Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

DỰ TRỮ bắt BUỘC TRONG điều HÀNH CSTT của NHTW NGA từ năm 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.73 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
MỤC LỤC
KHOA NGÂN HÀNG
BỘ MÔN TIỀN TỆ NGÂN HÀNG

BÀI TẬP LỚN
CHỦ ĐỀ
DỰ TRỮ BẮT BUỘC TRONG ĐIỀU HÀNH CSTT
CỦA NHTW NGA TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
Giáo viên hướng dẫn

: Th.s Vũ Hải Yến

Tên học phần

: Ngân hàng trung ương

Nhóm tín chỉ

: 18

HÀ NỘI
2018


NHTW NGA | NHÓM 7

CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM phải duy trì trên tài khoản tiền gửi tại


NHTW, được xác định bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ % tính trên tổng số dư tiền
gửi các loại mà các NHTM phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau cho các thời hạn tiền gửi, quy
mô và tính chất hoạt động của NHTW. Đây là một trong những công cụ của NHTW
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
2. Vai trò và mục đích
Mục đích
-

Hạn chế rủi ro thanh khoản cho các tổ chức tín dụng.

-

Thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW.

Vai trò
-

Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường tiền tệ lien ngân hàng

-

Điều tiết nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng

-

Kiểm soát sự tăng trưởng tiền tệ

-


Tạo thu nhập cho NHTW

3. Cơ chế tác động
a. Về mặt lượng:
Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng

NHTW tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc

Tăng dự trữ bắt
buộc, giảm dự trữ
dư thừa

Giảm khả năng
cho vay của hệ
thống NHTM

Giảm hệ số nhân
tiền 2

Giảm khả năng mở
rộng tiền gửi của
hệ thống NHTM

Giảm
cung
tiền


NHTW NGA | NHÓM 7


b. Về mặt giá:
Tác động đến lãi suất của thị trường tiền tệ

NHTW
tăng tỷ lệ
dự trữ bắt
buộc

Tăng cầu vốn
khả dụng của
NHTM

Tăng lãi
suất LNH

Bộ phận tiền
gửi để cho
vay giảm
(trong khi
vẫn phải trả
lại TG)

Giảm lợi
nhuận từ
lãi của
NHTM

Tăng
LSCV

đối với
nền
kinh tế

Khả
năng
cung
ứng tín
dụng
cho

Giảm
cung
tiền

4. Phương pháp quản lý dữ trữ bắt buộc
a. Xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Số tiền dự trữ
bắt buộc

Tỷ lệ DTB số
=

× dư bình quân

của các tài

Số dư bình quân ngày của
tiền gửi huy động thuộc diện

tính dự trữ bắt buộc trong kỳ
xác định

Số dư bình quân của các tài khoản
phải tính dự trữ bắt buộc ký xác định
Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian mà đối tượng thực hiện dự trữ bắt
buộc phải thực hiện theo mức đã được tính toán và cuối kỳ xác định.
Kỳ xác định là kỳ (hay số ngày) được sử dụng để tính số dư bình quân của các
tài khoản phải tính dự trữ bawtsb buộc.
3


NHTW NGA | NHÓM 7

b. Phương pháp quản lý dữ trữ bắt buộc
Có nhiều phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc.Căn cứ vào mức độ chênh lệch
và thời gian giữa kì xác định và kỳ duy kỳ,có thể phân chia các phương pháp này thành
ba loại.
Phương pháp nối tiếp
Đây là phương pháp mà kỳ xác định và kỳ duy trì nối tiếp nhau.Với cách xác
định này, đối tượng phải dự trữ bắt buộc chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng dự trữ
vì vào đầu kỳ duy trì họ đã biết được mức dự trữ bắt buộc mà họ phải thực hiện trong
kỳ. Tuy nhiên, theo phương pháp này thì số dư tiền gửi để tính dự trữ bắt buộc để kiểm
soát khả năng cho vay ít có tác dụng. Bên cạnh đó, phương pháp nối tiếp có thể dẫn tới
sự biến động lớn về lãi suất do có sự biến động về vốn khả dụng đầu kỳ và cuối kỳ.
Ưu điểm :Đem lại sự chủ động cho đối tượng phải dự trữ bắt buộc trong việc sử
dụng dự trữ bắt buộc
Nhược điểm: Tác dụng của công cụ dự trữ bắt buộc trong điều hành chính sách
tiền không cao vì số tiền gửi dự trự bắt buộc thay đổi.
Phương pháp trùng một phần

Theo phương pháp này, kỳ xác định và kỳ duy trì trùng nhau một phần. Đây là
phương pháp được phần lớn các nước sử dụng.
Với cách quản lý này, đối tượng thuộc diện phải dự trữ bắt buộc luôn quan tâm
đến dự trữ bắt buộc, không sử dụng quá mức dự trữ có được. Vì vậy, số dư tiền gửi để
tính dự trữ bắt buộc cũng như lãi suất thị trường ít biến động hơn. Hiệu quả của
phương pháp này cao hơn phương pháp nối tiếp.

Ưu điểm

4


NHTW NGA | NHÓM 7

Đối tượng sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc luôn quan tâm đến dự trữ bắt buộc,
không sử dụng quá mức dự trữ bắt buộc.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng ít biến động
Hiệu quả của chính sách tiền tệ khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc cao.
Nhược điểm
Đối tượng phải dự trữ bắt buộc ít có cơ hội để sử dụng dự trữ vào mục đích lợi
nhuận.
Phương pháp trùng hoàn toàn
Đây là phương pháp quy định kỳ duy trì đồng thời cũng là kỳ xác định. Phương
pháp này phát huy được hiệu quả cao nhất so với hai phương pháp trên vì nó buộc đối
tượng chịu sự quản lý về dự trữ bắt buộc phải chủ động duy trì dự trữ ở mức độ nào đó
mà không thể tùy ý sử dụng dự trữu vì các mục tiêu khác nhau của mình.
Ưu điểm
Hiệu quả chính sách tiền tệ khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc là lớn nhất
Đối tượng phải dự trữ bắt buộc luôn phải chủ động trong duy trì dự trữ bắt buộc,
không tùy ý sử dụng.


5


NHTW NGA | NHÓM 7

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH DỰ TRỮ BẮT BUỘC Ở NGA GIAI ĐOẠN 2008
ĐẾN NAY
I. Khái quát về Ngân hàng Trung ương Nga ( Center Bank of Russian : CBR)
Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga (Ngân hàng Nga) được thành lập ngày
13 tháng 7 năm 1990 là kết quả của việc chuyển đổi Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa
Nga của Ngân hàng Nhà nước Liên Xô. Vào ngày 2 tháng 12 năm 1990, Liên Xô tối
cao đã thông qua Luật Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga (Ngân hàng Nga), theo
đó Ngân hàng Nga đã trở thành pháp nhân, ngân hàng chính và chịu trách nhiệm trước
Liên Xô tối cao của RSFSR. Vào tháng 6 năm 1991, điều lệ đã được Ngân hàng Nga
thông qua. Vào ngày 20 tháng 12 năm 1991, Ngân hàng Nhà nước Liên Xô đã bãi bỏ
và tất cả tài sản, nợ và tài sản của mình trong RSFSR được chuyển sang Ngân hàng
Trung ương Liên bang Nga sau đó được đổi tên thành Ngân hàng Trung ương Nga Liên
đoàn.Kể từ năm 1992, Ngân hàng trung ương Nga đã bắt đầu mua và bán ngoại tệ trên
thị trường ngoại hối, thiết lập và công bố tỷ giá hối đoái chính thức của ngoại tệ so với
đồng rúp (Ruble).
Theo hiến pháp Nga, CBR là một thực thể độc lập, với trách nhiệm chính là bảo
vệ sự ổn định của đồng tiền quốc gia, đồng rúp.


Là cơ quan quản lý chính của ngành ngân hàng Nga, chịu trách nhiệm về

giấy phép ngân hàng, quy tắc hoạt động ngân hàng và các chuẩn mực kế toán, là người
cho vay cuối cùng cho các tổ chức tín dụng. Sau khi các chức năng ngày tháng và

quyền hạn của CBR được mở rộng đáng kể và ngân hàng trung ương đã nhận được tình
trạng của một cơ quan điều tiết lớn của tất cả các thị trường tài chính của Nga.


Giữ quyền độc quyền để phát hành tiền giấy và tiền xu rúp.

6


NHTW NGA | NHÓM 7


Theo luật pháp Nga, một nửa lợi nhuận của ngân hàng phải được chuyển

vào ngân sách liên bang của chính phủ. Ngân hàng Trung ương Nga là thành viên của
BIS ( Ngân hàng thanh toán quốc tế )
*

Chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một bộ phận không tách rời của chính sách nhà nước và
nhằm mục đích nâng cao phúc lợi của công dân Nga. Ngân hàng Trung ương Nga thực
hiện chính sách tiền tệ trong khuôn khổ của chế độ lạm phát mục tiêu, ổn định giá cả,
mặc dù lạm phát bền vững thấp, là ưu tiên của nó. Do đặc thù cơ cấu của nền kinh tế
Nga, mục tiêu là để giảm lạm phát 4% vào năm 2017 và duy trì nó trong phạm vi trong
trung hạn.
II. Thực trạng điều hành dự trữ bắt buộc tại Nga
1. Giai đoạn 2008 – 2010
Đây là giai đoạn tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đầy biến động.


Năm 2008, 8 tháng đầu năm tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở Nga có mức tăng đều từ
7.0% - 9.5%. Sau đó là sự sụt giảm mạnh từ 9.5% xuống còn 6% vào tháng 9 và tiếp
tục giảm xuống mức 5.5% duy trì đến hết năm 2008

7


NHTW NGA | NHÓM 7

Giải thích
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2008 là giảm lạm phát. Tờ
Gazeta (Nga) dẫn lời Phó thống đốc Ngân hàng Trung ương Alexei Ylyukayev dự báo
tỷ lệ lạm phát năm 2008 sẽ cao hơn 1-2% so với dự tính trước đây (6-7%)
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Nga đang rất cần tiền. Tuyệt đại đa số các
ngành đều đòi hỏi phải hiện đại hóa các quỹ đầu tư, tín dụng đã lỗi thời. Gom tiền chỉ
có thể bằng hai cách: Thu hút đầu tư thông qua thị trường chứng khoán hoặc đi vay.
Thị trường chứng khoán Nga mấy năm gần đây phát triển thật ấn tượng.
Đồng thời, sự nhảy vọt giá của ngành công nghiệp, trong một số trường hợp lên
tới mức 80%/năm. Trong nhiều lĩnh vực, giá nội địa ở Nga đã vượt giá thế giới, cụ thể:
+

Cuối tháng 11/07, giá thực phẩm tối thiểu ở Nga trung bình là 1.754 rúp

(hơn 70 USD)/tháng/người. Tính từ đầu năm 2007, mức giá này đã tăng 19%. Đặc biệt,
chỉ trong thời gian từ tháng 11/06 - 11/07, dầu hướng dương tăng 51.4%, bơ tăng
39.1%.
+

Nếu giá khí đốt không được (nhà nước) điều chỉnh, thì sau khi trừ thuế


quan và phí vận chuyển, người tiêu dùng Nga sẽ phải trả khoảng 120 -130 USD/1.000
m3 trong năm nay.
8


NHTW NGA | NHÓM 7

Qua đó, nạn lạm phát đã xảy ra ở Nga để cải thiện và khắc phục tình
trạng đó Ngân hàng Trung ương đã tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc vào những tháng đầu
2008, cụ thể là từ tháng 1 - tháng 8 tăng 7.5% - 9%.
Các khoản cho vay dưới chuẩn tăng mạnh, các Ngân hàng ở Mỹ cho vay cầm cố
bất động sản mà không quan tâm đến khả năng chi trả của khách hàng, điển hình là sự
bùng nổ lên tới 1300 tỷ vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008.
Vào cuối quý III/ 2008, hơn một nửa thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với 1/3
các khoản này là nợ khó đòi. Vì vậy, thị trường bất động sản tại thời điểm này bắt đầu
có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm
Kết quả là khủng hoảng của nền kinh tế Mỹ đã nổ ra dẫn đến sự ảnh hưởng
nghiêm trọng của nền kinh tế Thế giới cụ thể nền kinh tế bị suy giảm mạnh, tăng
trưởng kinh tế bị chậm lại, nền kinh tế Nga cũng bị ảnh hưởng đáng kể.
Nga –cường quốc đứng thứ 4 thế giới; do giá dầu giảm mạnh cùng với đó là sự
đi xuống của nhu cầu xây dựng đã làm ảnh hưởng đến hai mặt hàng chiến lược của
quốc gia này, chính là dầu mỏ và kim loại
=> Nền kinh tế Nga bị rơi vào bế tắc => Để khắc phục tình trạng trên tỷ lệ dữ
trự bắt buộc tại nước này cũng giảm mạnh để kích thích tăng trưởng nền kinh tế, cụ
thể: đến tháng 9 tỷ lệ dữ trữ bắt buộc chỉ còn 6 % giảm 3 % so với tháng 8 và tiếp tục
giảm mạnh xuống còn 0.5 % ở các tháng quý IV năm 2008.
Năm 2009 ,
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc năm 2009 được duy trì ở mức quy định 5%,

9



NHTW NGA | NHÓM 7

Giải thích
Đầu năm 2009, nền kinh tế nước Nga sụt giảm nghiêm trọng, sụt giảm nhất
trong lịch sử nền kinh tế nước Nga, thậm chí còn giảm sâu hơn mức giảm kỷ lục 5.3%
của năm 1998 .Trong đó, ngành công nghiệp xây dựng, sản xuất hàng hóa, và kinh
doanh nhà hàng-khách sạn là những khu vực giảm mạnh nhất với mức giảm tương ứng
là 16.4%, 13.9% và 15.4%
Chính vì vậy, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc tiếp tục duy trì ở mức theo quy định 5 % để
gia tăng mức cung tiền, tăng khả năng thanh toán cho nền kinh tế, qua đó các doanh
nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn tốt hơn, dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, kích thích tăng trưởng để phục hồi nên kinh tế.
Theo OECD, Nga đang trải qua một cuộc suy giảm nghiêm trọng song sự khôi
phục của giá hàng hóa và những tác động dự kiến từ chính sách kích thích kinh tế của
chính phủ sẽ mang lại sự hồi phục phần nào trong năm 2009 và 2010
Năm 2010
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự biến động về tỷ lê dự trữ tiền mặt theo tháng và tỉ lệ
dự trữ theo quy định. Tỉ lệ dự trữ tiền mặt theo tháng tăng từ 5%-8% và tỉ lệ dự trữ
theo quy định sau nhiều năm duy trì mức 5% thì đã tăng lên 6%
10


NHTW NGA | NHÓM 7

Giải thích
Trong năm 2010, nền kinh tế Nga đã thoát khỏi khủng hoảng và có thể đạt mức
tăng trưởng 3.1% trong năm nay, sau khi suy giảm gần 8% trong năm 2009
Cơ quan xếp hạng tín dụng Fitch căn cứ vào hiệu quả từ các biện pháp khắc

phục khủng hoảng mà Chính phủ Nga đã áp dụng: Nga đã khôi phục luồng vốn đầu tư
trong khu vực tư nhân, hoạt động kinh tế tích cực, tỉ lệ lạm phát hạ, giảm thiểu rủi ro
trong lĩnh vực ngân hàng
Qua đó Ngân hàng Trung ương cũng thay đổi chính sách tiền tệ của mình , quy
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn để tránh nạn lạm phát, duy trì khả năng thanh khoản
ở mức ổn định, không quá nhiều cũng không quá ít.
Điều đó được chứng minh qua sự duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 6% đến 2
tháng cuối năm tăng lên 8% trong cả năm 2010.
2. Giai đoạn 2011 – 2013
Giai đoạn này, tỷ lệ dự trữ theo quy định tăng lên 8% so với năm 2010 và kéo
dài đến năm 2013 còn tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền mặt theo tháng giảm qua các năm
Năm 2011, tỷ lệ duy trì mức 6% đến cuối năm
Năm 2012, tỷ lệ giảm từ 5.5% xuống 4.25%
11


NHTW NGA | NHÓM 7

Năm 2013, không có biến động và duy trì mức 4%

Giải thích
Do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, những năm gần thời kì 2011 –
2013 dòng vốn từ Nga không ngừng chảy ra nước ngoài. Theo dự đoán lúc bấy giờ,
hiện tượng này sẽ tiếp tục diễn ra vào những năm tiếp theo đó.
Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ phát triển kinh tế Nga Andrey Klepach, năm
2012 “Sẽ có gần 50 tỉ USD, có thể hơn hoặc ít hơn một chút, sẽ chảy khỏi nước Nga.
Tất cả phụ thuộc vào tình hình giá dầu”. Ông dự đoán giá dầu trung bình năm 2012 sẽ
ở mức thấp hơn 115 USD/tấn. Theo Bộ phát triển kinh tế Nga, nửa đầu năm 2012 có
43,4 tỉ USD chảy ra khỏi nước Nga (quý I/2012: 33,9 tỉ USD; quý II/2012: 9,5 tỉ
USD). Dòng vốn chảy ra khỏi Nga được đánh giá cụ thể, sau khi Bộ Phát triển kinh tế

và Ngân hàng Trung ương Nga có những số liệu ban đầu về kết quả tài chính của các
công ty Nga trong 6 tháng đầu năm 2012. Khả năng vào tháng 10 năm 2012, giá dầu
vẫn cao như trước, lượng vốn chảy ra nước ngoài có thể tăng lên 55 tỉ USD.
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nga Sergey Ignatev vào cuối thàng 6/2012
đã tuyên bố hơn một nửa số tiền vốn (23 tỉ USD) chảy ra khỏi nước Nga nửa đầu năm
12


NHTW NGA | NHÓM 7

nay dùng để chuyển khoản cho các ngân hàng con nước ngoài ở EU. Hơn nữa, trong
trường hợp khủng hoảng tăng ở EU vào tháng 9-10/2012, thì dòng vốn chảy ra có thể
lên tới 60 tỉ USD. Ngân hàng Trung ương Nga điều chỉnh lại dự báo về số tiền chảy ra
khỏi Nga năm 2012 có thể lên tới 65 tỉ USD. Những tháng tới sẽ không có hy vọng
dòng vốn chảy từ bên ngoài vào Nga. Các chuyên gia đưa ra ý kiến, dòng vốn vẫn
không ngừng chảy khỏi nước Nga. Trong 20 năm, nợ nước ngoài của lĩnh vực tư nhân
Nga đã tăng 5 lần, gần 500 tỉ USD
Ông Sergey Ignatiev, chủ tịch Ngân hàng Trung ương Nga, phát biểu với báo
giới lúc bấy giờ: “Chúng tôi sẵn sàng sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nếu cần thiết. Các
nhà hoạch định chính sách sẽ hành động quyết liệt để đưa lạm phát về mức mục tiêu từ
6% đến 7%.”
Ngày 31/01/2011, Ngân hàng Trung ương Nga nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong
khi đó vẫn bất ngờ duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cũ ngay cả khi lạm phát tháng 1/2011
lên mức cao nhất trong 15 tháng. 4 tháng sau đó mức tăng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn
lớn đều. Và được duy trì đến đến cả năm 2012 cũng là do nguyên ngân muốn hút bớt
tiền khỏi nên kinh tế tránh dòng tiền trôi khỏi lãnh thổ nước Nga với những con số
cảnh báo ở trên.
Đánh giá về phát triển kinh tế Nga, Bộ trưởng Phát triển kinh tế Nga Alecsey
Ulyukayev cho biết năm 2013 là năm đầu tiên trong vòng nửa thập niên qua, nhịp độ
tăng trưởng kinh tế Nga giảm xuống thấp hơn mức tăng trưởng trung bình của các

nước trên thế giới. Ông cũng cảnh báo rằng, Nga khó có thể bắt kịp nhịp độ tăng
trưởng trung bình của thế giới vào năm 2014. Theo số liệu của Bộ Phát triển kinh tế
Nga, năm 2013, chỉ số tăng trưởng GDP mới nhích lên 1.3% so với năm 2012 (GDP
năm 2012 tăng trưởng 3.4% so với năm 2011).
Theo một quan chức của Ngân hàng Trung ương Nga, rủi ro đồng rúp mạnh và
xuất khẩu giảm sẽ khiến giới chức kinh tế Nga đau đầu nhất. Cụ thể, trung bình 11
tháng đầu năm 2013, so sánh với 11 tháng 2012, đồng rúp so với đồng đô la mỹ giảm
13


NHTW NGA | NHÓM 7

1,7% và với đồng euro bị giảm 3,7%. Tỉ giá trung bình đồng rúp so với đồng đô la mỹ:
năm 2012-31.09 rúp/1 USD, năm 2013- 31.84/1 USD. Đồng thời, Nga cũng là nước
duy nhất trong nhóm BRIC không áp dụng biện pháp kiểm soát vốn, đang tiếp bước
Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ trong việc sử dụng tỷ lệ dự trữ b.ắt buộc để hút bớt tiền từ
nền kinh tế và tránh thu hút thêm dòng vốn đầu cơ
3. Giai đoạn 2014 – 2017

Ở giai đoạn này, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc duy trì 4% kéo dài cả giai đoạn . Cụ thể
Năm 2014 – 2015

14


NHTW NGA | NHÓM 7

Trong hai năm 2014 và 2015, tỷ lệ dự trữ bắt buộc duy trì 4%.

Giải thích

Năm 2014, Nga phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính, nguyên nhân là do
giá dầu giảm mạnh, cùng với đó là lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên minh Châu Âu
(EU) áp đặt lên quốc gia này
Về việc giá dầu giảm: do áp lực của hiệp định cam kết bảo vệ môi trường, các
quốc gia đang bắt đầu tìm kiếm những nguồn nguyên liệu thay thế khiến cho cầu giảm
xuống; đồng thời Mỹ - từ một nước nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới thì thời điểm
này đã sản xuất và trở thành nước xuất khẩu lớn thứ ba trên thế giới
Cung tăng, cầu giảm, kết quả cuối cùng xảy ra sẽ khiến giá dầu giảm xuống, nếu
6/2014 giá một thùng dầu ở mức 100USD thì đến 12/2014, con số này giảm xuống còn
khoảng 60USD/thùng. Giá dầu giảm đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc gia
này, ngay lập tức đã khiến đồng Rupe rớt giá nghiêm trọng.
Về việc lệnh cấm vận, Mỹ và EU đã quyết định áp dụng biện pháp cấm vận với
quốc gia này do Nga đã dính líu đến cuộc khủng hoảng chính trị ở Ukraina,đồng thời,
Nga cũng đáp trả bằng cách cấm nhập khẩu nông sản từ châu Âu, khiến giá cả tại Nga
tăng vọt và đồng Ruble tiếp tục rớt giá. Khi đó 34.31 Ruble đổi được 1 USD và 46.88
Ruble đổi được 1 Euro.
Thế nhưng vào khoảng giữa tháng 8, con số này đã tăng lên 36.04 Ruble để mua
1 USD (giảm 5.04 %) và 49.2 ruble mua 1 Euro (giảm 4.95 %). Như vậy trong vòng 1
tháng giá trị của đồng tiền này đã giảm 5.04 % so với USD và 4.95% so với Euro.
Từ tháng 7 đến đầu tháng 10 là khoảng thời gian mà đồng Ruble liên tục rớt giá
rất nhanh và mạnh so với các đồng tiền khác như USD và Euro (tính đến đầu tháng 10,
giá trị của Ruble chỉ còn 84 % so với đầu năm).
15


NHTW NGA | NHÓM 7

Đối mặt với tình trạng ruble biến động mạnh, giảm giá trị liên tục, người tiêu
dùng Nga lập tức mất niềm tin vào đồng tiền này. Xu hướng của họ là chuyển sang
nắm giữ ngoại tệ và các tài sản có giá trị khác thay vì sử dụng Ruble.

Vì vậy, Ngân hàng Trung ương Nga để giảm bớt và khắc phục tình trạng rớt giá
của đồng Ruble đã duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 4 %, không thay đổi tỷ lệ dự trữ
để tránh ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong tình trạng nền
kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng sẽ tạo áp lực vô cùng nặng nề cho hệ thống ngân
hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nếu giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trong tình trạng
đồng tiền mất giá thì đồng tiền sẽ tiếp tục mất giá hơn, vì vậy người dân mất lòng tin
vào quản lý và thực hiện của Ngân hàng Trung ương.
Năm 2015, là một năm đặc biệt khó khăn đối với nền kinh tế Nga, chủ yếu do
giá dầu thế giới - mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nga - giảm mạnh xuống mức thấp
nhất trong hơn một thập kỷ qua và các biện pháp trừng phạt mà phương Tây áp đặt đối
với nước này gần 2 năm nay liên quan tới cuộc khủng hoảng Ukraine
Đối mặt với bức tranh kinh tế không mấy sáng sủa, Tổng thống Nga Vladimir
Putin đã kêu gọi cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao công tác quản lý và thu hút đầu tư
nước ngoài. Hưởng ứng lời kêu gọi này, tháng 1/2015, Thủ tướng Nga Dmitri
Medvedev đã ký "gói chống khủng hoảng" có hiệu lực 1 năm trị giá 30 tỷ USD để bình
ổn nền kinh tế trong nước
"Gói chống khủng hoảng" đã đạt được những hiệu quả đầu tiên khi các chỉ số
kinh tế của nước này tiếp tục được cải thiện trong quý IV/2015 và nền kinh tế Nga đã
có dấu hiệu phục hồi.
Bên cạnh việc đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế, từng bước thoát khỏi tình trạng
phụ thuộc vào xuất khẩu dầu cụ thể:
+

Chính phủ Nga tiếp tục đẩy mạnh "chính sách hướng Đông", tích cực

hợp tác với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi hiện chiếm tới 1/4 tỷ
16


NHTW NGA | NHÓM 7


trọng kinh tế thế giới, triển khai và mở rộng các dự án hợp tác kinh tế giữa các nước
Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU)
+

Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Á (ASEAN), cũng như đề xuất thiết lập đối tác kinh tế thương mại giữa ba tổ chức này.
Có thể kể tới những kết quả của chính sách này như việc xây dựng khu vực
thương mại tự do giữa EAES mà Nga là thành viên chủ chốt với Việt Nam, Nga và
Trung Quốc thực hiện hàng loạt dự án liên kết kinh tế giá trị lớn .
Như vậy, những bước đi trên đã phần nào giúp Moskva phá thế cô lập về kinh tế
và giảm thiểu tác động của các biện pháp trừng phạt mà Mỹ và Liên minh châu Âu liên
tục áp đặt với Nga từ tháng 3 năm ngoái. Nền kinh tế đang ngày được cải thiện , chính
vì thế để tránh gây ảnh hưởng đến nền kinh tế, Ngân hàng Trung ương Nga tiếp tục duy
trì tỷ lệ dữ trữ bắt buộc ở mức 4 % cả năm 2015, tỷ lệ này được duy trì từ năm 2014
đến nay.
Năm 2016 – 2017

Cụ thể

17


NHTW NGA | NHÓM 7

Năm 2016, được xem là một năm thành công của kinh tế Nga trong bối cảnh
mọi yếu tố bên ngoài đều không thuận lợi, nhất là các lệnh trừng phạt của Phương Tây
nhằm vào Moskva suốt 2 năm qua tiếp tục được siết chặt
Nga đã đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô khi dự trữ tài chính đạt

gần 400 tỷ USD, lạm phát được khống chế ở mức 5.8% và tăng trưởng kinh tế đạt
khoảng 0.3%. Nói một cách khác, nền kinh tế Nga đã “đứng vững trên đôi chân của
mình.”
Chỉ tính riêng năm 2016, Nga đã chi 827,7 tỷ ruble cho chương trình chống
khủng hoảng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay thế nhập khẩu, xuất khẩu
những sản phẩm phi năng lượng, ngành sản xuất ôtô, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp,
xây dựng nhà...
Những nỗ lực không mệt mỏi của Chính phủ Nga đã được đền đáp xứng đáng
khi một loạt lĩnh vực kinh tế từ công nghiệp quốc phòng, ngân hàng, công nghệ thông
tin thực sự có bước tăng trưởng ngoạn mục, đặc biệt ngành nông nghiệp đã vươn lên vị
trí số một thế giới về xuất khẩu lúa mỳ.
Nền kinh tế phục hồi nhanh chóng nhờ việc thực hiện hàng loạt các chính sách
phù hợp. Nó phát triển mạnh mẽ vào ở các tháng nửa sau năm 2016.
Như vậy, nền kinh tế có diễn biến tốt từ đó Ngân hàng trung ương cũng đưa ra
các chính sách tiền tệ phù hợp với sự thay đổi đó cụ thể: Nửa đầu năm 2016 khi nền
kinh tế đang khởi sắc, thì họ tiếp tục giữ nguyên tỷ lệ dự trữ là 4% (mức này được duy
trì liên tục suốt 2 năm qua). Qua đó góp phần ổn định nền kinh tế hơn, tránh gây ra các
tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Năm 2017, tỷ lệ dữ trự tăng vẫn duy trì ở mức ổn định 4%, do:
Trong bối cảnh bị cấm vận từ phương Tây, giới chức Nga đã luôn tỏ ra thận
trọng khi chuẩn bị các phương án dự phòng cho nền kinh tế, nếu giá dầu giảm xuống
mức 40 USD/thùng. Mức giá 40USD/thùng còn được sử dụng để tính toán ngân sách
18


NHTW NGA | NHÓM 7

quốc gia của Nga trong giai đoạn 2017-2019. Bộ Tài chính Nga trên thực tế cũng đã
lên kế hoạch điều hành tỷ giá tiền tệ tập trung vào kịch bản giá dầu ở mức
40USD/thùng ngay từ tháng 1/2017. Chính vì vậy việc giá dầu thô thế giới tăng và ổn

định ở mức 50 - 60 USD/thùng sẽ đưa nền kinh tế Nga thoát khỏi thời kỳ đen tối, bất
chấp những hạn chế do lệnh cấm vận mang lại.
Hãng tin Bloomberg từng đưa kinh tế Nga vào danh sách 7 nền kinh tế mới nổi
sẽ là điểm đến hấp dẫn nhất cho đầu tư trong năm 2017, cùng với Nam Phi, Mexico,
Brazil, Chile, Ấn Độ và Indonesia. Cơ sở cho nhận định của hãng tin Mỹ là sự phục hồi
ổn định của đồng rúp, khi việc mất giá của nó đã chạm đáy của hình sin trong một chu
kỳ kinh tế, sau "sự kiện Crimea" khiến các nước phương Tây siết chặt cấm vận Nga.
Khi đồng rúp chạm đáy trong thời gian quá ngắn, dù gây sốc cho kinh tế - tài chính
Nga, song điều đó lại giúp nó phục hồi nhanh hơn. Độ dốc của hình sin đi xuống khi
đồng rúp mất giá đã dự báo độ dốc của hình sin đi lên khi đồng rúp ổn định. Khi đồng
rúp mất giá thì thiệt hại là thực tế, song khi đồng rúp ổn định thì kinh tế Nga có lợi ích
kép, cả thực tế và tiềm năng. Chính Ngân hàng Thụy Sĩ (UBS) đã đánh giá lợi suất
tiềm năng của đồng rúp có thể lên tới 26% trong năm 2017. Chính vì hiệu ứng từ lợi
ích kép của đồng rúp mang lại cho kinh tế Nga đã khiến các hãng xếp hạng tín nhiệm
quốc tế phải thay đổi trong đánh giá và mức xếp hạng với kinh tế Nga. Nhờ mức xếp
hạng tín nhiệm cao các nhà đầu tư sẽ rót vốn vào Nga nhiều hơn, nền kinh tế Nga ngày
càng phát triển
RT ngày 23/9 dẫn một thông báo mới nhất từ Hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế
Fitch đã nâng mức xếp hạng tín dụng của Nga từ "ổn định" sang "tích cực". Theo đó,
Fitch đã nâng triển vọng phát hành nợ dài hạn (IDR) phản ánh tình trạng kinh tế đang
phát triển của Nga.Về mức dự trữ ngoại hối, đầu tháng 9/2017, Nga đã đạt được mức
444 tỉ USD. Fitch cho rằng, con số này vào năm 2019 sẽ là trên 500 tỉ USD, quay lại
mức cuối năm 2013. Fitch cho rằng, những rủi ro từ hệ thống ngân hàng đối với bảng
cân đối tài sản quốc gia Nga hiện nay dường như rất hạn chế.
19


NHTW NGA | NHÓM 7

Như vậy, năm 2017 nền kinh tế Nga phát triển mạnh mẽ, dự trữ ngoại hối tăng

mạnh, suy ra lượng tiền cung ra nên kinh tế tăng nên Ngân hàng Nhà nước Nga những
vẫn giữ ổn định nên không thây đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Hơn thế nữa, rủi ro hệ thống
ngân hàng ở Nga năm 2017 rất hạn chế, chứng tỏ các ngân hàng làm việc rất hiệu quả

CHƯƠNG III :
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC CỦA NGA GIAI
ĐOẠN 2008 – NAY
1. Ưu điểm
Thứ nhất, nhờ có công cụ dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương hoàn toàn chủ
động trong việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền ra nền kinh tế. Bằng chứng là trong
giai đoạn 2011-2013, Nga - nước duy nhất trong nhóm BRIC không áp dụng biện pháp
kiểm soát vốn mà lại tiếp bước Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ trong việc sử dụng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc để hút bớt tiền từ nền kinh tế và tránh thu hút thêm dòng vốn đầu cơ. Từ
đó, cho thấy những tác dụng hiệu quả từ công cụ gián tiếp này đối với nền kinh tế nước
Nga
Thứ hai, việc tác động mạnh vào khối lượng cung tiền của công cụ này sẽ giúp
NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt 1 cách linh hoạt và nhanh
chóng để nền kinh tế luôn trong trạng thái ổn định. Mặc dù cuộc khủng hoảng năm
2014 đã gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế nước này nhưng sau đó Nga đã
20


NHTW NGA | NHÓM 7

vực dậy và ngày càng hồi phục vào những năm 2016 thậm chí nền kinh tế đã bắt đầu
nở rộ trở lại trong năm 2017, một phần là nhờ vào việc ngân hàng trung ương đã sử
dụng công cụ dự trữ bắt buộc một cách hiệu quả (khi suy thoái thì giảm tỷ lệ hoặc giữ
nguyên dự trữ bắt buộc còn khi tăng trưởng thì tăng dự trữ bắt buộc)
Ngoài ra công cụ này cũng tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại. Mức dự trữ bắt buộc được áp dụng không phân biệt với những ngân

hàng có điều kiện kinh doanh như nhau. Điều này không có được với công cụ hạn mức
tín dụng.
Thứ tư, dự trữ bắt buộc là công cụ hiệu quả trong việc sử dụng để điều tiết mỗi
quan hệ giữa việc tạo tiền của hệ thống ngân hàng với nhu cầu tái cấp vốn của ngân
hàng trung ương vì khi dự trữ bắt buộc tăng, để đảm bảo mức dự trữ này tại ngân hàng
trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ phát sinh nhu cầu đi vay, công cụ tái cấp vốn
của ngân hàng trung ương phát huy tác dụng, từ đó tạo ra sự liên kết với các công cụ
gián tiếp khác của ngân hàng trung ương.
2. Nhược điểm
Thứ nhất, vì dự trữ bắt buộc là một công cụ quyền lực nên thiếu tính linh hoạt.
Mỗi khi có biến động trong nền kinh tế, ngân hàng trung ương sẽ rất vất vả để thực
hiện những thay đổi nhỏ trong việc cung tiền ra nền kinh tế hay thay đổi mức dự trữ
với từng ngân hàng. Điều đó sẽ khiến cho hệ thống ngân hàng trở nên hỗn loạn, ngân
hàng trung ương khó có thể kiểm soát
Thứ hai, dự trữ bắt buộc được coi như là một khoản thuế vô hình đối với các
ngân hàng thương mại đặc biệt là trong thời kì nền kinh tế trì trệ
Ví dụ như ở thời kì năm 2014, đây là thời điểm nền kinh tế Nga gặp rất nhiều
khó khăn do giá dầu giảm liên tục cùng với đó là lệnh trừng phạt của Mỹ và EU lên
quốc gia này. Động thái này đã khiến người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ, lượng
tiền gửi của khách hàng vào các ngân hàng giảm mạnh (các ngân hàng thương mại hoạt
động vì mục tiêu lợi nhuận với hình thức cho vay và nhận tiền gửi), vì vậy, thu nhập
21


NHTW NGA | NHÓM 7

của các ngân hàng giảm đáng kể. Tuy nhiên thời điểm này, ngân hàng trung ương vẫn
áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4%, điều này gây khó khăn chồng chất khó khăn với các
ngân hàng thương mại. Hậu quả là một vài ngân hàng đã phá sản (ngân hàng
FinPromBank phá sản do tình trạng tài chính yếu kém hay ngân hàng RosinterBank và

RKB bị chỉ trích do vi phạm pháp luật – cụ thể là rửa tiền mà nguyên nhân sâu xa là
thiếu nguồn vốn và không có kĩ năng quản lý). Với những ngân hàng vẫn tiếp tục hoạt
động thì tình hình cũng không mấy khả quan, một số ngân hàng buộc phải hạn chế
lượng tiền mặt mỗi khách hàng được rút
Thứ ba, chi phí điều chỉnh bảng cân đối tàn sản để phù hợp với tỷ lệ dự trữ bắt
buộc gây tốn kém chi phí cho các ngân hàng thương maị do họ phải đi vay với mức lãi
suất cao hoặc bán chứng khoán với giá rẻ thậm chí là phải giảm bớt phần vốn cho vay
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Phân tích Kinh tế Interfax Alex Buzdalin cho
biết “Chúng tôi đang lâm vào tình trạng trong đó các ngân hàng bị buộc phải thu hẹp
bảng cân đối tài chính, qua đó tạo ra một ảnh hưởng lan rộng ra nền kinh tế. Hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng nhỏ đã suy giảm trong một thời gian dài và họ cũng đã
hết hy vọng vào việc duy trì kinh doanh. Đang có một cuộc khủng hoảng trong tình
hình hiện nay.”

22


NHTW NGA | NHÓM 7

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Slide “Tài liệu học tập ngân hàng trung ương”, 2018
Nguyễn Duệ (2014) “Giáo trình Ngân hàng trung ương” NXB thống kê
Ngân hàng trung ương Nga /> />TTXNV (2008), “Lạm phát nguy cơ rình rập kinh tế Nga 2008”


/>6. TTXVN (2010), “Nền kinh tế Nga sụt giảm sâu trong năm 2009”

/>7. Trung Việt (2010), “Năm 2010 kinh tế Nga có thể tăng 3.1%”

/>8. Theo BLOOMBERG (2012), “Đến lượt Nga sử dụng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc để

kiềm chế lạm phát
/>9. Wikipedia, “Khủng hoảng tài chính Nga 2014 />
%E1%BB%A7ng_ho%E1%BA%A3ng_t%C3%A0i_ch%C3%ADnh_Nga_n
%C4%83m_2014
10. TTXNV (2015), “ 2015 – Năm nhiều khó khăn với kinh tế Nga”
/>11. Dương Trí, 2016, “Nhìn lại nước Nga của năm 2016: Sóng cả chẳng ngã tay

chèo” />12. Sơn Ca, 2017, “Nga mang về nghìn tỷ ruble nhờ cắt giảm lượng dầu mỏ”,
/>
23



×