Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP á châu trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 183 trang )

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. SỰ CẦN THIẾT
Là một chủ thể trong nền kinh tế, các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận. Bên cạnh đó, do đặc thù kinh doanh tiền tệ, rất nhạy cảm với các vấn đề rủi
ro thanh khoản, nên an toàn trong hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn và là
đặc thù của ngành ngân hàng.
Đối với các NHTM, tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu
cho ngân hàng, đồng thời cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn, gây mất vốn ở mức
độ cao, sẽ dẫn tới mất an toàn cho ngân hàng. Do vậy, hiệu quả tín dụng là nội dung
đặc biệt quan trọng được quan tâm trong hoạt động của NHTM ở mọi nơi, mọi lúc.
Đối với nước ta, hiệu quả tín dụng ngân hàng quan trọng và phức tạp hơn
nhiều các nước phát triển. Thống kê hiện tại cho thấy, thu nhập lãi tín dụng là
nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng, có ngân hàng nguồn thu này lên tới trên 90%
thu nhập. Trong khi đó, rủi ro tín dụng tiềm ẩn ở mọi góc cạnh. Bản thân hệ thống
NHTM còn non yếu, qui mô tài chính hạn hẹp; trình độ quản lý, công nghệ đều hạn
chế; vấn đề kiểm soát trong hệ thống nhiều bất cập; nhưng lại đặt các mục tiêu tăng
trưởng mạnh, cạnh tranh bằng mọi giá để mở rộng qui mô, phạm vi, thị phần… Về
môi trường vĩ mô, thời gian gần đây, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu, cộng các yếu kém trong nước đã dẫn tới các biến động lớn về lạm phát, đầu tư,
tăng trưởng kinh tế, kéo theo điều chỉnh nhanh, mạnh về chính sách tiền tệ tín dụng
của NHNN, cộng các biện pháp xiết chặt quản lý tín dụng, quản lý an toàn hệ thống,
tái cơ cấu các TCTD… đã và đang có tác động rất lớn đối với hoạt động NHTM nói
chung, lĩnh vực tín dụng, đặc biệt là hiệu quả tín dụng nói riêng.
Bản thân ngành ngân hàng và từng NHTM đều đã nỗ lực nghiên cứu tăng
cường quản lý tín dụng, trong đó có việc liên tục hoàn thiện cơ chế, chính sách; đổi
mới qui trình, mô hình hoạt động; áp dụng công nghệ hiện đại vào đánh giá, thẩm
định, quản lý khách hàng…, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, hạn chế rủi
ro tín dụng do các nguyên nhân chủ quan từ cán bộ của NHTM gây ra; tăng cường
tính nhất quán trong xem xét đánh giá tín dụng.
Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, NHTMCP Á Châu cũng đã trải
qua tất cả những vấn đề trên. Nổi lên là một NHTMCP trẻ, có hệ thống quản trị tiên


tiến, hiện đại, trong đó có hệ thống quản trị rủi ro tín dụng với hệ thống xếp hạng tín

Viết thuê luận văn thạc 1sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


dụng tiên phong và các kết quả kinh doanh rất ấn tượng những năm trước đây, song
ngân hàng cũng đối mặt với sự suy giảm chất lượng tín dụng nhanh chóng do tác
động của môi trường kinh doanh những năm gần đây. Không dừng ở đó, qui mô tín
dụng đã thu hẹp thực sự; lợi nhuận cũng không được bảo tồn. Những khó khăn này
gắn liền với những biến động trong môi trường kinh tế vĩ mô, những điều chỉnh
chính sách của NHNN và vấn đề tái cơ cấu các các TCTD thời gian qua. Các nội
dung này chưa được phân tích một cách bài bản, cụ thể. Thêm vào đó, các nội dung
quản trị NHTM hiện đại, trong đó phải kể đến các vấn đề về khoảng trống kỳ hạn,
cơ cấu đồng tiền; về các chế độ lãi suất… đang được đặc biệt quan tâm, do là vấn
đề có tác động lớn tới chi phí huy động, rủi ro tín dụng, nhưng hầu như chưa được
đề cập trong các nghiên cứu về hiệu quả tín dụng.
Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn chủ đề: “Giải pháp nâng cao
hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện cạnh tranh trên thị
trường vốn Việt Nam” để nghiên cứu cho luận án tiến sĩ. Mục đích nghiên cứu
của luận án là làm rõ các đặc thù môi trường kinh doanh, đặc thù kinh doanh của
NHTMCP Á Châu, hệ thống quản lý tín dụng và hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á
Châu thời gian qua, đối chiếu với thông lệ và thực trạng đối thủ cạnh tranh, đề xuất
hệ thống giải pháp để nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu giai đoạn
tới.
2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Do là vấn đề trọng tâm trong hoạt động ngân hàng, nhất là đối với NHTM
Việt Nam, nên có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong và ngoài nước về
chủ đề này. Nghiên cứu trên thế giới về thẩm định tín dụng, rủi ro tín dụng, quản trị

tín dụng, nợ xấu là vấn đề thường xuyên, phổ biến. Gần đây nhiều nghiên cứu xoay
quanh các vấn đề gắn với khủng hoảng dưới chuẩn của Mỹ, các nội dung điều tiết
mới để hạn chế nợ dưới chuẩn và rủi ro tín dụng, … Nghiên cứu trong nước khá đa
dạng, nhưng việc cập nhật các biến động kinh tế xã hội trong nước, những tác động
của khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề quản trị NHTM hiện đại

có liên quan tới hiệu quả tín dụng còn hạn chế.
2.1 Một số nghiên cứu ngoài nước có liên quan tới hiệu quả tín dụng
Nghiên cứu về thẩm định tín dụng, rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, nợ xấu:
Những nghiên cứu này đã tập trung làm rõ bản chất hoạt động tín dụng, các đặc thù

Viết thuê luận văn thạc 2sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


của hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng, các nguyên nhân, việc đo lường rủi ro tín
dụng và các nội dung quản trị, điều hành nhằm hạn chế rủi ro tín dụng NHTM
(“Nghiên cứu về các đặc trưng của hoạt động cho vay và rủi ro tín dụng”, Jimenez,
G và Saurina, 2002; “Nghiên cứu về quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng”,
Bessis,J 1998; Nghiên cứu “Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng”, Ủy ban giám
sát BASEL, 2000; “Cẩm nang chính sách kiểm tra giám sát trong quản lý rủi ro tín
dụng”, Bảo hiểm tiền gửi Mỹ - FDIC; “Quản lý rủi ro tín dụng”, Hiệp hội các
chuyên gia rủi ro toàn cầu – GARP…; “Giới thiệu mô hình rủi ro tín dụng”, Luhm,
Christain, Ludger Overbeck và Christoph Wanger, 2002; “Rủi ro tín dụng: định giá,
đo lường và quản lý”, NXB Đạihọc Princeton, 2003…)
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu tập trung vào tác động, sự nguy hại của rủi
ro tín dụng, không chỉ đối với việc thu hồi vốn, mà còn chỉ ra những tiềm ẩn rủi ro
khủng hoảng (“Rủi ro tín dụng – nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng ngân hàng,
Pavla Vodava; “Nợ xấu ở Đông âu: các nhân tố quyết định và tác động tới nền kinh

tế, IMF, 2013; “Nghiên cứu về nợ xấu và các tác động bất ổn vĩ mô, IMF, 2011);
Nghiên cứu về các hệ lụy khác của vấn đề của nợ xấu bên cạnh các tác động tới
kinh tế, Ngân hàng trung ương Châu âu - ECB, 2013…
Nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ mất vốn, mất cân đối dòng tiền, có thể dẫn tới các
rủi ro thanh khoản, nên cũng là vấn đề được nghiên cứu khá phổ biến trên thế giới.
Do tác động của nợ dưới chuẩn, khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ xấu của hệ
thống tài chính đã gia tăng nhanh chóng và việc xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa hệ
thống NHTM đang là những vấn đề trọng tâm của các nước. Các nghiên cứu về
nguyên nhân dẫn tới nợ xấu (Keeton, Willian và Morris, 1987; nghiên cứu nợ xấu
của Mỹ (Sinkey, Joseph.f và Greeen walt, 1991; nghiên cứu nợ xấu tại Tây ban nha
(Salas Vincene và Saurina, 2002); nghiên cứu quan hệ giữa nợ xấu và hoạt động của
ngân hàng (Kwan và Eisenbeis, 1994; Hughes và Moon, 1995; Reesti 1995); nghiên
cứu khả năng nợ xấu cao dẫn tới việc thu hẹp hoạt động ngân hàng tại Ấn độ sau
khủng hoảng tài chính 1997, ảnh hưởng tới qui mô, thị phần và hiệu quả hoạt động
trong tương lai của ngân hàng (nghiên cứu Agung et.al.2001).
Các nghiên cứu liên quan tới hiệu quả tín dụng gắn với cho vay dưới chuẩn,
dẫn tới khủng hoảng tài chính Mỹ, châm ngòi cho khủng hoảng tài chính toàn cầu
2007:

Viết thuê luận văn thạc 3sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


Kể từ khủng hoảng, rất nhiều nghiên cứu về nợ dưới chuẩn của Mỹ đã được
thực hiện. “Báo cáo về khủng hoàng tài chính”, Ủy ban quốc gia Mỹ, 2011; “Báo
cáo về cho vay duwis chuẩn” Bộ phận phát triển nhà ở và đô thị Mỹ, 2012; “Cho
vay trả góp không có trách nhiệm đã mở cửa cho những rủi ro”, Goolsbee, Austan,
2007; “tại sao những người cho vay dưới chuẩn lại gặp khó khăn, vướng mắc”,
Peterr Coy, 2007; “Sự bùng nổ và sụp đổ của cho vay dưới chuẩn”, Ngân hàng dự

trữ liên bang Dallas, 2007… Những nghiên cứu này đã làm rõ bản chât của cho vay
dưới chuẩn, thực chất liên quan tới chất lượng tín dụng của người vay và các hệ lụy
đi kèm. Những người vay dưới chuẩn và những khoản tín dụng dưới chuẩn thực
chất là những người đi vay và khoản nợ có điểm số tín nhiệm thấp, không đạt
chuẩn, do đó tiềm ẩn nguy cơ không trả được nợ rất cao. Điều đó cũng có nghĩa,
khả năng thu hồi vốn đối với nhóm này thấp, hiệu quả tín dụng không đảm bảo.
Nghiên cứu, ban hành các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng: Sau khủng
hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ, để ngăn chặn tình trạng này tái diễn, tăng cường hiệu
quả tín dụng, thể hiện ở việc tối đa hóa tỷ lẹ thu hồi, FDIC đã nghiên cứu và ban
hành 17 nguyên tắc quản lý RRTD cơ bản.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về mô hình kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi
ro tín dụng của các NHTM cũng đã được thực hiện (Stress test of credit risk).
Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc thực hiện kiểm tra mức độ chịu
đựng của hệ thống NHTM trong các kịch bản kinh tế vĩ mô khác nhau, kéo theo
chất lượng tín dụng ở một mức nhất định và khả năng chịu đựng của NHTM ứng
với chất lượng tín dụng đó – bao gồm cả qui mô nợ xấu và khả năng mất vốn (“Mô
hình kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi ro tín dụng đối với hệ thống NHTM Brazil”,
Banco Central Do Brasil, 2010; “Kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi ro tín dụng “,
Ngân hàng thế giới, 2013).
2.2 Một số nghiên cứu trong nước có liên quan
- Các nghiên cứu về hiệu quả tín dụng NHTM:
Một số nghiên cứu điển hình là “Các giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng
của NHTM Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Trần Thị Xuân
Hương, 2004; “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại NHTMCP ngoài quốc doanh Việt Nam”, Nguyễn Tiên Phong, 2008;
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTMCP Xuất nhập khẩu

Viết thuê luận văn thạc 4sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



Việt Nam”, Vũ Hoài Nam, 2006; “Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà nội tại NHTMCP Quốc tế Việt nam”,
Nguyễn Thị Ngọc Thanh, 2004…
Các nghiên cứu này chưa cập nhật môi trường kinh doanh ngân hàng trong
các năm gần đây. Hơn nữa, những nghiên cứu này cũng chưa tập trung thích đáng
tới các nội dung quản trị NHTM hiện đại có tác động đáng kể tới hiệu quả tín dụng
ngân hàng.
- Một số nghiên cứu về chất lượng tín dụng:
“Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Ngoại thương Việt Nam trong
quá trình hội nhập”, Nguyễn Thị Thu Đông, 2012; “ Những giải pháp cơ bản nâng
cao chất lượng tín dụng của NHTM Việt nam”, Trần Thị Hồng Hạnh, 1996…
Những nghiên cứu này đặt trọng tâm ở việc làm rõ khái niệm, bản chất, các chỉ tiêu
đo lường chất lượng tín dụng, thực trạng chất lượng tín dụng của các phạm vi
nghiên cứu và đề xuất hệ thống giải pháp ở góc độ qui mô hoạt động, hệ thống
thông tin, chính sách đầu tư, tiềm lực nguồn vốn…
- Một số nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM trên địa bàn Hà nội trong
tiến trình hội nhập kinh tế”, Đàm Hồng Phương, 2009; “Giải pháp đa dạng hóa các
hình thức huy động và sử dụng vốn của NHTMCP Công thương Việt nam”, Nguyễn
Văn Thạnh, 2001; … Nghiên cứu về hiệu quả huy động và sử dụng vốn có tính tới
việc cân đối giữa huy động và sử dụng vốn. Tuy vậy, nghiên cứu này được thực
hiện cho những năm 1990, không cập nhật với những thay đổi trong nền kinh tế
thời gian qua.
- Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng
“Những giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro tín dụng NHTM”, Nguyễn Hữu
Thủy; “Các biện pháp của NHTM nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay đối với các
doanh nghiệp”, Lê Thị Hiệp Thương; “Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản
lý rủi ro tín dụng tại hệ thống NHTM Việt Nam”, Lê Thị Huyền Diệu, 2010; “Giải

pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHTMCP Công Thương”,
Phạm Xuân Hòe; “Khung quản trị rủi ro tín dụng đối với các NHTM Việt Nam”,
TS. Phạm Huy Hùng, 2008…

Viết thuê luận văn thạc 5sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


Những nghiên cứu này đặt trọng tâm vào rủi ro tín dụng, quyết định hiệu quả
tín dụng, nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với hiệu quả tín dụng.
- Các nghiên cứu về vấn đề an toàn trong cho vay, bảo đảm tiền vay
“Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn
thành phố Hồ chí Minh”, Lê Tấn Phước… “Hoàn thiện phương pháp xếp hạng tín
nhiệm các doanh nghiệp vay vốn tại NHTM Việt nam”, Trần Thị Kỳ; “Xây dựng mô
hình xếp hạng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
chuyển đổi”, Nguyễn Trọng Hòa, 2009; “Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ”,
TS. Phạm Huy Hùng…
Đây là công cụ hiện đại, được triển khai vào hỗ trợ việc thẩm định, đánh giá
khách hàng trên cơ sở ứng dụng các phần mềm CNTT vào kinh doanh NHTM. Việc
nghiên cứu, ứng dụng công cụ này không chỉ tạo thêm một kênh đánh giá, thẩm
định khách hàng cho NHTM, mà vấn đề quan trọng là có thể đánh giá nhanh, thuận
tiện cho khách hàng; đánh giá một cách khách quan và nhất quán trong toàn hệ
thống.
Các nội dung nghiên cứu chính tập trung vào hệ thống các tiêu chí đánh giá;
trọng số cho mỗi tiêu chí và nguồn thông tin đầu vào, vấn đề cập nhật thông tin, làm
sạch thông tin…
- Các nghiên cứu về xử lý nợ xấu:
Ở góc độ hẹp hơn, một số nghiên cứu tập trung vào việc sử lý nợ xấu:
“Nghiên cứu nợ xấu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam”

(Nguyễn Tuấn Anh, 2004; Bùi Thị Thu Lan, 2005; Vũ Hữu Biên, 2010); “Nghiên
cứu nợ xấu tại NHTMCP Ngoại thương Việt nam” (Nguyễn Thành Đô, 2005; Cù
Hoài Thanh, 2010;); “Nghiên cứu nợ xấu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
nam” (Nguyễn Huy Hoàng, 2007; Nguyễn quốc Việt, 2008).
Như vậy, có thể nói cho tới nay, nghiên cứu về hiệu quả tín dụng, chất lượng
tín dụng, các vấn đề rủi ro tín dụng, an toàn tín dụng đã được thực hiện ở nhiều góc
độ khác nhau, thời gian khác nhau. Tuy vậy, phần lớn các nghiên cứu này tập trung
vào hiệu quả tín dụng và các vấn đề có liên quan trong thời gian trước đây. Chỉ một
vài nghiên cứu cập nhật đến năm 2012. Nghiên cứu về hiệu quả tín dụng đặt trong
bối cảnh mở cửa, với nhiều cơ hội phát triển kinh tế nói chung, khu vực tài chính –
ngân hàng nói riêng, nhưng đồng thời chịu sự tác động trực tiếp của khủng hoảng

Viết thuê luận văn thạc 6sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


tài chính toàn cầu 2008 và những điều chỉnh nhanh, mạnh về cơ chế, chính sách vĩ
mô (điển hình là chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách quản lý vàng,
ngoại hối…) nhằm ổn định kinh tế, hướng tới phát triển bền vững, kéo theo những
rủi ro lớn đối với khu vực kinh doanh tiền tệ… chưa được thực hiện một cách bài
bản. Thêm vào đó, các nội dung về quản trị NHTM hiện đại, trong đó có quản trị rủi
ro tín dụng từ góc độ cân đối tài sản nợ - tài sản có về qui mô, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu
đồng tiền, cơ cấu lãi suất… còn rất hạn chế. Trong khi đó đây lại là những rủi ro có
tác động lớn tới chi phí, lợi nhuận và cả vấn đề thanh khoản của ngân hàng thời
gian qua.
NHTMCP Á Châu là ngân hàng chịu tác động lớn của việc điều chỉnh cơ
chế, chính sách thời gian qua và thực tế hiệu quả tín dụng của ngân hàng này đã bị
suy giảm đáng kể. Trong bối cảnh đó, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp
nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện cạnh tranh

trên thị trường vốn Việt Nam” là cấp thiết, với mục đích sẽ cập nhật các vấn đề
kinh tế - xã hội gần đây nhất có tác động tới hiệu quả tín dụng, đồng thời bao phủ
các khía cạnh quản trị NHTM hiện đại có tác động đáng kể tới hiệu quả tín dụng,
đặc biệt trong trường hợp NHTMCP Á Châu, với sự cố lớn trong huy động và cho
vay vàng thời gian qua, cũng như tập trung chủ yếu vào khối khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu là đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại
NHTMCP Á Châu trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên
cứu của luận án là:
· Tổng hợp, làm rõ các vấn đề lý luận về nâng cao hiệu quả tín dụng NHTM
trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam.
· Tổng hợp kinh nghiệm trong và ngoài nước liên quan tới nâng cao hiệu quả
tín dụng NHTM.
· Phân tích thực trạng hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện
thị trường vốn Việt nam giai đoạn 2007 -2013, xác định cụ thể những mặt
được, chưa được và nguyên nhân.

Viết thuê luận văn thạc 7sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


· Đề xuất quan điểm, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại
NHTMCP Á Châu trong bối cảnh thị trường vốn Việt nam giai đoạn tới.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: luận án xác định đối tượng nghiên cứu là hiệu quả tín
dụng NHTM trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề lý luận trong và ngoài nước về hiệu

quả tín dụng NHTM trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn; nghiên cứu thực
trạng hiệu quả tín dụng của NHTM Á Châu trong điều kiện thị trường vốn Việt
Nam giai đoạn 2007 – 2013, so sánh với các đối thủ cạnh tranh chính trên thị
trường;
Đề xuất giải pháp đến năm 2020.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét sự vật, hiện
tượng trong trạng thái luôn phát triển, mở rộng ứng với các điều kiện, môi trường
có liên quan.
Phương pháp thống kê so sánh: Sử dụng hệ thống thông tin dữ liệu về hoạt
đọng của ngân hàng, về môi trường kinh doanh, từ đó áp dụng các biện pháp phân
tích theo chuỗi thời gian, phân tích cơ cấu, phân tích tương quan để rút ra các nhận
định có tính chất định lượng về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở thông tin, dữ liệu về đối tượng
nghiên cứu, các tài liệu thứ cấp hiện có của đối tượng nghiên cứu, tiến hành phân
tích định tính, tổng hợp, khái quát các vấn đề nghiên cứu.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án đã tổng hợp làm rõ các vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng NHTM
trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn Việt Nam, đặc biệt tập trung làm rõ
nội hàm của hiệu quả tín dụng trên cơ sở phân tích khái niệm hiệu quả trong kinh
doanh, hệ thống các tiêu chí đo lường, từ đó tập trung vào các nhân tố có tác đông
tới hiệu quả tín dụng;
Tổng hợp kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tín dụng NHTM ở một số nước
trên thế giới, một số NHTM lớn của Việt Nam, điển hình là kinh nghiệm tăng
cường công tác quản trị NHTM thông qua việc khuyến khích các NHTM niêm yết
trên sàn, mở cửa thị trường khu vực tài chính – ngân hàng và chuẩn hóa nghiệp vụ

Viết thuê luận văn thạc 8sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



tín dụng của Trung quốc; kinh nghiệm về nợ dưới chuẩn của Mỹ và tác động tiêu
cực của hệ thống chám điểm tự động, cùng 17 nguyên tắc cơ bản trong quản lý rủi
ro tín dụng của FDIC; kinh nghiệm điều chỉnh linh hoạt cơ chế, chính sách tín dụng
và tập trung hóa quản lý, điều hành… của Vietinbank;
Phân tích chi tiết thực trạng hiệu quả tín dụng của NHTMCP Á Châu điều
kiện thị trường vốn Việt nam giai đoạn 2007 – 2013, cung cấp một bức tranh toàn
diện về hiệu quả tín dụng của NHTMCP Á Châu cả ở góc độ tác động của môi
trường kinh doanh; hệ thống quản trị và công tác điều hành, tác nghiệp tại ngân
hàng trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động thời gian qua; chỉ rõ các mặt
đạt được, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất năm nhóm giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu giai đoạn đến 2020, vượt qua tình trạng
khó khăn của nền kinh tế đang đi kèm với nhu cầu tín dụng giảm, chất lượng tín
dụng xấu đi.
7. KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 3 chương, chi tiết
như sau:
Chương 1: HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN - LÝ LUẬN CƠ BẢN
VÀ KINH NGHIỆM
Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á
CHÂU TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2013
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
TMCP Á CHÂU TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG
VỐN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NAY TỚI NĂM 2020

Viết thuê luận văn thạc 9sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :

Phone: 0972.162.399


CHƯƠNG 1:
HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU
KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN - LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ
KINH NGHIỆM
1.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng thương mại trong điều kiện cạnh
tranh trên thị trường vốn.
1.1.1. Các nghiệp vụ tín dụng của NHTM
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng NHTM
Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín
dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan
rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan
hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay
mượn bằng hiện vật - hàng hóa.
Trong nền kinh tế hàng hoá, tại một thời điểm, luôn có một số người tạm
thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay, trong khi cũng có
một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh
mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời
thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả và có thêm một phần dôi ra, được biết
đến là lợi tức, lãi (đối với người chuyển dịch vốn tạm thời nhàn rỗi) và chi phí của
việc sử dụng vốn (đối với người tạm thời thiếu vốn, sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi
của người tạm thời có vốn nhàn rỗi). Đây chính là quan hệ tín dụng.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc
hoàn trả kèm theo lợi tức, nó để thoả mãn nhu cầu của cả hai bên, là một quan hệ
bình đẳng, cả hai bên cùng có lợi và mang tính thoả thuận.
Nghiên cứu bản chất tín dụng của Mark cho rằng, tín dụng là sự chuyển
nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật ) trong
một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và được hoàn trả khi

đến hạn với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Khoản dôi ra này được gọi là
lợi tức tín dụng. Khác với các quan hệ kinh tế khác, sự chuyển nhượng trong quan
hệ tín dụng chỉ là sự chuyển nhượng quyền sử dụng tư bản trong một thời nhất định
mà không hề có sự chuyển nhượng quyền sở hữu giữa người đi vay và người cho
vay.

Viết thuê luận văn thạc10sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình
tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho
quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả [6,7].
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quá trình sản
xuất và lưu thông ngày càng phát triển, thì đòi hỏi về vốn của các chủ thể trong nền
kinh tế ngày càng lớn, đa dạng và phức tạp. Bởi vậy tín dụng ngân hàng đã ra đời,
phát triển và ngày càng trở thành nguồn cung cấp tín dụng chủ yếu cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các
cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ
dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ
dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay
mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng – một tổ
chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân
trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua

các ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác
nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng
thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay. Vì vậy, NHTM còn
được gọi là trung gian tài chính – tiền tệ trong các nền kinh tế, là cầu nối giữa người
có vốn và người cần vốn. [4,7, 20,21,22]
Nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” lẫn “cho vay”. Tuy
nhiên, trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà hoạt động
nhận tiền gửi và hoạt động cho vay laị được tách riêng. Hoạt động nhận tiền gửi là
hoạt động “huy động vốn”. Bộ phận tín dụng phụ trách mảng cho vay.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng qui định “Hoạt động tín dụng là việc các
TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp tín
dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên

Viết thuê luận văn thạc11sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.[9]

Trong phạm vi của luận án, tín dụng chủ yếu được xem xét ở khía cạnh
NHTM cung cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội dưới hình
thức cho vay. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng bị chi phối, ràng buộc chặt chẽ
bởi hoạt động huy động vốn. Vì vậy, huy động vốn cũng sẽ được phân tích,
đánh giá ở những khía cạnh phù hợp.
1.1.1.2. Vai trò tín dụng ngân hàng:
·

Tín dụng là công cụ thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng


Vai trò quan trọng của tín dụng là đáp ứng vốn có hiệu quả và kịp thời để
duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian
cũng như về khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá
trình sản xuất kinh doanh tiếp theo với lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ hàng hoá
của chu kỳ sản kinh doanh trước đó. Điều này dẫn tới việc luân chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp lúc thừa lúc thiếu. Ngay cả việc thu chi ngân sách nhà nước cũng
thường xuyên có sự chênh lệch giữa thời gian thu chi. Vì vậy khi nguồn vốn doanh
nghiệp tạm thời dư thừa cùng với các nguồn tiết kiệm nhàn rỗi từ dân cư, nguồn kết
dư từ ngân sách nhà nước….đã được NHTM tận dụng huy động và sử dụng vốn
huy động đó để đầu tư cho các doanh nhiệp khác đang trong tình trạng thiếu vốn, cá
nhân có nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của họ và cho yêu cầu chi
tiêu của ngân sách Nhà nước trong lúc chưa có nguồn thu ngân sách kịp thời….Như
vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn một cách có hiệu quả trên phạm
vi toàn bộ nền kinh tế.
·

Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, mở

rộng đầu tư kinh doanh;
Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
từ rất nhiều các chủ thể khác nhau với qui mô khác nhau sẽ được NHTM tập trung
lại qua việc huy động và trở thành lượng vốn lớn. Thông qua việc các ngân hàng
thương mại tập trung vốn và ưu tiên cho vay một lượng vốn rất lớn cho các ngành
kinh tế trọng điểm, mũi nhọn góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh cho nền kinh

Viết thuê luận văn thạc12sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



tế, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng GDP, sản xuất ra những hàng hoá chiến lược
tăng cường hội nhập quốc tế.
·

Tín dụng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng

cường việc quản lý tài chính, tăng tích luỹ đối với doanh nghiệp.
Các tổ chức kinh tế khi vay vốn họ phải cân nhắc về hiệu quả vốn vay mang
lại- họ chỉ vay vốn khi biết rằng có lãi. Mặt khác khi ngân hàng cho vay, trước đó,
họ phải thực hiện công việc phân tích tín dụng: phân tích các khả năng tài chính,
năng lực tài chính…qua các báo cáo tài chính. Điều này buộc các doanh nghiệp
phải tăng cường hạch toán kinh tế, quản lý tài chính và tích luỹ vốn để có thể hoàn
trả vốn cho ngân hàng.
·

Tín dụng ngân hàng thực hiện vai trò trung gian trong chuyển đổi kỳ

hạn, rủi ro, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của nền kinh tế.
Tín dụng trực tiếp, ở những góc độ nhất định, đã đáp ứng được các nhu cầu
tạm thời thừa, thiếu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Tuy vậy, quan hệ tín
dụng trực tiếp gặp nhiều giới hạn về quy mô, thời gian, không gian, sự ăn khớp về
các nhu cầu này giữa hai chủ thể cụ thể… Thêm vào đó rủi ro do khó kiểm soát
người vay cũng hạn chế việc cho vay và có thể đẩy lãi suất lên cao. Các trung gian
tài chính với khả năng chuyên môn hoá trong các hoạt động của mình có khả năng
thực hiệ vai trò cầu nối hiệu quả, không chỉ giải quyết được những hạn chế về qui
mô, thời gian, không gian…, mà còn quản lý rủi ro thận trọng, giúp người cho vay
chuyển được rủi ro, có động lực tiết kiệm và tham gia nhiều hơn vào hoạt động
cung nguồn vốn, giúp người vay tiếp cận được các nguồn vốn theo nhu cầu với chi

phí hợp lý hơn, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
·

Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước để điều tiết khối lượng

đầu tư giữa các ngành trong nền kinh tế.
Một trong những chức năng quan trọng của NHTM là tạo phương tiện thanh
toán. Khi các ngân hàng cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương
tiện thanh toán. Ngược lại khi các NHTM thu hẹp tín dụng lượng cung ứng tiền sẽ
giảm xuống. Do đó tín dụng ngân hàng được Nhà nước sử dụng như là một công cụ
để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông thông qua việc thực hiện các chính sách
tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.

Viết thuê luận văn thạc13sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


·

Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước

ngoài thúc đẩy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế trong
khu vực và trên thế giới.
1.1.1.3. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng:
·

Tín dụng ngân hàng là sản phẩm dịch vụ vô hình.

Khách hàng sử dụng tín dụng ngân hàng cùng với qúa trình cung ứng dịch vụ

của ngân hàng. Thời hạn sử dụng dịch vụ gắn liền với thời gian cung cấp dịch vụ
của ngân hàng. Ngân hàng chỉ thu được đầy đủ chi phí và lãi từ khoản tín dụng khi
khách hàng kết thúc việc sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng.
·

Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ.

Ngân hàng cung cấp tín dụng dưới hình thái tiền tệ, đáp ứng nhu cầu của mọi
đối tượng cần vốn trong nền kinh tế.
·

Tín dụng ngân hàng được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn huy

động
Ngân hàng hoạt động với tính chất là trung gian tài chính trong nền kinh tế,
đi vay, huy động của các thành phần trong xã hội, để cho vay. Nguồn vốn tự có của
ngân hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng và chủ yếu để
phát triển hạ tầng vật chất, kỹ thuật của chính ngân hàng.
·

Tín dụng ngân hàng đa dạng về qui mô

Tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các
tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.
·

Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú

Ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, do ngân hàng có

khả năng chuyển kỳ hạn của các nguồn vốn khác nhau, tạo nguồn cho vay với thời
hạn khác nhau.
1.1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng :

Tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau.
* Phân loại tín dụng ngân hàng theo hình thức tài trợ:
a/ Cho vay : Cho vay là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng sẽ giao một
khoản tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong
một khoảng thời gian xác định. Cho vay là hình thức phổ biến và truyền thống trong

Viết thuê luận văn thạc14sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


nghiệp vụ tín dụng, mang lại nhiều lợi nhuận nhất so với các nghiệp vụ khác trong
hoạt động ngân hàng.
Cho vay lại được chia nhỏ thành:
- Thấu chi: Đây là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng (người vay) được phép chi trội (vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình
đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định . Giới hạn này
được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt,
thủ tục đơn giản, có thể cấp cho cả các cá nhân và doanh nghiệp trong các khoảng
thời gian khác nhau. Tuy nhiên hình thức này chỉ được áp dụng cho những khách
hàng có độ tin cậy, thu nhập đều đặn với chu kỳ ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: trong cho vay từng lần, khách hàng và ngân
hàng phải thực hiện toàn bộ các thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng co mỗi lần vay. Cho vay trực tiếp từng lần là một hình thức cho vay chủ yếu
và tương đối phổ biến của NHTM. Đối tượng áp dụng là những khách hàng không
có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi,

cho vay hạn mức.
- Cho vay luân chuyển: Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên
sự luân chuyển của hàng hoá. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp mua hàng hoá
có thể thiếu vốn, cần vay vốn từ ngân hàng và hoàn trả khi doanh nghiệp bán được
hàng. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ đều đặn, ngắn
ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên đối với ngân hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng là nghiệp
vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín
dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu hạn mức tín dụng
được tính cho cả kỳ, thì doanh nghiệp có thể vay làm nhiều lần nhưng số dư nợ tại
bất kỳ thời điểm nào trong kỳ cũng không được vượt quá hạn mức tín dụng. Nếu
hạn mức tín dụng tính tại cuối kỳ, thì dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức nhưng
đến cuối kỳ thì dư nợ không được vượt quá hạn mức. Cho vay theo hạn mức tín
dụng được sử dụng cho các khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia
thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, có uy tín đối với ngân hàng.

Viết thuê luận văn thạc15sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


- Cho vay gián tiếp: Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các
trung gian. Cho vay gián tiếp được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán…do đó cho vay qua trung gian sẽ có thể tiết kiệm được chi
phí cho vay.
- Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là hình thức tín dụng trong đó khách
hàng được phép hoàn trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Hình thức cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay có giá trị
lớn, kỳ trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hoá lâu bền như mua

ô tô, mua nhà.
b/ Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá:
Thương phiếu, giấy tờ có giá được hình thành trong quá trình mua bán chịu
giữa người mua và người bán, hoặc hình thành từ các giao dịch vay mượn của các
chủ thể trong nền kinh tế. Người bán hay người thụ hưởng thương phiếu, GTCG có
thể giữ thương phiếu, GTCG đến hạn và nhận thanh toán từ người mua hay người
phải trả; hoặc đem chiết khấu trước hạn tại ngân hàng. Chiết khấu là hình thức tín
dụng trong đó ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người thụ hưởng thương phiếu,
GTCG tương ứng với giá trị thương phiếu, GTCG trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Đến hạn ngân hàng có quyền đòi
tiền từ người mua (người phải trả), hoặc có quyền truy đòi đối với các bên có ký
tên trên thương phiếu nếu người phải trả không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
c/ Bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là việc ngân hàng sẽ cam kết dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện thay cho khách hàng của mình các nghĩa vụ tài
chính khi khách hàng không thực hiện các nghĩa vụ như cam kết với đối tác.
d/ Cho thuê ( thuê- mua tài sản ): Cho thuê là việc các ngân hàng thương mại
bỏ tiền mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp
vụ và cho thuê tài chính. Việc cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời
gian ngắn còn cho thuê tài chính đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng lâu dài và người
đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê. Trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho thuê chủ yếu là cho thuê tài chính.
Luận văn đặt trọng tâm vào hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng
NHTM.

Viết thuê luận văn thạc16sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



* Phân loại tín dụng ngân hàng theo sự bảo đảm tín dụng:
a/ Tín dụng không có tài sản bảo đảm (tín chấp). Tín dụng không có tài sản
bảo đảm, như tên gọi, là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo
lãnh của bên thứ ba, là loại tín dụng dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Hình
thức tín dụng này chỉ được cấp cho các khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng,
khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, vững chắc,
luôn thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ tài chính đã phát sinh với ngân hàng.

b/ Tín dụng có tài sản bảo đảm: Đối với loại tín dụng này khi khách hàng
vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng
có bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng của mình phải ký hợp đồng bảo đảm
tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá tài sản bảo đảm về các nội dung như
quyền sở hữu, giá trị thị trường, khả năng bán tài sản, khả năng tài chính của bên
bảo lãnh… để có thể giám sát và bảo quản tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản khi
khách hàng không trả nợ.
* Phân loại tín dụng ngân hàng theo độ rủi ro:
Tín dụng ngân hàng phân theo độ rủi ro thường bao gồm các khoản tín dụng
có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Tùy theo pháp luật của từng nước, từng
thời kỳ, thậm chí là khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng, các tiêu chí cụ thể về mức độ
rủi ro là cao, thấp, trung bình… sẽ khác nhau. Thông thường, việc phân loại tín
dụng theo mức độ rủi ro gồm:
a/ Tín dụng có độ an toàn cao hay lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả
năng thu hồi cao, khách hàng có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng, không có các
dấu hiệu cho thấy khoản tín dụng sẽ diễn ra không theo các điều khoản tín dụng đã
cam kết.
b/ Tín dụng có vấn đề: thường là các khoản tín dụng vẫn trong thời gian hiệu lực,
nhưng có dấu hiệu cho thấy các điều khoản tín dụng cam kết có thể không được thực
hiện, vì dụ ngành hàng của khách hàng có xu hướng tăng trưởng chậm lại, khách hàng
chậm tiêu thụ hàng hoá, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính, gặp thiên tai, rủi ro…
c/ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: đây là các khoản nợ đã quá hạn nhưng

cón tiềm năng thu hồi được nếu có các giải pháp thích hợp từ phía khách hàng
hoặc/và phía ngân hàng; có tài sản đảm bảo giá trị lớn…

Viết thuê luận văn thạc17sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


d/ Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ kém,
các khoản thế chấp có giá trị nhỏ, mất giá..
* Phân loại tín dụng ngân hàng theo kỳ hạn tín dụng:
- Theo kỳ hạn, tín dụng ngân hàng thường được phân thành 3 loại sau:
a/ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được
sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu
động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá
nhân. Thời gian và kỳ thu nợ trong cho vay ngắn hạn được xác định phù hợp với
chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
b/ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay
vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và
xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Ngân hàng còn cấp tín
dụng trung hạn đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn các yêu cầu mua sắm một
số hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, ô tô, các phương tiện khác…
c/ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để
cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, sử
dụng lâu dài…
Thời hạn cho vay và kỳ thu nợ trong cho vay trung hạn, dài hạn được xác
định phù hợp với thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng
và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
Ngoài ra còn có tín dụng không xác định kỳ hạn. Tín dụng không xác định
kỳ hạn là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay không xác định rõ thời

hạn trả nợ.
* Phân loại tín dụng ngân hàng căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại:
a/ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp
cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
b/ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa,
xe cộ, các thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.

Viết thuê luận văn thạc18sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


1.1.2. Thị trường vốn và vai trò của thị trường vốn đối với các NHTM
1.1.2.1. Khái quát thị trường vốn
Theo từ điển Wikipedia, the free encyclopedia [24], thị trường vốn nghĩa
rộng nhất bao gồm một loạt các kênh mà qua đó các khoản tiết kiệm của cộng đồng
được dẫn vào cho các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại, khu vực công
cộng.
Ở góc độ này, thị trường vốn còn được hiểu là cầu nối tiết kiệm với đầu tư
giữa các nhà cung cấp vốn có tổ chức, các cá nhân, hộ gia đình với những người sử
dụng vốn là doanh nghiệp, chính phủ và thể nhân.
Theo nghĩa rộng này, thị trường vốn bao gồm tất cả các kênh dẫn vốn trực
tiếp (thị trường chứng khoán, trong đó có thị trường cố phiếu, thị trường trái phiếu
chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp) và thị trường dẫn vốn gián tiếp thông qua
trung gian tài chính.
Ở góc độ hẹp hơn, thị trường vốn được hiểu là thị trường của các giao dịch
tài chính dài hạn, thường là trên 12 tháng. Thị trường vốn khi đó bao gồm thị
trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung dài hạn. Với khái niệm này, thì thị

trường vốn được phân biệt với thị trường tiền tệ - thị trường cho các giao dịch tài
chính ngắn hạn, dưới 12 tháng.
Thị trường vốn cũng được hiểu là nơi giao dịch mua – bán và chuyển
nhượng các loại vốn trung và dài hạn, thể hiện bằng các công cụ chuyển tải vốn,
giữa các chủ thể trong phạm vi không gian và thời gian xác định.
Trên thực tế, thị trường vốn được hiểu là thị trường giao dịch các công cụ
công cụ tài chính có kỳ hạn từ 12 tháng, với mức độ rủi ro tương đối cao, gồm cổ
phiếu và các công cụ nợ trung hạn, dài hạn. Ở khái niệm hẹp và chặt chẽ nhất này,
thì tín dụng ngân hàng thông thường không được phân loại như là một giao dịch thị
trường vốn, ngay cả khi khoản vay được kéo hơn một năm do chúng có sự khác biệt
đáng kể về tính lỏng, mức độ quản lý cũng như rủi ro đi kèm. Một khoản vay ngân
hàng thông thường sẽ không có tính chất chứng khoán hóa. Các khoản cho vay
thông thường cũng thường chịu sự quản lý thận trọng chặt chẽ của cả NHTM và các
cơ quan QLNN. Bên cạnh đó, đối tượng vay tín dụng ngân hàng thông thường nói
riêng và đối tượng thực hiện các giao dịch ngân hàng, về cơ bản, cũng rất đa dạng,
từ cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp siêu vi mô, các DNVVN tới các doanh

Viết thuê luận văn thạc19sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


nghiệp lớn, trong khi đối tượng tham gia thị trường vốn chủ yếu là doanh nghiệp
lớn, các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư bán lẻ có trình độ, chuyên môn, qui
mô và thế mạnh về tài chính.
Cho tới nay, hầu hết các nền kinh tế đều phát triển rất nhiều các kênh dẫn
vốn khác nhau, thỏa mãn đặc thù và nhu cầu đa dạng của các chủ thể kinh tế. Tuy
nhiên, nhìn lại lịch sử phát triển, thì thị trường các giao dịch tài chính ngắn hạn, thị
trường tín dụng ngân hàng có xu thế giữ vai trò chủ đạo trong truyền dẫn vốn ở giai
đoạn đầu phát triển của mỗi quốc gia. Một phần xuất phát từ nhu cầu, năng lực của

các chủ thể trong nền kinh tế còn thấp, qui mô sản xuất kinh doanh còn khiêm tốn
và khả năng kiểm soát, quản lý của bộ máy nhà nước cũng còn sơ khai. Cùng với
quá trình phát triển, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, thị trường các
giao dịch tài chính dài hạn, thị trường vốn theo nghĩa hẹp đã phát triển như một tất
yếu khách quan, bổ trợ và cùng thị trường các giao dịch ngắn hạn đáp ứng các nhau
cầu vốn rất khác nhau của nền kinh tế. Khi thị trường các giao dịch tài chính dài hạn
phát triển đến một qui mô nhất định, thì sự tách bạch giữa thị trường tài chính dài
hạn với thị trường tiền tệ là rất rõ ràng.
Các chủ thể tham gia thị trường tài chính cũng có sự khác biệt lớn. Thị
trường tiền tệ - giao dịch tài chính ngắn hạn - tập trung chủ yếu khách hàng bán lẻ.
Các doanh nghiệp lớn, chính phủ tham gia với tính chất cung các khoản tiết kiệm
ngắn hạn, tiền gửi thanh toán để thực hiện các dịch vụ thanh toán và các khoản vay
tạm thời. NHTM là thể chế tài chính chi phối trên thị trường này. Ngược lại, đối với
thị trường vốn theo nghĩa hẹp, thể chế tài chính gồm nhiều loại, như các công ty
chứng khoán, quỹ lương hưu và các quỹ tương hỗ, các tổ chức xếp hạng… Khách
hàng ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế, chính phủ, các cá
nhân giàu có. Hệ thống các NHTM tham gia vào thị trường giao dịch tài chính dài
hạn ở cả hai góc độ các nhà đầu tư, các nhà phát hành. Bên cạnh đó, họ còn có vai
trò quan trọng trong việc thực hiện các dịch vụ tài chính, môi giới, dịch vụ tư vấn
phát hành, dịch vụ lưu ký…
Trong phạm vi luận án, khái niệm thị trường vốn được sử dụng là khái niệm rộng
nhất, có nghĩa thị trường vốn là cầu nối tiết kiệm với đầu tư, gồm cả thị trường trực
tiếp, gián tiếp. Phạm vi đó phù hợp với đặc thù kinh tế xã hội và sự phát triển của
khu vực tài chính nước ta. Hiện tại, mặc dù thị trường giao dịch tài chính dài hạn

Viết thuê luận văn thạc20sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



(Thị trường chứng khoán) đã ra đời và đi vào hoạt động, nhưng kênh gián tiếp vẫn
là kênh dẫn vốn chủ đạo của nền kinh tế. Ngay cả trên thị trường giao dịch tài
chính dài hạn, hoạt động NHTM cũng chi phối, với trên 80% dư nợ trái phiếu do
các NHTM nắm giữ.
1.1.2.2. Vai trò của thị trường vốn đối với các NHTM
Thị trường vốn rất quan trọng cho các hoạt động của một nền kinh tế, vì vốn
là một thành phần quan trọng để tạo ra sản lượng kinh tế. Vai trò điển hình của thị
trường vốn đối với một nền kinh tế được thể hiện:
Trung gian tiết kiệm và đầu tư, khuyến khích tiết kiệm, đầu tư: Thị
trường vốn theo nghĩa rộng nhất tạo cơ chế để những khoản tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế được đưa vào đầu tư, phát triển kinh tế xã hội. Thị trường vốn tập hợp
nguồn vốn từ mọi đối tượng, khu vực, tạo các nguồn vốn đáp ứng như cầu đầu tư
các dự án, ngành nghề, lĩnh vực... Với việc hoàn trả tiền và một khoản lãi nhất định
hoặc kỳ vọng các khoản lợi nhuận mang về, cộng với khả năng thanh toán, thanh
khoản theo nhu cầu, thị trường vốn tạo các động cơ, động lực mạnh mẽ cho các
khoản tiết kiệm và đầu tư .
Thông qua các trung gian tài chính hoặc thông qua việc phát hành và mua
bán chứng khoán, dòng vốn di chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng
kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn, giúp chính phủ, doanh nghiệp (DN),
tổ chức kinh tế, cá nhân... có cơ hội đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh kiếm lời.
Thị trường vốn với việc mua bán các công cụ tài chính trên phạm vi rộng đã
tạo tính thanh khoản cao, tạo động lực đầu tư cho mọi chủ thể trên thị trường.
Không chỉ dừng lại ở việc trung gian giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước, thị
trường vốn là một thể chế phát triển, với các qui định pháp lý cao về công khai,
minh bạch, giao dịch sẽ tạo cơ hội để phát triển hoạt động truyền dẫn vốn trong và
ngoài nước.
Tạo vốn (Capital formation): ở một góc độ nhất định, thị trường vốn tạo
các động cơ tiết kiệm cho mọi chủ thể trong nền kinh tế và động cơ đưa các nguồn
vốn đó vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Đó chính là tạo vốn. Thông qua huy
động nguồn lực và có chi trả cho việc sử dụng nguồn lực, nó tạo ra tiết kiệm; các

khoản tiết kiệm huy động được phân bổ vào các ngành khác nhau như công nghiệp,
nông nghiệp…Điều này giúp tăng việc tạo vốn. Ở phạm vi rộng và hiệu quả hơn,

Viết thuê luận văn thạc21sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


nguồn vốn tiết kiệm được huy động vào ngân hàng và khi ngân hàng cho vay, hệ
thống ngân hàng sẽ thực hiện chức năng tạo tiền, tăng tổng tiền trong nền kinh tế
theo hệ số tạo tiền trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế: Thị trường
vốn giúp tăng cường sản lượng và năng suất trong nền kinh tế quốc gia. Vì nó tạo ra
nguồn tài chính sẵn có trong một khoảng thời gian dài, đáp ứng yêu cầu đầu tư sản
xuất kinh doanh của nhà kinh doanh. Thị trường vốn là nền tảng cho các quá trình
tích tụ, tập trung tư bản, phát triển sản xuất kinh doanh và chuyên môn hóa trên qui
mô lớn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng, tăng năng suất nền kinh tế.
Phân bổ vốn hợp lý: Thị trường vốn không chỉ có tác dụng trong việc làm
cầu nối vốn với tính chất chỉ là dẫn vốn từ nơi cung vốn sang nơi cầu vốn, mà có
vai trò định hướng, phân bổ thích hợp của các nguồn lực của nền kinh tế. Các nhà
đầu tư có hiệu quả, các ngành nghề lĩnh vực có triển vọng sẽ là những ngành nghề
được quan tâm, tập trung vốn.
Điều chỉnh kinh tế: Thị trường vốn cũng là một công cụ đánh giá hoạt động
kinh doanh, sức khỏe tài chính của mỗi DN, mỗi ngành nghề và cả nền kinh tế - hàn
thử biểu của nền kinh tế. Các cơ chế hoạt động của thị trường vốn cho phép dự đoán
được xu hướng của nền kinh tế, từ đó các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở để chủ
động các điều chỉnh, kiểm soát thích hợp.
1.1.3. Cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường vốn
1.1.3.1. Khái quát cạnh tranh
Cạnh tranh đã xuất hiện từ khi nền kinh tế hàng hóa ra đời. Cho tới nay, có

nhiều nghiên cứu về cạnh tranh đã được thực hiện và cũng có nhiều khái niệm về
cạnh tranh.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt
động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung-cầu, nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất”.
Theo bách khoa toàn thư Wikipedia, “cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa
các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương
nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu

Viết thuê luận văn thạc22sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để
thu được nhiều lợi ích nhất cho mình”. [24]
Một số quan điểm lại cho rằng cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung
bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa
lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể
giảm đi. Cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh trước hết dựa vào khả năng duy trì một chi
phí sản xuất thấp và sau đó là dựa vào sự khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ so với
đối thủ cạnh tranh, giúp cho đơn vị vượt qua đối thủ, dành khách hàng, thị phần và
thị trường.
Một số khác lại cho rằng “ Cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh dựa trên lợi thế
tuyệt đối về năng suất lao động. Năng suất lao động cao có nghĩa là chi phí sản xuất
giảm”.
Như vậy khái niệm cạnh tranh không chỉ dừng trong khu vực sản xuất,
thương mại, mà cả trong tiêu dùng. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản

xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu
dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng
lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh tồn tại ở những dạng thái khác nhau,
cấp độ khác nhau, có thể là cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh tranh phi giá cả
(ở sản phẩm, dịch vụ, quy trình, hayuảng cáo, khuyến mãi....); ở cấp độ sản phẩm,
các chủ thể kinh tế, các ngành hay các quốc gia.
Thực tế, trong giai đoạn đầu phát triển, nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ là khá
tương đồng. Cạnh tranh do đó chủ yếu ở giá cả. Chủ thể nào kết hợp hiệu qủa các
nguồn lực, kiểm soát được chi phí, duy trì được giá thành thấp sẽ có lợi thế về giá –
lợi thế cạnh tranh chính. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu con người đa
dạng hơn. Cộng với phân hóa xã hội, nên những khác biệt về sản phẩm, dịch vụ
từng bước trở thành các nhân tố cạnh tranh bền vững.
Như vậy, ta có thể định nghĩa: cạnh tranh là việc các chủ thể kinh tế lựa chọn
các biện pháp khác nhau, sử dụng các kết hợp nguồn lực khác nhau tạo ra cái mà
đối thủ không có hoặc có nhưng ở mức độ thấp hơn trong việc hấp dẫn, thu hút
khách hàng, giàng giật thị trường thị phần và cuối cùng là để tạo ra lợi nhuận càng
lớn càng tốt. Muốn cạnh tranh được, các chủ thể kinh tế cần phải tạo ra lợi thế cạnh

Viết thuê luận văn thạc23sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


tranh, là cái mà một doanh nghiệp có được trong đáp ứng các nhu cầu khách hàng
mà các doanh nghiệp khác không có được. Lợi thế cạnh tranh có thể là chi phí, giá
cả tương đối thấp hoặc/và các khác biệt về sản phẩm, dịch vụ của một chủ thể kinh
tế so với các đối thủ trên thị trường.
Cạnh tranh thường được chia làm hai dạng, là cạnh tranh hoàn hảo (hay cạnh
tranh tự do) và cạnh tranh không hoàn hảo (cạnh tranh độc quyền). Trong đó, cạnh
tranh hoàn hảo là cạnh tranh trong một mô hình kinh tế thị trường lý tưởng, ở đó

không có người sản xuất hay người tiêu dùng nào có quyền hay khả năng khống chế
được thị trường, làm ảnh hưởng đến giá cả.
Ngược lại, cạnh tranh không hoàn hảo hay cạnh tranh độc quyền là cạnh
tranh trong mô hình không đáp ứng được các điều kiện trên. Có thể có các trường
hợp như độc quyền bán, độc quyền nhóm bán, độc quyền mua, độc quyền nhóm
mua... Thị trường cũng có thể xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo do những người
bán hoặc người mua thiếu các thông tin về giá cả, đặc tính các loại hàng hóa được
trao đổi.
Trong thực tế không tồn tại mô hình thị trường hoàn hảo lý tưởng, hoàn toàn
dựa trên cung – cầu thị trường. Qua quá trình tồn tại và phát triển, hầu hết các nền
kinh tế đều theo đuổi mô hình kinh tế hỗn hợp – kinh tế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước, nhằm hạn chế các mặt trái của kinh tế thị trường.
1.1.3.2. Cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường vốn
Đối với ngành ngân hàng – ngành dịch vụ, thì cạnh tranh là rất gay gắt do
sản phẩm, dịch vụ là khá tương đồng. Các yêu cầu kết nối hệ thống cũng có nghĩa
có xu hướng hội tụ về hạ tầng kỹ thuật. Những khác biệt ban đầu cũng nằm ở chi
phí và sau đó chủ yếu ở chất lượng dịch vụ.
Với định nghĩa trên có thể cho rằng cạnh tranh giữa các NHTM trên thị
trường vốn là sự ganh đua bình đẳng giữa các NHTM trên thị trường này để thu hút
khách hàng tiền gửi, tiền vay, khách hàng sử dụng các dịch vụ thẻ, thanh toán,
chuyển tiền và các dịch vụ ngân hàng khác nhằm tăng trưởng qui mô hoạt động, thị
phần, thị trường và lợi nhuận. Sự thành công, thất bại trong cạnh tranh trên thị
trường vốn của mỗi ngân hàng có quan hệ nhân quả với năng lực cạnh tranh và hoạt
động của ngân hàng đó.

Viết thuê luận văn thạc24sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399



Theo diễn đàn kinh tế Thế giới, năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp được hiểu là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh
nghiệp trong môi trường cạnh tranh (trong nước và ngoài nước). Năng lực
cạnh tranh cuối cùng thể hiện ở các kết quả cạnh tranh, kết quả kinh doanh, như
qui mô thị trường, thị phần và lợi nhuận.
Ngân hàng có năng lực cạnh tranh tốt sẽ có lợi nhuận cao. Kết quả kinh
doanh tốt, lợi nhuận tốt, thị phần, thị trường tốt sẽ tạo cơ hội để ngân hàng tiếp tục
đầu tư, phát triển các lợi thế canh tranh hiệu quả.
Như vậy, cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các NHTM trên thị trường
vốn được thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một NHTM trước hết thể hiện ở qui mô vốn của ngân
hàng, hệ số an toàn vốn và chất lượng tài sản của ngân hàng. Qui mô vốn càng lớn
thể hiện khả năng đầu tư hoạt động của ngân hàng càng mạnh. Nói cách khác, ngân
hàng sẽ có lợi thế trong việc tiếp cận, thỏa mãn các nhu cầu vốn lớn trong nền kinh
tế. Điều này là đặc biệt quan trọng đối với hoạt động ngân hàng, do các qui chế hoạt
động thận trọng ngân hàng thường giới hạn qui mô cho vay, tài trợ cho một khách
hàng, một nhóm khách hàng dưới một mức nhất định, tỷ lệ với qui mô vốn của ngân
hàng [9]. Hệ số an toàn vốn càng lớn thì NHTM không chỉ được chủ động hoạt
động kinh doanh trong khuôn khổ luật định, mà còn cho phép NHTM chấp nhận các
hoạt động kinh doanh rộng hơn, với tiềm năng lợi nhuận lớn hơn, đi kèm với rủi ro
cao hơn, do khả năng phòng đệm của ngân hàng mạnh.
Năng lực tài chính của NHTM cũng chịu tác động không nhỏ từ chất lượng
tài sản có của NHTM, vì liên quan tới khả năng thất thoát hoặc tích tụ vốn trong
tương lai. Nếu chất lượng tài sản có không tốt, khả năng thất thoát vốn lớn, thì vốn
của ngân hàng sẽ tiềm ẩn xu hướng giảm khi phải sử dụng vốn tự có để bù đắp cho
những rủi ro diễn ra thực tế hoặc ngược lại, có khả năng tăng vốn nếu lợi nhuận
đem lại cao.
Thị phần và thị trường
Thị phần và thị trường thể hiện qui mô hoạt động của NHTM, là kết quả của

quá trình cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng có thị phần lớn, thị trường rộng

Viết thuê luận văn thạc25sĩ, luận án tiến sĩ
Mail :
Phone: 0972.162.399


×