BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KIỀU QUỲNH ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 62 34 04 03
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học:
Người hướng dẫn 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải
Người hướng dẫn 2: GS.TS. Phạm Văn Đức
Phản biện 1: …………………………………………………………….
Phản biện 2: …………………………………………………………….
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ - Phòng họp….. Nhà ……,
Học viện Hành chính Quốc gia.
Số 77 Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - Hà Nội
Thời gian: Vào hồi ……… giờ ….. ngày … tháng …. năm ………
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam
hoặc thư viện của Học viện Hành chính Quốc gia
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian qua, trên quy mô toàn cầu, ở nhiều quốc gia, việc phát
triển NNL nữ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên mọi phương
diện: trên bình diện xã hội, phụ nữ ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt
động của xã hội; trong gia đình, người phụ nữ cũng đã nhận được sự chia
sẻ, giúp đỡ và tạo điều kiện từ nam giới để phát triển và khẳng định bản
thân. Những thập kỷ gần đây, hiện tượng cần ghi nhận ở nhiều quốc gia,
khu vực khác nhau trên thế giới, số lượng phụ nữ nắm giữ các chức vụ
chính quyền cấp cao, kể cả cấp cao nhất và bộ phận NNL nữ nghiên cứu
khoa học ở các lĩnh vực khác nhau tăng lên rõ rệt. Thực tế chứng minh,
NNLnữ không thua kém nam giới, xét trên phương diện trí tuệ, năng lực và
những phẩm chất khác. Như vậy, việc phát triển NNL nữ, đặc biệt NNL nữ
nghiên cứu khoa học là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay.
Đất nước đã trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và
Nhà nước đã có những đường lối, chủ trương, chính sách phát triển và sử dụng
sức mạnh to lớn của NNL nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, để phát triển được NNL nữ nghiên cứu khoa học trong điều kiện hiện
nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn: khắc phục hậu quả chiến tranh; điều kiện
xuất phát của đất nước vốn đã lạc hậu; tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” của
Nho giáo nên vấn đề phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học là một nội dung
quan trọng cần được quan tâm, nghiên cứu. Hiện nay, những cơ hội và thử
thách đã và đang đặt ra hơn bao giờ hết, mọi tiềm năng quốc gia phải được
khai thác hợp lý, trong đó có NNL nữ, đặc biệt là NNL nữ nghiên cứu khoa
học.
Trong những năm qua, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật để đạt được sự bình đẳng giới và phụ nữ đã có nhiều đóng góp
tích cực vào quá trình phát triển của đất nước. Song, thực tế số cán bộ nữ
tham gia hoạt động NCKH còn ít. Sự bình đẳng trong hoạt động NCKH
giữa nam và nữ còn một khoảng cách khá xa. Điều tra của Bộ Khoa học và
Công nghệ cho thấy, tỷ lệ phụ nữ làm chủ nhiệm đề tài cấp bộ trở lên năm
2010 chiếm khoảng 10% trong tổng số đề tài từ cấp bộ trở lên của khoa học
và công nghệ, trong đó phụ nữ làm chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước chỉ
chiếm 0,2%.Số liệu thống kê của UNESCO và tổ chức L’OREAL trong
chương trình “Vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học” cho thấy, trên thế
giới chỉ có 30% số sinh viên theo học các ngành khoa học là nữ giới; các
nhà khoa học là nữ chỉ chiếm khoảng 25% tổng số các nhà khoa học tòan
cầu và chỉ có 2,9% chủ nhân các giải Nobel là các nhà khoa học nữ. Vậy tại
sao lại có sự mất cần đối trong hoạt động NCKH giữa hai giới như vậy? Và
làm thế nào để khắc phụcthực trạng trên, khơi dậy sức mạnh của phụ nữ
trong NCKH? Đây thực sự là một bài toán đã và đang đặt ra cần phải giải
quyết trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, cụ thể hơn là vấn
1
đề bình đẳng giới trong hoạt động nghiên cứu khoa học trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên và từ vị trí công tác của bản thân nên
tác giả đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam” để làm luận án Tiến sĩ quản lý công
vừa có giá trị lý luận và vừa có giá trị thực tiễn cao.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục đích nghiên cứu là thực trạng thực hiện những nội dung
QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, qua đó đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về phát triển NNL
nữNCKH đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan những tài liệu có liên quan đến đề tài luận án;
hệ thống hóa những cơ sở lý luận về QLNN về phát triển NNL nữ nghiên
cứu khoa học; nghiên cứu thực trạng về NNL nữ nghiên cứu khoa học; thực
trạng quản lý phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học ở nước ta và nghiên
cứu nhằm đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng thực hiện các nội dung QLNNvề phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa họcở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu các nội dung QLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học tại các cơ sở nghiên cứu khoa học công lập.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN về
phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học từ năm 2010 đến nay.
- Về không gian: Nghiên cứu phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được tổ chức nghiên cứu dựa trên những cở sở của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con người, nguồn lực con người, NNL nghiên cứu khoa học, vai
trò của phụ nữ, giải phóng phụ nữ và những nghiên cứu về lao động nữ đã
có.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án, tác giả sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phương pháp thu thập
thông tin, số liệu; phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; phương pháp
chuyên gia; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; phương pháp phân tích,
2
đánh giá; phương pháp phân tích, thống kê; phương pháp bảng hóa và biểu
đồ hóa. Ngoài ra luận án còn sử dụng thêm các phương pháp nghiên cứu
tình huống, phân tích tác động của chính sách, phương pháp đối chiếu so
sánh, phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp liên ngành của xã
hội học và khoa học về giới.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học của luận án
5.1. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
Hoạt độngQLNNvề phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt
Nam hiện nay đang được thực hiện thế nào? Những ưu điểm và hạn chế
trong QLNNvề phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học hiện nay? Những
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam?
Cần phải làm gì để nâng cao hiệu QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam trong giai đoạn kế tiếp?
5.2. Giả thuyết khoa học của đề tài
Giả thuyết nghiên cứu là thực trạng hoạt động QLNN trong việc phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đã đạt những kết quả nhất
định, tuy nhiên còn những hạn chế. Nếu nghiên cứu và chỉ ra được các
nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế thì sẽ xây dựng được một hệ
thống các giải pháp QLNN phù hợp khắc phục những tồn tại và hoàn thiện
một số chính sách phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học thì sẽ có được
đội ngũ các nhà khoa học nữ đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
6. Đóng góp mới của Luận án
6.1. Về lý luận
Luận án sẽ góp phần làm sâu sắc hơn những cơ sở lý luận về QLNN
vềNNL nữ NCKH ở Việt Nam;làm rõ nội hàm của QLNN đối với phát triển
NNL nữ NCKH, bao gồm: các khái niệm liên quan, chủ thể và đối tượng quản
lsy NNL nữ NCKH; các nội dung QLNN về NNl nữ NCKH và những yếu tố
ảnh hưởng đến quản lý phát triển NNL nữ NCKH ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp cho độc giả, những nhà
quản lý một bức tranh tổng quan tình hình QLNN về phát triển NNL nữ
nghiên cứu khoa học ở nước ta bao gồm những thực trạng thực hiện các nội
dung quản lý, những kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế cũng như
những nguyên nhân dẫn đến những kết quả đó trong QLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
Luận án đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao chất lượng NNL của đất
nước trong bối cảnhxây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của Luận án
Luận án có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả
QLNN về phát triển NNL nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng NNL
3
xã hội phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách để
xây dựng và thực hiện chính sách phát triển NNLnghiên cứu khoa học nói
chung và phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học nói riêng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống lý luận và thực tiễn của luận án cũng có
ý nghĩa thiết thực trong nghiên cứu giảng dạy chuyên đề QLNN về phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học tại Học Viện Hành chính Quốc gia.
8. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận án được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Cơ sở khoa học QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học
Chương 3: Thực trạng của QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa họcở Việt Nam
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiệnQLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan những công trìnhnghiên cứu liên quan đến luận án
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển nguồnnhân lực
Nghiên cứu về NNL và phát triển NNL là một chủ đề nhận được sự
quan tâm Nghiên cứu về NNL và phát trỉển NNL là một chủ đề được nhiều
học giả và các nhà quản lý hết sức quan tâm ở mọi quốc gia vùng lãnh thổ trên
thế giới. Ở Việt Nam, khi đất nước ta bước vào giai đoạn mở cửa và hội nhập
quốc tế, nghiên cứu về phát triển NNL càng được các cấp, các ngành và các
nhà khoa học quan tâm, có thể kể đến một số công trình: Nghiên cứu của Trần
Thị Tuyết: “Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế”, luận án tiến
sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 1995;Nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thanh: “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục và đào tạo
đối với sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học, Viện Triết học 2001; nghiên cứu
của Bùi Thị Thanh: “Phát triển nguồn nhân lực đồng bằng song Cửu long đến
năm 2020”, đề tài luận án tiến sỹ Kinh tế 2005, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, …
Nghiên cứu về NNL và phát triển NNL còn được trao đổi trên các tạp
chí chuyên ngành, có thể kể đến một số bào viết như: Bài viết của Vũ Thị
Mai Oanh:“Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam và vấn đề nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực”, Tạp chí phát triển nhân lực số 2/2012; Đặng
Hữu Toàn: “Phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế 4
xã hội 2011 – 2020”, Tạp chí phát triển nhân lực số 3/2013; Trần Thị Lan:
“Nâng cao chất lượng lao động của tri thức giáo dục đại học – khâu quan
trọng để thực hiện chiến lược nhân lực theo quan điểm của Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, Tạp chí phát triển Nhân lực, số 5/2013, …
1.1.2. Những công trình nghiên cứu QLNN về NNL nữ nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu QLNN về phát triển NNL nữ ở nước ta trong những năm
gần đây đã và đang dần trở thành một chủ đề được các cơ quan quản lý và
các học giả, các nhà nghiên cứu hết sức quan tâm, nhằm từng bước xây
dựng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này trong phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, có thể kể đến một số công trình như: Nghiên cứu của Đỗ Thị
Thạch: “Tri thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay – tiềm năng
và phương hướng xây dựng”, luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh 1999; nghiên cứu của Lê Thị Thúy: “Phát triển
nguồn nhân lực nữ nhằm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
ở miền núi phía Bắc”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế trung ương 2012; nghiên cứu của Nguyễn Thị Giáng Hương: “Vấn
đề phát triển NNL nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2013; nghiên cứu của
Nguyễn Bá Thịnh: “Vai trò của phụ nữ trong công nghiệp hóa nông thôn –
Nghiên cứu khu vực đồng bằng Sông Hồng”, luận án tiến sĩ Khoa học xã
hội, 2001. Bài viết của Đặng Ánh Tuyết: “Phát triển nguồn nhân lực nữ ở
Việt Nam, thực trạng và những thách thức”, Tạp chí nghiên cứu khoa học
Công đoàn tháng 9/2015,..
1.2. Nhận xét về tổng quan tài liệu và hướng nghiên cứu tiếp theo của
luận án
1.2.1. Những kết quả đạt được:
Các công trình nghiên cứu về NNL ở nước ta khá đa dạng và
phong phú, tập trung chủ yếu ở các các khía cạnh nghiên cứu về NNL lao
động, NNL phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, NNL có chất lượng cao.Tài
liệu tổng quan đã xây dựng khá hoàn thiện những cơ sở lý luận về NNL xã
hội, nguồn gốc hình thành, yếu tố chi phối sự phát triển của NNL xã
hội.Nghiên cứu và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa giáo dục và đào tạo với sự
phát triển NNL của đất nước. Xây dựng được những cơ sở lý luận về vai
trò của giáo dục và đào tạo. Các công trình, bài viết đã tìm hiểu một số nội
dung để phát triển NNL như đào tạo, bồi dưỡng NNL; quy hoạch phát triển
NNL; xây dựng và thực hiện những cơ chế, chính sách đối với việc phát
triển NNL lao động.Các đề tài khoa học, công trình, dự án cũng đã điều tra,
nghiên cứu về thực trạng NNL, thực trạng quản lý NNL nữ ở một số tổ
chức, cơ quan, địa phương và đề xuất được những giải pháp quản lý.NNL
nữ lao động ở nông thông và vai trò của NNL nữ ở nông thôn cũng được
các học giả quan tâm, nghiên cứu.
5
1.2.2. Những khía cạnh, nội dung cần tiếp tục nghiên cứu:Rất ít những
công trình, bài viết nghiên cứu NNL dưới góc độ quản lý công. Bên cạnh
đó, nghiên cứu QLNN về phát triển NNL nữ cũng rất ít các học giả tiếp
cận, xem xét và nghiên cứu.Hệ thống cơ sở lý luận về phát triển NNL nữ
còn chưa được nghiên cứu và xây dựng đầy đủ, hoàn thiện.Điều tra, nghiên
cứu về thực trạng NNL nữ, NNL nữ nghiên cứu cũng chưa được các nhà
khoa học ở Việt Nam chú ý, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào
tập trung điều tra, nghiên cứu về thực trạng NNL nữ nghiên cứu khoa học ở
Việt Nam.Thực tế nghiên cứu hiện nay, chính sách đối với đội ngũ các nhà
khoa học nói chung và các nhà khoa học nữ ở nước ta hiện nay còn nhiều
bất cập. Về cơ sở vật chất, tài chính, ngân sách phát triển NNL nữ nghiên
cứu khoa học cũng chưa được xem xét, chưa làm rõ được mối quan hệ giữa
cơ sở vật chất với việc đào tạo và bồi dưỡng NNL nữ nghiên cứu khoa học.
Hội nhập và hợp tác quốc tế trong hoạt động phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học hiện nay cũng chưa được nghiên cứu và tìm hiểu.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1. Nguồn nhân lực nữ NCKH và phát triển NNL nữ NCKH
2.1.1. Khái niệm NNL nữnghiên cứu khoa học
2.1.1.1. Nguồn nhân lực nữ
NNL nữ được hiểu là một thuật ngữ dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn
của tổng thể nữ giới có khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra
của cải, vật chất, tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương
lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất
lượng, cơ cấu, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm và thành tựu xã hội mà
bộ phận nữ giới đó đạt được trong quá khứ và khả năng đạt được trong
tương lai.
2.1.1.2. Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học đó là sự phát hiện ra bản chất sự vật, phát triển
nhận thức khoa học về thế giới, là quá trình tìm và sáng tạo ra phương pháp
mới với phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục
đích hoạt động sống, tồn tại và phát triển của con người.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm tòi, sáng tạo và phát hiện ra cái
mới, những quy luật và bản chất của sự vật, hiện tượng, những phương tiện
và kỹ thuật mới để phục vụ cho nhu cầu của xã hội, của con người.
2.1.1.3. NNL nữ nghiên cứu khoa học
NNL nữ nghiên cứu khoa học là một khái niệm dùng để chỉ bộ phận
những phụ nữ đang hoạt động, công tác trong lĩnh vực khoa học, nhằm tìm
kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm để phát hiện ra những cái mới về
bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp
và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.
6
2.1.2. Phát triển nguồn nhân lực nữ nghiên cứu khoa học
Phát triển nhân lực nữ nghiên cứu khoa học là tổng thể các chính
sách, hình thức và biện pháp nhằm nâng cao về số lượng và chất lượng
NNL nữ nghiên cứu khoa học; đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý, sử
dụng tạo sự bình đẳng giới để đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển
bền vững của đất nước.
2.1.3. Đặc điểm của NNL nữ nghiên cứu khoa học: Là nguồn lực lao
động có chất lượng cao.Đối tượng lao động của NNL nữ nghiên cứu khoa
học là những kiến thức, tri thức mới, sự vật, hiện tượng, quy luật mới.
Phương thức và phương pháp lao động của NNL nữ nghiên cứu khoa học
cũng có sự khác biệt rất lớn đối với các phương thức, phương pháp lao
động của các lĩnh vực khác. Hình thức lao động của NNL nữ nghiên cứu
khoa học cũng rất phong phú, đa dạng.Sản phẩm hoạt động của NNL nữ
nghiên cứu khoa học không có thời gian cụ thể.Thời gian lao động của đội
ngũ cán bộ nữ NCKH không xác định được cụ thể, có thể trong giờ
hành chính nhưng cũng có thể ngoài giờ hành chính vì điều này phụ
thuộc vào đặc điểm của đối tượng nghiên cứu khoa học. Do các hiện
tượng tự nhiên, xã hội đa dạng, phong phú nên phạm vi hoạt động NCKH
cũng rất đa dạng, phong phú, nhiều hoạt động NCKH đòi hỏi chuyên gia,
nhà nghiên cứu phải có sự kiên trì, dũng cảm và đức hy sinh.Khác biệt với
NNL nam nghiên cứu khoa học, NNL nữ nghiên cứu khoa học ngoài nhiệm
vụ về hoạt động nghiên cứu thì họ phải thực hiện thiên chức làm mẹ, làm
vợ, việc thực hiện thiên chức này người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi
hơn so với nam giới trong cuộc sống, cũng như cơ hội thăng tiến ở cơ quan
nghiên cứu.
2.2. Sự cần thiết QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm QLNN về phát triển NNL nữ NCKH
Khái niệm quản lý nhà nước
Theo các nhà nghiên cứu quản lý hành chính nhà nước: “QLNN là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển
các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.”
QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
Có thể hiểu một cách ngắn gọn, QLNNvề phát triển NNL nữ nghiên
cứu khoa học là sự tác động có tổ chức, có mục đích và bằng quyền lực và
pháp luật của nhà nước nhằm định hướng sự phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học, khai thác và sử dụng có hiệu quả NNL nữ nghiên cứu khoa học
đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.2.2. Tính cấp thiết của việc QLNN về phát triển NNL nữ NCKH
7
NNL nữ nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng: Là nguồn lao
động xã hội, đây là NNL lao động nữ có chất lượng cao của xã hội; Là lực
lượng chủ yếu trong việc xây dựng những luận cứ khoa học, là những căn
cứ quan trọng cho các ngành và chính quyền các cấp xây dựng những chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội. NNL n ữ NCKH tham gia
vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng tạo NNL nghiên cứu khoa học cho đất
nước trong tương lai. NNL nữ nghiên cứu khoa học còn có trách nhiệm tổ
chức chỉ đạo chuyên môn, hướng dẫn nghiên cứu viên chính, nghiên cứu
viên, trợ lý nghiên cứu, cộng tác viên tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa
học; Tham gia nghiên cứu tìm hiểu các quy luật vận động của tự nhiên và
xã hội, cải tiến quy trình sản xuất, đổi mới khoa học và công nghệ. NNL nữ
nghiên cứu khoa học tham gia vào các hoạt động chủ trì các hoạt động
nghiên cứu khoa học; Tham gia vào các công tác đoàn thể, công tác xã hội;
Tham gia vào công tác cán bộ, các hoạt động tuyển dụng, bố trí, điều động,
luân chuyển, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ.
2.2.3. Nội dung QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
Tiếp cận dưới khía cạnh khoa học quản lý công, QLNN về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học bao gồm các nội dung:Xây dựng các chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách, chương trình, dự án về đối phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học;Xây dựng và ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học;Tổ chức bộ
máy QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học;Tuyển dụng, đào
tạo, sử dụng NNL nữ nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học;Thanh tra, kiểm soát, tổng kết, đánh giá hoạt
động phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học.
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về phát triển NNL nữ nghiên
cứu khoa học
2.3.1. Những yếu tố chủ quan
2.3.2. Những yếu tố khách quan
2.4. Kinh nghiệm thế giới QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm thế giới QLNN về phát triển NNL nữ NCKH
Khái quát hóa về kinh nghiệm phát triển NNL của một số quốc gia
đã rất thành công trong phát triển NNL nói chung và NNL nữ có chất
lượng cao, là những bài học quý cho sự phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam. Các quốc gia đó là: Mỹ , Nhật Bản, Trung Quốc.
2.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: Cần xác định rõ mục tiêu cụ
thể trong phát triển NNL nữ khoa học trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ
thể; Xây dựng khung thể chế hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và hỗ trợ cho
người phụ nữ khi tham gia lao động đặc biệt là lao động khoa học; Đổi mới
giáo dục và đào tạo toàn diện, tập trung vào việc đổi mới giáo dục đại học;
Tuyển chọn và tuyển dụng nhân tài công bằng; Xây dựng chính sách sử
dụng và đãi ngộ đối với tài năng khoa học; Tạo môi trường nghiên cứu
khoa học hiện đại, dân chủ; Nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của người
phụ nữ; Quản lý tốt sự phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học.
8
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁTTRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NỮ NCKH Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về NNL nghiên cứu khoa học và NNL nữ NCKH
3.1.1. Thực trạng NNL nghiên cứu khoa học
Về quy mô và số lượng NNL nghiên cứu khoa học
Theo số liệu của các cuộc điều tra, nghiên cứu của Bộ Khoa học và
Công nghệ những năm gần đây cho thấy, năm 2015, cả nước có 164.744
người tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học (hay còn được gọi là nghiên
cứu phát triển). Đây là toàn bộ số người tham gia nghiên cứu khoa học bào
gồm cả tham gia nghiên cứu toàn bộ thời gian và bán thời gian.
Về chất lượng NNL nghiên cứu khoa học
Kết quả điều tra cho thấy, tính đến hết năm 2015 hiện cả nước có
128.997 người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học có
trình độ từ cao đẳng trở lên. Trong đó tiến sĩ là 12.261 người; thạc sĩ có
45.223 người; đại học có 66.684 người và cao đăng có 4.827 người.
3.1.2. Thực trạng NNL nữ nghiên cứu khoa học
Về quy mô, số lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến hết năm 2014, tổng số
NNL nữ nghiên cứu khoa học trên phạm vi cả nước là 73.700 người, trong
đó khu vực nhà nước có 61.862 người chiếm đại đa số 83,94% tổng số
NNL nữ nghiên cứu khoa học; số lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học
ngoài khu vực nhà nước có 9.772 người và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có 2.066 người. Nếu so với tổng số NNL nghiên cứu khoa học của cả
nước thì NNL nữ nghiên cứu khoa học còn khá thấp chiếm tỷ lệ 44,74%.
Bảng 3.4: Thống kê về quy mô, số lượng NNL nữ NCKH theo khu vực
kinh tế và theo chức năng làm việc
Tổng
Chia theo chức năng làm việc
nhân
Cán bộ Cán bộ
Thành phần kinh tế
lực
Cán bộ
kỹ
Khác
nghiên nghiên
hỗ trợ
cứu
thuật
cứu
Tổng số NNL
164.744 128.997 12.799 15.149 7.799
Nhà nước
139.531 112.191
8.898 12.829 5.613
Ngoài nhà nước
20.917 15.076
2.837
1.569 1.435
Có vốn đầu tư nước
4.296
1.730
1.064
751
751
ngoài
Nhân lực NCKH nữ
73.700 56.846
5.033
8.412 3.409
Nhà nước
61.862 48.497
3.833
6.964 2.568
Ngoài nhà nước
9.772
6.972
958
1.171
671
Có vốn đầu tư nước
2.066
1.377
242
277
170
ngoài
Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&PT 2014 và Điều tra doanh nghiệp 2014
Nghiên cứu NNL nữ nghiên cứu khoa học theo chức năng làm việc
cho thấy tổng số NNL nữ trực tiếp làm nhiệm vụ nghiên cứu có 56.846
9
người, chiếm tỷ lệ 77,13%; NNL nữ là cán bộ kỹ thuật có 5.033 người,
chiếm tỷ lệ 6,83%; NNL nữ làm nhiệm vụ hỗ trợ nghiên cứu khoa học có
8.412 người, chiếm tỷ lệ 11,41% và NNL làm những nhiệm vụ khác là
3.068 người, chiếm tỷ lệ 4,63%.
Về chất lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu về chất lượng NNL nữ trực tiếp làm nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học cho thấy số lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học có trình độ tiến
sĩ là 3.667 người, chiếm tỷ lệ 6,46 %; số lượng NNL nữ nghiên cứu khoa
học có trình độ thạc sĩ là 23.503 người, chiếm tỷ lệ 41,36 %; số lượng NNL
nữ nghiên cứu khoa học có trình độ đại học chiếm đại đa số với 27.672
người, tỷ lệ là 48,71 %; còn lại là trình độ cao đẳng với 2.004 người, chiếm
tỷ lệ 3,52 %.
Bảng số 3.6: Thống kê chất lượng NNL nữ NCKH theo khu vực hoạt
động khoa học và theo trình độ chuyên môn.
Đơn vị tính: Người
Chia theo trình độ chuyên
môn
Tổng Tỷ lệ
Khu vực hoạt động
số
% Tiến sĩ Thạc
Đại
Cao
sĩ
học
đẳng
1. Tổng số cán bộ
105.230
11.501 34.618 55.116 3.995
nghiên cứu
2. Số cán bộ nghiên cứu
là nữ
56.846 100.00 3667 23.503 27.672 2004
chia theo khu vực hoạt
động:
Các viện, trung tâm
647 3.022 4.501
269
14.85
NCKH
8.439
Trường đại học
434
32.400 57.00 2.632 17.737 11.597
Đơn vị sự nghiệp
9.11
165 1.196 3.321
498
5.180
Cơ quan hành chính
6.57
62 1.002 2.514
156
3.734
Doanh nghiệp
94
455 5.438
557
6.544 11.51
Phi lợi nhuận
0.97
67
91
301
90
549
Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&PT 2014 và Điều tra doanh nghiệp 2014
Nghiên cứu Bảng 3.6 cho thấy, NNL nữ nghiên cứu khoa học có chất
lượng cao tập trung chủ yếu ở khu vực đại học với 2,632 người có trình độ
tiến sĩ và 17.737 người có trình độ thạc sĩ; các viện, trung tâm nghiên cứu
có 647 tiến sĩ và 3.022 thạc sĩ; các đơn vị sự nghiệp khác có 165 tiến sĩ và
1.196 có trình độ thạc sĩ. Còn lại ở các khu vực khác NNL nữ nghiên cứu
khoa học có chất lượng cao rất ít, chưa đến 100 người có trình độ tiến sĩ
trên phạm vi cả nước.
Kết quả khảo sát về quy mô số lượng và chất lượng của NNL nữ
nghiên cứu khoa học cho thấy các nhóm khách thể được khảo sát đã đánh
giá khá tương đồng nhau, các khách thể tham gia khảo sát đều nhận định
10
NNL nữ nghiên cứu khoa học tuy đông đảo về số lượng nhưng chưa đảm
bảo về chất lượng, thể hiện có 18/30 số ý kiến CBQL khẳng định NNL nữ
nghiên cứu khoa học đông đảo về số lượng, nhưng chưa đảm bảo về chất
lượng, chiếm tỷ lệ 60%; trong khi đó cũng nội dung này, có 118/270 số ý
kiến nữ cán bộ NCKH đồng ý, chiếm tỷ lệ 43,7%. Chung cả hai nhóm đối
tượng khảo sát là 136 ý kiến, chiếm tỷ lệ 68,0%.
Về thực trạng cơ cấu NNL nữ nghiên cứu khoa học, kết quả khảo sát
đều khẳng định NNL nữ nghiên cứu khoa học tập trung đông ở khu vực
nhà nước, số lượng nữ cán bộ NCKH ở khu vực ngoài khu vực nhà nước và
ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn mỏng, kết quả khảo sát cũng đã
phản ánh đúng thực trạng điều tra của Bộ Khoa học và Công nghệ, đây
thực sự là vấn đề cần quan tâm trong việc phát triển NNL nghiên cứu khoa
học nói chung và phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học nói riêng.
3.2. Thực trạng thực hiện các nội dung QLNN về phát triển NNL nữ
nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược, quy hoạch
phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu về thực trạng số lượng và chất lượng của các chiến lược,
kế hoạch, quy hoạch phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học cho thấy:
phần lớn các ý kiến khảo sát đều cho rằng hiện nước ta chưa có đầy đủ các
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học,
thể hiện có 59% số ý kiến được hỏi cho là các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học chưa đầy đủ, và chưa đảm
bảo về chất lượng, trong đó nhóm khách thể CBQL đánh giá là 53%, nhóm
khách thể nữ cán bộ NCKH đánh giá là 59,63%. Kết quả khảo sát này cũng
phù hợp với thực tiễn hiện này, mặc dù chúng ta có nhiều chiến lược, kế
hoạch, quy hoạch phát triển NNL, nhưng hầu hết chỉ là những kế hoạch,
quy hoạch mang tính tổng thể của cả nước cho phát triển NNL đất nước,
NNL khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, những chiến lược, kế hoạch này
mang tính chất định hướng chung cho cả phát triển NNL nghiên cứu khoa
học nam và nữ. Một số bộ, ngành và một số địa phương có xây dựng chiến
lược phát triển NNL nữ nhưng hầu hết là lồng ghép với những chiến lược,
kế hoạch phát triển của bộ, ngành và của địa phương, kế hoạch phát triển
NNL nữ đưocự đề cập trong các văn bản này còn mờ nhạt, không cụ thể, rõ
ràng, không có giải pháp thực hiện cụ thể và cũng không có nguồn lực để
thực hiện. Chất lượng quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL cũng còn nhiều
nội dung cần phải xem xét, đặc biệt là mục tiêu, chỉ tiêu và nguồn lực thực
hiện mục tiêu của chiến lược, quy hoạch.
3.2.2. Thực trạng công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
Nhìn nhận và đánh giá về thực trạng thể chế pháp luật về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học cho thấy trong những năm gần đây, đặc biệt
11
từ giai đoạn 2011 – 2015 hệ thống thể chế pháp luật về khoa học và công
nghệ nói chung và chính sách phát triển NNL nghiên cứu khoa học ngày
càng được hoàn thiện, đặc biệt là thể chế pháp luật về thu hút, sử dụng
NNL nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, những thể chế luật pháp về phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học còn chưa được quan tâm nhiều. Kết quả
khảo sát cho thấy có 143/300 khách thể khảo sát khẳng định hệ thống thể
chế pháp luật về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học chưa đầy đủ, chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của yêu cầu phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học, chiếm tỷ lệ 47,67%. Số ý kiến cho là đầy đủ, đáp ứng được yêu
cầu phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học là 77/300 ý kiến, chiếm tỷ lệ
25,67%; Số ý kiến cho là thể chế pháp luật đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học là 80/300, chiếm tỷ
lệ 26,67%.
3.2.3. Thực trạng về tổ chức bộ máy QLNN về phát triển NNL nữ NCKH
Theo quy định của hệ thống pháp luật hiện hành Việt Nam bộ máy
QLNN về phát triển NNL nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay bao
gồm: Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, cơ quan ngang bộ và
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chính phủ có trách nhiệm thống nhất QLNN về phát triển NNL
nghiên cứu khoa học trong phạm vi cả nước và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế, chính sách cụ thể để bảo đảm phát triển NNL
nghiên cứu khoa học.
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng QLNN về khoa học và công nghệ, bao gồm: hoạt động khoa học và
công nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; sở hữu trí tuệ; tiêu
chuẩn đo lường chất lượng; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt
nhân; QLNN các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc Bộ quản lý theo quy
định của pháp luật.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2016, Luật
Khoa học và Công nghệ 2013 thì UBND cấp tỉnh thực hiện QLNN về khoa
học và công nghệ trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Ở địa phương, Sở Khoa học và Công nghệ là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tham
mưu, giúp UBND cấp tỉnh QLNN về khoa học và công nghệ, bao gồm:
hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công
nghệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; sở hữu trí tuệ; ứng dụng bức xạ và
đồng vị phóng xạ; an toàn bức xạ và hạt nhân; các dịch vụ công trong lĩnh
vực thuộc Sở quản lý trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Do chủ trương của nhà nước là thành lập những cơ quan QLNN đa
ngành, nhằm thu gận đầu mới, cải cách hành chính nên đối với cấp huyện
Phòng Kinh tế hoặc Phòng Công Thương là cơ quan chuyên môn thuộc
12
UBND cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN
về khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật.
3.2.4. Thực trạng việctuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng và tôn
vinhNNL nữ nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về phát triển
nguồn nhân lực nữ NCKH
Kết quả khảo sát về thực trạng việc thu hút, tuyển dụng, sử dụng và
đãi ngộ đội ngũ các nhà khoa học nữ cho thấy hầu hết những nội dung này
chưa được nhìn nhận và đánh giá cao, cụ thể:
- Nhóm chính sách thu hút và tuyển dụng NNL nữ nghiên cứu khoa
học có 26,7% khách thể CBQL cho là tốt; 30% ý kiến cho là bình thường
và 43,3% ý kiến cho là chưa tốt. Đối với nhóm khách thể là nữ cán bộ
NCKH thì có 10% ý kiến cho là tốt; 28,15% ý kiến cho là chưa tốt và
61,85% ý kiến cho là chưa tốt. Theo điều tra và thống kê của Bộ Khoa học
và Công nghệ, năm 2011 cả nước có 57.131 phụ nữ hoạt động trong lĩnh
vực nghiên cứu phát triển trong đó 43.844 người trực tiếp làm công tác
NCKH, 4.326 người làm nhiệm vụ kỹ thuật, 6.943 người làm nhiệm vụ hỗ
trợ NCKH và khác là 2.099 người.Đến năm 2014 số lượng phụ nữ tham gia
hoạt động NCKH tăng lên nhanh chóng cụ thể: Toàn bộ NNL nữ nghiên
cứu khoa học là 73.700 người, trong đó cán bộ nghiên cứu là 56.847 người,
cán bộ kỹ thuật là 5.033 người; cán bộ hỗ trợ là 8.412 người và những
người làm nhiệm vụ khác là 3.409 người.[15,tr72] Như vậy, kể từ năm 2011
đến năm 2014, số lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học đã tăng 16.569
người, trung bình mỗi năm tăng 5.523 người, tương đương với 9,68% /
năm. Nếu tính riêng lực lượng trực tiếp tham gia NCKH thì sau 3 năm số
lượng tăng lên là 13.003 người, trung bình mỗi năm tăng 9,89%/ năm. Như
vậy có thể khẳng định, mặc dù chính sách thu hút, tuyển dụng được đánh
giá là chưa phù hợp và đảm bảo nhưng sức hút của các lĩnh vực NCKH vẫn
hấp dẫn đối với NNL lao động nữ, điều này trái ngược với kết quả khảo sát,
đánh giá.
- Nhóm chính sách sử dụng NNL nữ nghiên cứu khoa học có 23,33%
ý kiến CBQL đánh giá là tốt; 20% ý kiến cho là trung bình và 56,67% ý
kiến cho là chưa tốt. Với nhóm khách thể nữ cán bộ NCKH có 11,85% ý
kiến đánh giá là tốt; 31,11% đánh giá ở mức trung bình và 57,04% đánh giá
là ở mức độ chưa tốt.
- Nhóm chính sách đãi ngộ đội ngũ những nhà khoa học nữ được các
khách thể khảo sát đánh giá là chưa tốt ở mức rất cao, nhóm khách thể
CBQL đánh giá chính sách chưa tốt ở mức 70%, nữ cán bộ NCKH đánh giá
chính sách chia tốt ở mức 67,78%. Đây cũng là thực tế mà rất nhiều các
nhà khoa học và các nhà quản lý ở các cơ sở nghiên cứu khoa học phàn nàn
về chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với NNL có chất lượng cao, phục
vụ cho nhu cầu phát triển đất nước. Theo nhiều ý kiến của các khách thể
khảo sát, chính sách đãi ngộ đối với NNL nghiên cứu khoa học không được
13
bằng so với các viên chức thuộc ngành khác mà còn có phần thấp chính
điều này cũng là một nguyên nhân dẫn đến chưa thực sự hấp dẫn và thu hút
được NNL nữ có chất lượng cao vào hoạt động NCKH.
Thực trạng việc đào tạo, bồi dưỡng NNL nữ nghiên cứu khoa học
Sốliệu thống kê cho thấy, trong những năm gần đây, công tác đào tạo
và bồi dưỡng NNL nữ nghiên cứu khoa học cũng được các cơ quan chức
năm khá quan tâm, thể hiện: Năm 2011, trong tổng số 43.844 người trực
tiếp NCKH, số nhà khoa học nữ có trình độ tiến sĩ là 2.890 người, thạc sỹ
là 15.649 người và đại học là 23.594 người và cao đẳng là 1.711 người. sau
3 năm, đến năm 2014, số người có trình độ tiễn sĩ là 3.637 người, số người
có trình độ thạc sỹ là 23.513 người, số người có trình độ cử nhân là 27.692
người và cao đẳng là 2004 người. Như vậy về mặt chuyên môn sau 3 năm
chúng ta đã đào tạo thêm được 747 người, thạc sỹ đào tạo thêm được 8.044
người, số đào tạo thêm đối với trình độ cử nhân là 4.098 người.
Khảo sát thực trạng việc thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng
NNL nữ nghiên cứu khoa học cho thấy có 47/300 khách thể khảo sát cho là
việc đào tạo NNL nữ nghiên cứu khoa học tốt, chiếm tỷ lệ 15,67%; có
92/300 ý kiến đánh giá ở mức độ trung bình, chiếm tỷ lệ 30,67%; số ý kiến
cho là thực hiện chưa tốt rất cao, 161/300 ý kiến, chiếm tỷ lệ 53,67%.
Kết quả khảo sát thực trạng việc bồi dưỡng NNL nữ nghiên cứu khoa
học cho thấy có 41/300 ý kiến cho là thực hiện tốt, chiếm tỷ lệ 13,67%;
89/300 ý kiến cho là ở mức trung bình, chiếm tỷ lệ 29,67% và 170 /300 ý
kiến cho là thực hiện chưa tốt, chiếm tỷ lệ 56,67%.
Đánh giá về chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL nữ
nghiên cứu khoa học ở nước ta trong thời gian qua, nhiều khách thể được
khảo sát còn cho là chưa thực sự chất lượng, hiệu quả. Nhiều nội dung đào
tạo, bồi dưỡng còn chưa gắn với yêu cầu thực tiễn công việc. Nội dung đào
tạo còn chậm đổi mới, hình thức và phương thức đào tạo còn mang tính
hình thức, thị trường chưa thực sự chất lượng. Chương trình bồi dưỡng
NNL nghiên cứu khoa học có nhiều, nhưng nặng về lý luận chính trị,
QLNN, chưa thực sự sát với chức danh và vị trí việc làm của các nhà khoa
học.
Thực trạng việc tôn vinh đội ngũ những nhà khoa học nữ
Đánh giá về các giải thưởng tôn vinh các nhà khoa học nhiều ý kiến
của các nhà khoa học cho rằng, các giải thưởng nhằm tôn vinh các nhà
khoa học còn nghèo nàn, giải thưởng về khoa học và công nghệ chưa thực
sự có uy tín, chưa thực sự khác biệt so với các giải thưởng, tôn vinh ở các
hoạt động lĩnh vực khác. Trình tự, thủ tục và hình thức tôn vinh còn mang
nặng tính hình thức, rườm rà, phức tạp, chưa thực sự nhận được sự quan
tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Thực trạng việc hợp tác quốc tế về phát triển NNL nữ NCKH
14
Có thể thấy rằng việc hợp tác quốc tế trong hoạt động khoa học và
công nghệ nói chung và nghiên cứu khoa học nói riêng trong những năm
gần đây ở nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và có những nhiều
điểm tích cực. Xuất phát từ vị thế là một quốc gia chủ yếu đi nhận sự hỗ
trợ, giúp đỡ và phụ thuộc vào quốc gia khác trên thế giới, đến nay chúng ta
đã vươn lên, trở thành một quốc gia có quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng
phát triển với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Từ hình thức
hợp tác chủ yếu là nhận viện trợ đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên cứu khoa
học, đến nay chúng ta đã đa dạng hóa nhiều loại hình hợp tác khác nhau từ
đào tạo, bồi dưỡng đến, chia sẻ hợp tác NCKH, cùng tham gia hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng, cùng triển khai và tổ chức nhiều công trình dự án
NCKH. Gần đây chúng ta cũng tham gia đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên
cứu khoa học cho nhiều quốc gia khác trên thế giới và khu vực như: Hàn
Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Cu Ban, Bắc Triều Tiên, Lào, Cam phu chia.
Việc hợp tác trong hoạt động phát triển NNL nghiên cứu khoa học được
thực hiện đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ nghiên cứu cơ bản, đến
nghiên cứu ứng dụng; từ lĩnh vực tự nhiên đến các lĩnh vực xã hội.
3.2.5. Thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các pháp
luật, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ nghiên cứu khoa học
Kết quả khảo sát về thực trạng công tác thanh tra, kiểm ra và giải
quyết những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học cho thấy nhận định chung của các khách thể khảo sát là các cơ
quan chức năng và chủ thể quản lý chưa thực hiện tốt nội dung nhiệm vụ
này, thể hiện: Có 186/300 ý kiến cho là chưa thực hiện tốt công tác kiểm
tra, chiếm tỷ lệ 62,00%; 180/300 ý kiến được khảo sát cho là chưa thực
hiện tốt nội dung thanh tra, chiếm tỷ lệ 60,00%; 211 ý kiến cho là thực hiện
chưa tốt nhiệm vụ giải quyết những khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học, chiếm tỷ
lệ 70,33%.
So sánh ý kiến đánh giá của các nhóm khách thể cho thấy giữa hai
nhóm khách thể khảo sát có ý kiến chưa tương đồng nhau: Trong khi nhóm
khách thể CBQL của các tổ chức NCKH đánh giá việc thực hiện nội dung
này tương đối tốt, thì nhóm khách thể nữ cán bộ NCKH đánh giá là thực
hiện chưa tốt. Lý giải mâu thuẫn này ý kiến chuyên gia cho rằng: Ở nhóm
khách thể thứ nhất đánh giá là thiếu khách quan, vì họ là chủ thể của hoạt
động quản lý thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực này nên khi đánh giá hoạt động trên, những khách thể CBQL đã
mang tính chủ quan trong quá trình đánh giá.
15
3.3. Đánh giá thực trạng của QLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam
3.3.1. Ưu điểm
Thứ nhất, trong những năm qua, Chính phủ và các bộ ngành, đứng
đầu là Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành nhiều pháp luật, chính sách
quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ, trong đó có
những chính sách, pháp luật nhằm thu hút, tuyển dụng, đãi ngộ NNL
nghiên cứu khoa học. Thứ hai, đã xây dựng được một hệ thống các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, NNL lao động
của đất nước, NNL nghiên cứu khoa khá đầy đủ và đồng bộ từ trung ương
đến địa phương.Thứ ba, chúng ta đã thu hút được một số lượng lớn NNL
nghiên cứu khoa học nói chung và NNL nữ nghiên cứu khoa học nói riêng,
thể hiện ở quy mô, số lượng NNL nữ NCKH ngày càng gia tăng.Thứ tư,
phạm vi nghiên cứu khoa học phụ nữ tham gia nghiên cứu ngày càng mở
rộng, đến nay đội ngũ các nhà khoa học nữ tham gia ở mọi lĩnh vực nghiên
cứu khoa học của đất.Thứ năm, chất lượng NNL nữ nghiên cứu khoa học
ngày càng được nâng lên.Thứ sáu, số lượng các nhà khoa học nữ đạt các giải
thưởng khoa học được các tổ chức NCKH, các cơ quan chủ quản, Bộ Khoa học
và Công nghệ, các viện hàn lâm, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ vinh
danh ngày một nhiều. Thứ bảy, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng NNL nữ
nghiên cứu khoa học ngày càng được đẩy mạnh và củng cố về chất
lượng.Thứ tám, Hợp tác quốc tế về phát triển NNL khoa học và công nghệ
nói chung, NNL nữ nghiên cứu khoa học ngày càng được mở rộng, đa dạng
hóa cả về nội dung và hình thức.Thứ chín, công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý những khiếu nại, tố cáo trong phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
đã từng bước được quan tâm thực hiện hơn so với những giai đoạn trước
đây.
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
3.3.2.1. Hạn chế
- Chính sách phát triển NNL còn mang tính phổ quát cho tất cả mọi
chủ thể NCKH chưa có những VBQPPL, chính sách riêng cho việc phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học; Chưa có chiến lược, kế hoạch phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học trên phạm vi cả nước; Chất lượng NNL
nghiên cứu khoa học còn hạn chế thể hiện số công trình khoa học quốc tế,
bài báo quốc tế và sản phẩm đề tài NCKH được ứng dụng vào thực tiễn có
hiệu quả còn rất ít; Cơ cấu NNL nữ nghiên cứu khoa học cũng không đồng
đều giữa các ngành, các lĩnh vực, tập trung đông ở khu vực nhà nước và tại
các cơ quan, tổ chức nghiên cứu trung ương, mỏng ở các địa phương; Mặc
dù số lượng đội ngũ các nhà khoa học nữ đông đảo, tuy nhiên những người hoạt
động nghiên cứu khoa học ở các trung tâm, viện, tổ chức nghiên cứu chỉ chiếm
14,58% trong tổng số NNL nghiên cứu khoa học nữ cả nước; Tỷ lệ phụ nữ giữ
các vị trí quan trọng trong các tổ chức NCKH còn tương đối thấp, rất ít phụ nữ là
16
người đứng đầu các đơn vị nghiên cứu khoa học lớn; Trong những năm qua,
các chương trình, dự án, đề tài NCKH dành cho đội ngũ các nhà khoa học
nữ còn ít, chỉ tập trung vào một số các vấn đề bình đẳng giới, vì sự tiến bộ
phụ nữ, …; Tổ chức bộ máy QLNN về phát triển NNL nghiên cứu khoa
học, NNL nữ nghiên cứu khoa học còn phân tán, thiếu tập trung, thống
nhất; Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ vẫn mang nặng tính hình thức,
lợi ích nhóm, thiếu tính công khai, minh bạch; Quản lý hành chính trong
hoạt động NCKH còn chậm được đổi mới, đặc biệt là quản lý về ngân sách,
tài chính còn sơ cứng; nhiều quy định lỗi thời, lạc hậu nhưng vẫn duy trì.
3.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Do nước ta trải qua giai đoạn chiến tranh kéo dài, hậu quả chiến tranh
để lại vô cùng lớn. Chúng ta duy trì đường lối quản lý kinh tế, quản lý xã
hội theo phương thức XHCN kéo dài nên nhận thức và tư duy quản lý khoa
học, quản lý phát triển NNL nghiên cứu khoa học còn nặng nề tính hình
thức, bao cấp, thiếu năng động hiệu quả, mang nặng tính hành chính, mệnh
lệnh.Trình độ quản lý của các cơ quan chức năng chưa theo kịp, chưa thích
ứng với xu thế của thời đại. Thêm vào đó, chính sách pháp luật của nhà
nước chậm đổi mới, đặc biệt là chính sách đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên
cứu khoa học; chính sách thu hút và đãi ngộ nhân tài.Tổ chức bộ máy
QLNN về phát triển khoa học và công nghệ thiếu tính ổn định, sau 15 năm
hình thành và phát triển nên thành tựu trong quản lý còn chưa nhiều.Cơ chế
đầu tư cho phát triển NNL nghiên cứu khoa học còn chưa tương xứng so
với khu vực và trên thế giới.Thiếu sự quy hoạch phát triển NNL nghiên cứu
khoa học đồng bộ giữa khu vực nhà nước với các khu vực ngoài nhà
nước.Thị trường khoa học và công nghệ chậm phát triển, chính sách còn
thiếu tính đồng bộ và còn có những bất cập.Mô hình, tổ chức bộ máy các
trung tâm nghiên cứu còn chậm đổi mới, cơ sở vật chất và các nguồn lực
khác phục vụ cho hoạt động NCKH còn nghèo nàn, lạc hậu.
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆNQUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ NCKH
4.1. Quan điểm và định hướng về phát triển NNL nữ NCKH
Để từng bước khắc phục những tồn tại, bất cập trong phát triển khoa
học và công nghệ nói chung và NNL nghiên cứu khoa học ở nước ta nói
riêng, năm 2012, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã
ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu phát
triển NNL mà nghị quyết đã đặt ra, Đảng khẳng định:“Phải tiến hành đổi
mới quy hoạch phát triển NNL, cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng
cán bộ khoa học và công nghệ”, bao gồm:Quy hoạch phát triển nhân lực
khoa học và công nghệ phải gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh
17
tế - xã hội; Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng
dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các
chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật
chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi
ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Nâng cao năng lực,
trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý khoa học và công nghệ ở các
ngành, các cấp; Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học
và công nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học và công nghệ được giao chủ trì
nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ khoa học và công nghệ trẻ tài
năng; Chủ động phát hiện và đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ từ các trường
phổ thông, cao đẳng, đại học; Sử dụng hiệu quả đội ngũ sinh viên, nghiên
cứu sinh, thực tập sinh, chuyên gia khoa học và công nghệ học tập và làm
việc ở nước ngoài; Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả các công
trình khoa học và công nghệ; có chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối với tác
giả các công trình được công bố quốc tế, các sáng chế được bảo hộ trong và
ngoài nước; Ðổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán
bộ khoa học và công nghệ. Có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ khoa học
và công nghệ trình độ cao đã hết tuổi lao động có tâm huyết và còn sức
khoẻ làm việc vào công tác NCKH; Hoàn thiện hệ thống chức danh, chức
vụ khoa học và công nghệ. Cải tiến hệ thống giải thưởng khoa học và công
nghệ, danh hiệu vinh dự Nhà nước cho cán bộ khoa học và công nghệ.
Để thực hiện chiến lược có hiệu quả nhiệm vụ phát triển NNL đất
nước Chính phủ đã xác định phải tập trung vào bốn nội dung trọng tâm:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức về phát triển NNL, tạo sự chuyển biến
mạnh về nhân lực ở tất cả các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở và
người dân; phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến
lược, kế hoạch phát triển chung của mình; Sử dụng, đánh giá và đãi ngộ
nhân lực phải dựa vào năng lực thực và kết quả, hiệu quả công việc; Đào
tạo nhân lực phải gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao
động.Thứ hai, đổi mới căn bản QLNN về phát triển và sử dụng nhân lực
bao gồm: Xây dựng bộ tiêu chí về phát triển nhân lực và sáng tạo của các
địa phương và cấp quốc gia; đẩy mạnh phân cấp, thực hiện quyền tự chủ,
nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nhân lực. xây dựng
những cơ chế, chính sách đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội. Thể chế
hóa trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc phát triển nhân lực quốc
gia.Thứ ba, tập trung xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án
trọng điểm.Thứ tư, xây dựng và triển khai Chương trình đào tạo và chính sách
trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực, đặc biệt là hình thành và phát triển đội
ngũ chuyên gia đầu ngành trong giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ.
Để thực hiện thành công mục tiêu quy hoạch phát triển NNL khoa học
và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xác định phải tập trung vào 3
định hướng: Thứ nhất, đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển
18
NNL nghiên cứu khoa học; thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡngNNL nghiên cứu khoa học và thứ ba, đảm bảo kinh phí cho phát
triển nhân lực khoa học và công nghệ.
4.2. Giải pháphoàn thiệnQLNN về phát triển NNL nữ nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam
4.2.1. Hoàn thiện xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch phát
triển NNL nữ nghiên cứu khoa học:Bộ Khoa học và Công nghệ tham
mưu cho Chính phủ trong việc xây dựng nghị định quy định việc lập quy
hoạch phát triển NNL nghiên cứu khoa học của các bộ, ngành và của các
địa phương; Căn cứ vào Nghị quyết số 06-NQ-TW về đổi mới và phát triển
khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2012; Chiến lược phát triển NNL
Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020; quy hoạch phát triển NNL khoa
học và công nghệ Việt Nam, Bộ Trưởng Bộ Khoa Học và Công nghệ xây
dựng chiến lược, quy hoạch phát triển NNL khoa học và công nghệ Việt
Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; Các vụ quản lý khoa học dựa trên
các chiến lược, quy hoạch phát triển NNL nghiên cứu khoa học của đất
nước xây dựng kế hoạch phát triển NNL nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực
đơn vị phụ trách trình Bộ trường xem xét và phê duyệt; Các Sở Khoa học
và Công nghệ của các địa phương tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL nghiên cứu khoa học theo phạm
vi địa giới hành chính phụ trách; Tổ chức thực hiện nghiêm các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL của đất nước, NNL nghiên cứu khoa
học của các bộ, ngành và của các địa phương; Xây dựng và Ban hành
Chiến lược phát triển NNL lao động nữ ở Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020;
Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu và xây
dựng quy hoạch phát triển NNL khoa học và công nghệ nữ giai đoạn 2017
– 2020; Quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính
sách của nhà nước về vai trò của NNL nữ, về phát triển NNL xã hội. Cần
phải đổi mới nhận thức về phát triển NNL lao động, NNL nghiên cứu khoa
học, thay đổi nhận thức, nhìn nhận về phụ nữ và vai trò của phụ nữ đối với
sự phát triển, trên cơ sở đó biến nhận thức thành ý chí hành động mới đạt
hiệu quả cao.
4.2.2. Hoàn thiện thể chế pháp luật, chính sách về phát triển NNL nữ
nghiên cứu khoa học
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu và quán triệt nội dung quan điểm những văn kiện, nghị
quyết của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng con người Việt Nam trong
thời kỳ CNH, HĐH; chiến lược phát triển NNL đất nước; chiến lược đổi
mới giáo dục toàn diện, về phát triển khoa học và công nghệ đất nước trong
giai đoạn hiện nay để tiếp tục thể chế hóa những nội dung của các quan
điểm thành các VBQPPL; Rà soát, thống kê, phân loại những VBQPPL về
phát triển NNL nghiên cứu khoa học, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
19
về phát triển NNL nghiên cứu khoa học; Tổ chức các cuộc hội thảo, tọa
đàm khoa học nhằm tổng kết, đánh giá những VBQPPL về phát triển NNL,
tiếp thu những ý kiến đòng góp của các chuyên gia về chất lượng, hiệu quả
của các VBQPPL, trên cơ sở đó có những phương hướng sử đổi, bổ sung
và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển NNL nghiên cứu khoa học;
Nghiên cứu và lấy ý kiến của các nhà lập pháp về việc xây dựng những quy
định pháp luật nhằm định hướng phát triển NNL lao động nữ, NNL nữ
khoa học và công nghệ, NNL nữ nghiên cứu khoa học.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phát triển NNL nữ
nghiên cứu khoa học: Đổi mới và hoàn thiện các chính sách về tuyển dụng
NNL, NNL nữ nghiên cứu khoa học theo hướng ưu tiên, trọng dụng những
người có trình độ cao, những người có quá trình, kinh nghiệm NCKH xuất
sắc; Rà soát lại chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chính sách đãi
ngộ khác đối với các chức danh nghiên cứu khoa học; Xây dựng hệ thống
chính sách tôn vinh đội ngũ những nhà khoa học, hệ thống các giải thưởng
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
4.2.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy QLNN về phát triển NNL NCKH
- Rà soát lại toàn bộ hệ thống những cơ quan có chức năng QLNN về
khoa học và công nghệ, nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ
trên phạm vi cả nước; Nghiên cứu và xem xét đưa quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học về một chủ thể quản lý là Bộ Khoa học và Công nghệ, do hiện
nay chức năng quản lý phát triển khoa học và công nghệ còn chống chéo nhiều
cơ quan chức năng;Thành lập vụ phát triển NNL khoa học và công nghệ
trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, vụ có chức năng, nhiệm vụ là cơ
quan ham mưu, giúp việc cho Bộ trưởng trong việc quản lý và phát triển
NNL nghiên cứu khoa học;Xem xét sát nhập hai Viện Hàn lâm vào Bộ
Khoa học và Công nghệ để thống nhất chủ thể quản lý và phát triển khoa
học và công nghệ;Xây dựng những quy chế phối hợp giữa Bộ Khoa học và
Công nghệ với Các bộ, ngành và các địa phương trong việc phát triển NNL
nghiên cứu khoa học theo hướng giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ chủ
trì và điều phối hoạt động này.
4.2.4. Đổi mới QLNN về thực hiện một số hoạt động nhằm phát triển
nguồn nhân lực nữ nghiên cứu khoa học
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ các nhà
khoa học nữ nghiên cứu khoa học
Để đổi mới có hiệu quả hoạt động đào tạo và bồi dưỡng NNL nghiên
cứu khoa học, theo ý kiến của các khách thể khảo sát và của các chuyên gia
chúng ta nên tập trung vào những vấn đề sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên cứu khoa học phải gắn với nhu cầu
xã hội, nhu cầu của thị trường lao động; Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên cứu khoa học; đổi mới cả từ
nội dung chương trình, giáo trình, bài giảng; phương pháp đào tạo, bồi
20
dưỡng; cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo và bồi dưỡng NNL nghiên cứu
khoa học; Đổi mới mô hình các trường đại học, các viện NCKH trên phạm
vi cả nước; đẩy mạnh hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm ở các cơ sở
giáo dục đại học và các trung tâm, đơn vị NCKH; Xây dựng bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các trường đại học, các viện,
trung tâm NCKH trên phạm vi cả nước; Nghiên cứu và xây dựng các
chương trình bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị; những kiến thức QLNN
cho ngành khoa học và công nghệ riêng, phù hợp với đặc thù của ngành,
hoạt động NCKH; Tập trung nguồn lực tài chính đầu tư một số trường đại
học trọng điểm, các trung tâm nghiên cứu quốc gia để trong khoảng thời
gian 5 đến 10 năm chúng ta có thể có những trường đại học, các trung tâm
nghiên cứu có chất lượng hàng đầu châu lục và thế giới; Nâng cao năng lực
nghiên cứu cơ bản của các trường đại học trọng điểm quốc gia, phát triển
các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng trong các trường đại học, viện
nghiên cứu. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ
cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Xây dựng các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ quản lý khoa học và công
nghệ ở các cấp. Triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo chuyên gia khoa học
và công nghệ trong các định hướng, lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu
tiên; Đẩy mạnh việc hợp tác đào tạo, bồi dưỡng giữa các truờng đại học
trong nước với các cơ sở giáo dục đại học ở nước ngoài; chủ động tiếp thu
những quy trình, chương trình đào tạo, bồi dưỡng hiện đại; gắn hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng với hoạt động thí nghiệm, thực hành và sản xuất; Đẩy
mạnh công tác xã hội hóa đào tạo, bồi dưỡng NNL nghiên cứu khoa học.
Xây dựng và ban hành các chính sách nhằm quy định trách nhiệm của các
đơn vị sản xuất, kinh doanh trong việc phối hợp đào tạo, bồi dưỡng NNL
nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại
học, các trung tâm nghiên cứu quốc gia, các phòng thí nghiệm: Xây dựng
và ban hành các quy định về tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị dạy học,
phòng thí nghiệm, phòng thực hành và các phòng chức năng khác của các
cơ sở giáo dục đại học; Tập trung ngân sách tài chính đầu tư cơ sở vật chất
cho các trường đại học trọng điểm quốc gia, khuyến khích việc liên kết
giữa các phòng thí nghiệm với các trường đại học, các doanh nghiệp, nhà
máy; Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ
sở giáo dục đại học, các tổ chức NCKH để từng bước tự chủ trong việc xây
dựng cơ sở vật chất của các trường đại học, các viện NCKH; Xây dựng và
ban hành các chính sách nhằm đa dạng hóa các nguồn lực nhằm từng bước
chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa cơ sở vật chất và thiết bị trường học;
Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
các sản phẩm khoa học và công nghệ trong nước và nước ngoài được trao
đổi, mua bán trên thị trường; Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích
21
doanh nghiệp chủ động tiến hành các hoạt động NCKH. Xây dựng cơ chế
liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp để từng bước
nâng cấp cơ sở giáo dục đại học; Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất xây dựng
một số trung tâm dịch vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ làm
nòng cốt cho hệ thống tổ chức dịch vụ môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh
giá, định giá, thẩm định, giám định công nghệ.
Tăng cường việc tổ chức xã hội hóa hoạt động NCKH: Rà soát,
sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các văn bản, chính sách liên quan đến xã hội
hóa giáo dục, NCKH; Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục
đại học, các đơn vị, tổ chức NCKH công, đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị
sự nghiệp công lập có khả năng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động; Ban
hành các cơ chế tạo sự bình đẳng giữa hệ thống giáo dục đại học, tổ chức
nghiên cứu khoa học công lập và ngoài công lập trong tham gia đào tạo
NNL xã hội và hưởng các hỗ trợ của ngân sách nhà nước; Khuyến khích
các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước đóng góp, viện trợ
và hỗ trợ cho việc phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học dưới các hình
thức khác nhau; Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước thành lập trường đại
học tư thục; cho phép nhà đầu tư trong nước thành lập cơ sở giáo dục đại học
tư thục thuê giảng viên người nước ngoài giảng dạy một số chương trình quốc
tế; Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học hàng đầu
quốc tế, các trung tâm nghiên cứu quốc tế mở cơ sở đào tạo, phòng thí nghiệm
ở Việt Nam, đặc biệt là các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận;
Cải cách hành chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Để tiếp
tục thực hiện thành công, cải cách hành chính trong lĩnh vực NCKH nói chung
và phát triển NNL nữ nghiên cứu khoa học nói riêng tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của NNL nghiên cứu khoa học trong những năm tới cúng ta
cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm dưới đây:Tiếp tục rà soát các
VBQPPL quy định về trình tự, thủ tục có liên quan đến đào tạo phát triển
NNL nghiên cứu khoa học; Loại bỏ các quy định về trình tự, thủ tục quy định
về chính sách thu hút, tuyển dụng và sử dụng, đãi ngộ NNL nghiên cứu khoa
học không cần thiết; Nghiên cứu cắt giảm những thủ tục cho vay vốn, tín
dụng trong hoạt động khoa học và công nghệ, trong công tác đào tạo và bồi
dưỡng NNL nghiên cứu khoa học; Đổi mới hoạt động bình xét, phong tặng
các giải thưởng về NCKH, việc xem xét, bình chọn để các tổ chức, hiệp hội
các nhà khoa học tự xem xét và tôn vinh; Cải cách hành chính trong việc
lực chọn, đấu thầu các dự án, đề tài, đề án, chương trình NCKH ở các cấp
độ. Đổi mới thời gian, kế hoạch giao các đề tài, dự án NCKH cho những tổ
chức, cá nhân trúng thầu; Đổi mới cách thức thành lập hội đồng nghiệm thu
các đề tài, dự án, chương trình NCKH, việc nghiệm thu kết quả đề tài, dự
án NCKH phải gắn với hiệu quả thực tiễn ứng dụng trong đời sống xã hội;
Đổi mới các quy định về các thủ tục về ngân sách, tài chính chi cho hoạt
động NCKH; định mức chi cho các hoạt động NGKH hiện nay còn rất
22
nhiều bất cập, gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác quyết toán và nghiệm
thu đề tài, công trình; Các trình tự, thủ tục tham gia các dự án NCKH có
nguồn vốn ngân sách còn chưa phù hợp, có quy định là phải thuyết minh đề
tài, dự án trước khi công bố trúng thầu, trong khi chưa triển khai đề tài, dự
án; Những quy định về xã hội hóa, về sử dụng nguồn ngân sách, nguồn hỗ
trợ, tài trợ; quy định về hợp tác, phối hợp NCKH; phối hợp trong đào tạo,
bồi dưỡng NNL nghiên cứu khoa học còn chồng chéo, phức tạp, khó vận
dụng và triển khai thực tiễn.
Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút các nguồn lực bên
ngoài phát triển NNL nghiên cứu khoa học: Tập trung rà soát thể chế pháp
luật quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; hợp
tác đào tạo, bồi dưỡng NNL khoa học và công nghệ; xây dựng thị trường
khoa học và công nghệ; thị trường lao động trên lĩnh vực hoa học và công
nghệ; Xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch mở rộng hợp tác về phát
triển NNL nghiên cứu khoa học trình Chính phủ xem xét ra quyết định; Tổ
chức thực hiện có hiệu quả, chất lượng các Nghị định thư, các chương trình
hợp tác quốc tế về phát triển NNL mà chúng ta đang triển khai thực hiện;
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác toàn diện về khoa học công nghệ với các quốc
gia có trình độ khoa học và công nghệ phát triển trên thế giới; đa phương
hóa và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác. Xây dựng bản đồ chỉ dẫn hợp tác
quốc tế về khoa học và công nghệ; Cải cách hành chính để thu hút những
NNL nghiên cứu khoa học có đẳng cấp và trình độ quốc tế vào làm việc,
NCKH ở Việt Nam. Cải cách tiền lương, chế độ hộ tịch để thu hút những
nhân tài quốc tế; Xây dựng những đề án, chương trình đưa các nhà khoa học ra
nước ngoài đào tạo bồi dưỡng ở trình độ tiến sỹ, sau tiến sỹ bằng ngân sách nhà
nước; Đàm phán, hợp tác với các nước có sự phát triển khoa học và công
nghệ ở trình độ cao, có nền giáo dục phát triển tiên tiến trên thế giới để mở
các chương trình đào tạo; các khóa đào tạo, bồi dưỡng NNL nữ nghiên cứu
khoa học trong nước. Liên kết với các quốc gia thành lập các cơ sở NCKH,
các cơ sở giáo dục đại học nhằm phát triển NNl nữ nghiên cứu khoa học
của đất nước; Cải cách chính sách cấp đất, cho thuê đất đối với các cơ sở
liên kết hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo NNL, về nghiên cứu khoa học.
4.2.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thực thi các chính sách về phát triển
NNL nữ nghiên cứu khoa học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra,
kiểm tra trong hoạt động khoa học và công nghệ, trong quản lý và phát triển
NNL nghiên cứu khoa học; Kiện toàn đội ngũ bộ máy cán bộ thanh tra ngành
khoa học và công nghệ các cấp theo hướng nâng cao cả từ số lượng và chất
lượng đội ngũ cán bộ; Công khai hóa và minh bạch hóa các thông tin liên
quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Nâng cao
chất lượng đội ngũ thanh tra giáo dục và đào tạo, tập trung bồi dưỡng
những kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ thanh tra hoạt động đào tạo, hoạt
động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học; Tăng cường
23