhanh, đồng nhất cải tạo với xóa bỏ,
cũng với mong muốn xóa bỏ nhanh, dứt điểm các thành phần kinh tế tư nhân và cá
thể, bất kể nó cịn hay khơng còn tác dụng thúc đẩy sản xuất, nên khi thực hiện đã
đẫn đến sai phạm “nguyên tắc tự nguyện”.

Trong công nghiệp hóa, chúng ta cũng nơn nóng muốn đẩy mạnh quá mực
việc xây dựng công nghiệp nặng, “ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng”, muốn
hiện đại hóa nền kinh tế vốn nhỏ bé, lạc hậu, phân tán của ta nhanh chóng trở thành
nền kinh tế cơng – nơng nghiệp hiện đại, nên đã đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật, lao
động, xây dựng theo quy mô lớn nhiều cơ sở công nghiệp nặng trong điều kiện đất
nước cịn nhiều khó khăn to lớn, chưa có sẵn những tiền đề cần thiết.
Sai lầm của chúng ta còn thể hiện ở việc đặt ra trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước với nhiều chỉ tiêu, mục tiêu quá lớn, quá cao so với
khả năng của đất nước, và ở việc mong muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục
tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta đang ở những chặng đường đầu tiên.
Từ sau Đại hội Đảng IV (1976) đến Đại hội Đảng V (1982), dù có những bổ
xung và điều chỉnh, nhưng quan niệm về CNXH và cách thức xây dựng nó về cơ
bản vẫn là sự kéo dài mơ hình đã áp dụng trong những năm 1954 – 1975 ở miền
Bắc. Hơn nữa, việc phổ biến mơ hình này ra cả nước tỏ ra khơng thích hợp vì điều
kiện kinh tế - xã hội Miền Nam không giống những điều kiện lịch sử của miền Bắc
sau năm 1954.
Những sai lầm đó đã gây nên và làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội, khơng phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo của quần chúng,
6


không tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển năng động của kinh tế xã hội.
Để khắc phục sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và
đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng XHCN tiến lên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
đổi mới. Đầu tiên là đổi mới tư duy lí luận trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã
hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại.
II.

Q trình đổi mới tư duy, lí luận của Đảng ta
2.1.


Đổi mới tư duy lí luận của Đảng về kinh tế

2.1.1. Quá trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về mơ hình kinh tế - kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay
Đổi mới và hoàn thiện tư duy lí luận và quan niệm về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều
bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và toàn diện trên tất cả các mặt quan hệ sở hữu, quản lí và phân phối nhằm đảo
bào phù hợp với lực lượng sản xuất và kiến trúc thường tầng. Lực lượng sản xuất
ln được ưu tiên phát triển.
Q trình phát triển tư duy lí luận ln gắn với thực tiễn. Đổi mới và hồn
thiện tư duy lí luận về mơ hình kinh tế - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phải trên cơ sở kết hợp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhận thức quá trình
phát triển kinh tế trên thực tế, đồng thời kết hợp với sự nhận định, đánh giá đúng
những xu thế, những nhân tố quan trọng của thời đại nhằm tạo ra những đột phá về
tư duy lí luận. Lí luận về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986)
đã xác định dứt khóat phải từ bỏ những nhận thức sai lầm, những quan điểm lỗi
thời, lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử mới của
Việt Nam và thời đại để vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
7


Chí Minh về chủ nghĩa xã hội; phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử mới của
Việt Nam và thời đại để vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà vấn đề trọng tâm là phải vượt qua mô hình chủ nghĩa xã
hội cũa để xác lập mơ hình chủ nghĩa xã hội mới ở Việt Nam, mơ hình hướng sự

phát triển của đất nước đi tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như vậy để khắc phục
được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình nhận thức, Đảng Cộng sản Việt
Nam phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Sự gợi mở ấy là hết sức quan trọng
và có ý nghĩa đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đại hội VI của Đảng thực sự là Đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay
chuyển tình hình, tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển đất nước. Đại hội cũng xác
định nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế, xã hội, tiếp tực xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo.”1
Rút kinh nghiệm của đại hội V, Đại hội VI đã không đề ra một giới hạn nhất
định khi nào kết thúc chặng đường đầu tiên, mà cái mốc đánh dấu chặng đường đầu
tiên kết thúc là đạt được năm mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội mà đại hội VI đã đề
ra.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã đề
ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới: phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc
kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố
con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Hội nghị Trung ương VI (3/1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 42-43

8



nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội” và thực hiện tinh thần
dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người được tự do, làm ăn theo pháp luật.
Đại hội VI tập trung nguồn lực cho thực hiện ba chương trình mục tiêu:
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình mục
tiêu này cụ thể hóa nội dung chính của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bước đầu
sản xuất có tính yếu tố đầu vào, đầu ra…
Đại hội VII của Đảng với sự kiện định chủ trương: phát triển kinh tế xã hội
theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trọng một xã hội nhân
dân làm chủ, có kỉ cương, có văn hóa, xóa bỏ áp bức, bất cơng, tạo điều kiện cho
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Xác định nền kinh tế nước ta là
nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thức đẩy
mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội và nền kinh tế vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng pháo luật, kế hoạch, chính sách
và các cơng cụ khác.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đã xác định rõ hơn mơ hình kinh tế tổng quát
của nước ta. Đó là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và đề ra mục
tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với lực
lượng sản xuất tương đối hiện đại. Về quan hệ sản xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản
lí và chế độ phân phối gắn kết với nhau.
Đại hội lần IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001) đã chỉ rõ: Thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

9



Mơ hình kinh tế về cơ bản vẫn kế thừa những nội dung trước đó, nhưng nội
hàm đã được mở rộng hơn. Nó là một hệ thống thống nhất giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Trong đó vị
trí, chức năng, các mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là một thiết chế độc lập
với thị trường và với tư cách là một thực thể kinh tế lớn” trong nền kinh tế đã được
xác định đúng đắn hơn qua từng giai đọan phát triển, từ đó các cơng cụ, chính sách
của Nhà nước tác động và điều tiết nền kinh tế trở nên hiệu quả hơn, hồn tồn có
khả năng dẫn dắt và định hướng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nhận thức và lựa chọn mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là
sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội mà là sự nắm bắt
và vận dụng xu thế khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay.
2.1.2. Q trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về cơ cấu kinh tế và cơ chế
quản lí kinh tế
* Q trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Nền kinh tế quốc dân có hai mặt cơ bản là cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lí
kinh tế. Sự phát triển, hồn thiện và mối quan hệ giữa hai mặt này quyết định toàn
bộ sự vận động và phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế với vị trí, tỉ
trọng và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Cơ cấu kinh tế được xem xét trên nhiều
góc độ khác nhau như: ngành quy mơ, cơng nghệ…
Cơ chế quản lí kinh tế xét theo nghĩa hẹp là cơ chế vận hành của nền kinh tế,
là tổng thể sự tác động của chủ thể quản lí vào nguồn kinh tế để khơi nguồn sáng
tạo, khuyến khích và định hướng sự phát triển của nền kinh tế nhằm thực hiện mực
tiêu.
Cơ cấu kinh tế quyết định cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế quản lí kinh tế tác
động trở lại, góp phần hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế quyết định khả
10



năng, xu hướng, tốc độ phát triển của nền kinh tế, đồng thời, cơ cấu kinh tế ở mỗi
giai đọan cũng phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế trong giai đọan đó.
Nhận thức rõ về cơ cấu kinh tế và yêu cầu phải chuyển đổi, phải xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lí trong q trình phát triển nền kinh tế, Đảng ta từ rất sớm đã chú
trọng đến vấn đề này. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư
của Đảng (12/1986) đã đề cập đến cơ cấu kinh tế và đường lối xây dựng cơ cấu
kinh tế mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã nhấn mạnh nước ta đang ở
trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung kinh
tế của chặng đầu là cung cấp đủ sản phẩm tất yếu, tối thiểu cho tồn xã hội. Đó là
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng…
Cũng từ đại hội này, chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của xuất khẩu trong
q trình xây dựng cơ cấu kinh tế, đó là cầu dẫn cho quan hệ công – nông nghiệp,
sử dụng thế mạnh sức lao động dồi dào, tạo nên công ăn việc làm, tăng thu nhập,
nâng cao đời sống cho người lao động. Nhận thức của đại hội Đảng về cơ cấu kinh
tế trong giai đoạn này về cơ bản vẫn giống như đại hội IV, vẫn đặt mục tiêu hoàn
thành kinh tế tư nhân, cá thể.
Hội nghị Trung ương VI Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3/1989) đã
đổi mới cơ chế sử dụng vốn đầu tư một cách hợp lí. Hội nghị Trung ương khóa VI
đã đưa dịch vụ vào nền kinh tế quốc dân và chỉ rõ trong Nghị quyết rằng: phát triển
họat động dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh và đời sống thành một bộ phận quan
trọng trong cơ cấu kinh tế. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy xây dựng cơ cấu
kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã hoạch định
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư duy lí luận về cơ cấu kinh tế được phản ánh trong cương lĩnh đánh dấu
bước tiến dài dựa trên sự tổng kết mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc cũng như trong phạm vi cả nước. Cương lĩnh xác định: khi kết thúc thời kì quá

11


độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế cơng nghiệp với cơ cấu kinh tế công – nông
nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Đại hội VIII (6/1996) đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, khẳng định nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho thời kì quá độ ở chặng đường đầu là chuẩn bị cho cơng nghiệp
hóa trở thành tiền đề chuyển sang thời kì mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (khóa IX) nêu 4 chủ trương lớn: phát
triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển kết cấu hạ tầng và đơ thị hóa nơng thơn;
xây dựng đời sống văn hóa và phát triển nguồn nhân lực tạo ra bước ohát triển mới
trong nhận thức.
*Quá trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng trong cơ chế quản lí kinh tế
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ
Cơ chế quản lí kinh tế ở nước ta theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Đại hội IV của Đảng
khẳng định: Chúng ta chức có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính
sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ - tín dụng, lương …
Đại hội VI thể hiện bước tiến vượt bậc, đại hội đã chỉ rõ: phương hướng đổi
mới cơ chế kinh tế đã được khẳng định là xóa bỏ tập trung, quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với quy luật phát triển của
nền kinh tế. Và khẳng định: thực chất của cơ chế mới về quản lí kinh tế là cơ chế
kế hoạch hóa theo phương thức hạch tóan kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội coi đây là một quá trình cải cách có ý nghĩa
cách mạng sâu sắc, là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và mới. giữa cái tiến bộ và lạc
hậu… đổi mới doanh nghiệp nhà nước và chính sách tài chính tiền tệ trở thành
trọng tâm của cơ chế quản lí kinh tế. Chính sách tài chính tiền tệ có vai trị trọng


12


yếu trong việc chuyển các họat động kinh tế sang cơ chế hạch toán kinh doanh, đấy
tranh chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền.
Kết quả ban đầu đạt được trong hai năm 1987 – 1988 đã khẳng định sự đúng
đắn của đường lối đổi mới. Họat động sản xuất kinh doanh khơng cịn bị ngăn sơng
cấm chợ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh…
Tuy nhiên,, tiến bộ đạt được chưa đồng bộ và chưa cơ bản, nhiều chủ trương
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế chậm được thể chế háo hoặc mới ở hình thức sơ
khai, chưa thể phát huy tác dụng. Tình hình kinh tế cịn nhiều gay gắt, chưa thốt ra
khỏi khủng hoảng kinh tế.
Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI (khóa VI) diễn ra
vào giữa giai đọan thực hiện nghị quyết của Đại hội VI (3/1989) đã có bước ngoặt
về nhần thức, lí luận khi thừa nhận cơ chế quản lí mới là cơ chế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm trên cho thấy,
cơ chế quản lí mặc dù vấn giới hạn trong một nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch,
nhưng đã thừa nhận cơ chế thị trường và sự vận dụng công cụ của cơ chế thị trường
trong quản lí. Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ gắn với cơ chế quản lí thị
trường; đồng thời, thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ thắt chặt để chống lạm
phát.
Những cải cách về cơ cấu quản lí kinh tế nói chung đã góp phần đạt được
những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Những thành tựu đạt được mới chỉ là
bước đầu, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội. Lạm phát vẫn
cao, nền kinh tế cơ bản vẫn chưa có tích lũy. Cơ chế kinh tế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước vẫn chưa đồng bộ và vận hành cịn nhiều khiếm khuyết.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(1991) đã đề ra nhiệm vụ: đẩy lùi và kiểm soát được làm phát, ổn định và phát

triển, nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời
sống nhân dân, bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
13


Đại hội chủ trương tiếp tục đẩy mạnh ba chương trình kinh tế, phát huy sức
mạnh của các thành phần kinh tế, tiến bộ khoa học kĩ thuật và cơ chế quản lí kinh tế
mới mà Đại hội VII quan niệm là “cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước”
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ kinh tế khác. Quan niệm về thị
trường và cơ chế thị trường rõ ràng và đầy đủ hơn so với trước. Từng bước hình
thành và mở rộng đồng bộ hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn
và tiền tệ, thị trường ngoại hối…xóa bỏ triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường
theo địa giới hành chính, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Vượt
qua những khó khăn liên tiếp ở giai đọan 1990-1991, giai đọan sau đó, với chính
sách phát triển kinh tế hợp lí, nền kinh tế nước ta đã dần dần ổn định và có bước
tiền mới, đúng như mục đích cải thiện và đưa kinh tế phát triển đi lên mà ta đề ra.
2.2.

Đổi mới tư duy lí luận của Đảng trên lĩnh vực chính trị

Từ nhu cầu thực tiễn, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước. Toàn diện tức là đổi mới tất xả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả
kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Tổng kết 5 năm đầu tiên đổi mới (1986 – 1991), Đại hội VII của Đảng đã rút
ra một trong những kinh nghiệm là: đổi mới tồn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng
phải có bước đi, hình thành cách làm phù hợp… Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế….Đồng thời với đổi
mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức họat động của hệ
thống chính trị….việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên
cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối

loạn. Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành chậm chễ đổi mới, thống nhất chính trị,
nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân.
Ở Đại hội VI, sau thực tiễn đổi mới kinh tế và ổn định, đổi mới chính trị 10
năm đầu đổi mới đã được Đại hội VIII của Đảng đúc kết thành một trong sáu bài

14


học là: Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời cũng từng bước đổi mới chính trị.
Kết luận của Đại hội VIII định hướng cho việc đổi mới kinh tế, đổi mới
chính trị và kết hợp chặt chẽ hai quá trình đổi mới này trong gần 10 năm qua. Đó là
hàng loạt đổi ới trong nhận thức và thực tiễn đổi mới về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về quy chế dân chủ cơ sở, về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng. Sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được thực hiện
đồng bộ, tương đối ăn khớp, vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy lẫn nhau.
Một biểu hiện cho sự kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị là việc Hội Nghị Trung ương 5 (khóa IX) (tháng 2/2002) thảo luận ra đồng thời
năm Nghị quyết, trong đó có ba nghị quyết về kinh tế và hai nghị quyết về lĩnh vực
chính trị, tư tưởng. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới
nhằm điểu chỉnh những lệch lạc trong đổi mới cả về kinh tế và chính trị.
Khái niệm “hệ thống chính trị” được Đảng ta chính thức sử dụng từ Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI, từ đó khái niệm này được các văn kiện của Đảng và
Nhà nước, các tài liệu khoa học, sách báo thay cho khái niệm “hệ thống chun
chính vơ sản” trước đây. Trên tinh thần của Đại hội VI, đổi mới hệ thống chính trị
trở thành nội dung trọng yếu và trực tiếp của đổi mới chính trị.
Về mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị, chỉ hơn hai năm kể từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do đại hội VII thơng qua đã ghi rõ: tồn bộ tổ chức và hoạt

động của hệ thỗng chính trị nước ta trong giai đọan mới là nhằm xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hộ chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng cũng đồng thời xác định: Thực hiên dân chủ
xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị. Đây
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Từ Đại hội VIII, Đảng ta xác định rõ, Đảng là một bộ phận của hệ thống
chính trị nhưng là bộ phận hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống ấy; Nhà nước đặt
15


dưới sự lãnh đạo của Đảng có chức năng thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng, quản lí tồn diện xã hội.
Trong đổi mới phương thức họat động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu
chốt nhất và cũng khí nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục
cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng viên bao biện, làm
thay hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng phải trở lại làm rõ, nhận thức đúng vấn đề của Đảng cầm quyền, sự lãnh
đạo của Đảng trong điều kiện có chính quyền, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh về phương thức lãnh đạo của
Đảng. Đặc biệt coi trọng đổi mới chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn,
thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên cơ sở giữ vững ổn định
chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng đổi mới chính trị nhằm phát
huy cao nhất vai trị của các tổ chức trong cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân
dân. Khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng
mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến
sáng tạo từ cơ sở. Theo đó, Bộ Chính trị khóa VIII ban hành chỉ thị xây dựng Quy
chế dân chủ ở cơ sở, trước hết là ở nơng thơn; sau đó Quốc hội chính phủ ban hành
các nghị quyết, nghị định thực hiện chủ trường lớn này của Đảng. Đặc biệt Hội

nghị Trung ương 5 khóa IX (3/2002) đã ra nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Nghị quyết không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt
là giải quyết các vướng mắc trong tổ chức cơ sở, đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân mà cịn có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Củng cố vững chắc và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả họat động của hệ thống chính trị cấp cơ sở, thực hiện tốt Quy chế dân chủ
ở cấp cơ sở và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm tra”, là đảm
bảo chắc chắn nhất việc giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy đổi mới kinh tế và
chính trị từ cơ sở, phòng ngừa giải quyết sớm các mâu thuẫn nội bộ nhân dân,
16


chống tiêu cực nội bộ và làm thất bại âm mưu lơi kéo quần chúng của các thế lực
phản động.
Nhìn tổng quát, đổi mới để củng cố vững chắc và phát huy cao độ vài trị
của hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực thực hiện nguyên lí của chủ nghĩa Mác –
Lênin cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, từng bước nâng cao vai trò tự quản
cộng đồng trong quản lí xã hội; là làm theo lời dạy của Hồ Chí Minh: đem chính trị
vào giữa dân gian, cơ sở là nơi Đảng và chính quyền sống trong lịng dân, là cầu
nối giữa Đảng, Chính phủ với dân.
2.3.

Đổi mới tư duy lí luận của Đảng trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội
và xây dựng con người

2.3.1. Về nhân tố con người và xây dựng con người mới
Cùng với quá trình đổi mới về kinh tế và đổi mới về chính trị trong những
năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã có nhận thức đúng đắn ngày càng rõ hơn về nhân
tố con người, phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao cả nhất; do vậy, sự
phát triển con người nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội,
là nhiệm vụ cao cả nhất của Đảng, Nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị. Trong

việc phát huy yếu tố con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất
của mọi hoạt động, cần có kế hoạch xây dựng cơ cấu giai cấp của xã hội mới, cụ
thể hóa và thực hiện đúng chính sách dân tộc và chính sách tự do tín ngưỡng”.
Đại hội VII khẳng định rõ hơn: Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất
với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con
người và vì con người. Kết hợp hài hịa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất với
đời sống tinh thần của nhân dân là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Như vậy,
chính sách phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội cũng là thực hiện
cơng bằng trong kinh tế, trước hết là tạo công bằng trong cơ hội lao động, cơ hội
thể hiện các năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, từ đó có cơng bằng trong phân phối

17


lợi ích, thu nhập và tự cải thiện đời sống của mình, giảm bớt sự bao cấp của Nhà
nước.
Trong sự phát triển con người nói chung, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến
công tác thanh niên. Nghị quyết Trung ương lần thứ tư, khóa VII về cơng tác thanh
niên trong tình hình mới đã nhấn mạnh: cơng tác thanh niên là vấn đề sống còn của
dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Đúng
như Bác Hồ đã từng nói: “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”, vì vậy thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển con người.
Hội nghị Trung ương VII của Đảng (1998) đã xác định nhiệm vụ xây dựng
con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với đức tính cụ thể sau: có tinh
thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh; lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, thường xuyên học
tập tự nâng cao trình độ….

Như vậy, quan điểm về xây dựng con người mới của Đảng vừa đảm bảo sự
thống nhất giữa lí tưởng và thực tiễn, giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng
đồng, giữa nghĩa vụ công dân và trách nhiệm xã hội, đảm bảo sự phát triển toàn
diện về cả đức và tài, cả về thể lực, trí lực và tâm lực, có ý chí, bản lĩnh vươn lên.
Ngồi ra, Đảng ta còn chú trọng đến việc chống sự xuống cấp về tư tưởng,
đạo đức, lối sống: có lí tưởng lành mạnh, trung thực sống bằng sức lao động của
mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công chăm lo lợi ích của tập thể và của đất
nước, với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỉ, ăn bám, chạy theo đồng tiền. Đấu
tranh chống sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, chống quan liêu, tham nhũng cửa
quyền…đặc biệt trong bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ cũng là yếu tố làm
này sinh những mặt trái của xã hội. Càng thời kì mở cửa, nạn tham nhũng, bn
lậu, lãng phí của cơng càng diễn biến phức tạp, việc ngăn chặn càng nhiều khó
18


khăn, hạn chế. Tệ nạn xã hội phát triển. Điều đáng lo ngại là khơng ít cán bộ Đảng
viên tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa
VIII về Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân
tộc”, đã thẳng thắn chỉ rõ những yếu kém trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong thời kì đổi mới. Để việc giáo dục đạo đức và lối sống có hiệu quả, Đảng
ta chủ trương triển khai sâu rộng giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống trong toàn
Đảng, trong cán bộ và nhân dân với nội dung cơ bản là học tập theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, tập trung tạo cho được dư luận, ý thức xã hội phê phán mạnh mẽ
chủ nghĩa cá nhân; đồng thời nêu gương người tốt, việc tốt.
Kết luận của Hội nghị Trung ương IX đã xác định nhiệm vụ trọng tâm: tiếp
tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước…
2.3.2. Phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
* Về giáo dục, đào tạo

Mục tiêu của giáo dục đào tạo được Đại hội VII của Đảng xác định rõ “nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động
có trí thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có
đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo
thế hệ trẻ theo hướng tồn diện và có năng lực chun mơn sâu, có ý thức và khả
năng tự tạo việc làm trong kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Trên cơ sở các quan điểm định hướng đó, bước vào thời kì đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị Trung ương hai khóa VIII (1996) ra
chuyên đề “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kì
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” với các tư tưởng phát
triển giáo dục và các mục tiêu giáo dục chủ yếu: thực hiện giáo dục toàn diện đức
dục, trí dục, thể dục, mĩ dục ở tất cả các bậc học; hết sức coi trọng giáo dục chính
trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy, sáng tạo và năng lực thực hành.

19


Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương VIII “Về xây dựng văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định sự nghiệp giáo dục là một hiện tượng của
nền văn hóa, có vai trị “góp phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân,
làm tăng thêm sức mạnh nối sinh”. Vừa qua, Hội nghĩ Trung ương IX của Đảng
một lần nữa bàn về chuyên đề giáo dục – đào tạo. Như vậy, chua đầy 10 năm, đây
là nghị quyết chuyên đề thứ ba của Trung ương Đảng về giáo dục, đào tạo. Có thể
thấy được các quan điểm lớn chỉ đạo sự phát triển giáo dục, đào tạo như sau:
Thực hiện giáo dục toàn diện, chú trọng chất lượng giáo dục, nhất là trong
các trường đại học, cao đẳng, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng tư tưởng, chính trị…
Tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, sử dụng cơng nghệ giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa.
Phấn đấu giảm tỉ lệ học sinh bỏ học, nhất là miền núi, vùng sâu vùng xa.

Phát triển giáo dục trên cơ sở đảm chất lượng, phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội
nước ta.
Đảm bảo hiệu quả giáo dục bằng chính sách sử dụng nguồn nhân lực, tận
dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phát triển
kinh tế - xã hội.
*Về khoa học – công nghệ
Tuy Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh sự cấp bách phải phát triển khoa học kĩ
thuật, coi khoa học kĩ thuật, nhưng trong năm sau đó, khoa học nước ta phát triển
chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của công cuộc đổi mới. Trước tình hình đó, Bộ
Chính trị khóa VI ra Nghị quyết số 26 – NQ/ TW về khoa học và công nghệ, xác
định rõ khoa học công nghệ là động lực quan trọng của tồn bộ cơng cuộc đổi mới.
Do vậy, Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hoạt động khoa học cơng nghệ, trong đó chú
trọng phát huy dân chủ, tự do sáng tạo của đội ngũ khoa học.
Mục tiêu phát trỉên khoa học công nghệ đến năm 2000 được Hội nghị Trung
ương VII (1994) xác định là: cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết định, các chủ
20



×