Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.73 KB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

VŨ PHAN MINH TRANG

PHÁT NGÔN CÓ VỊ TỪ SAI KHIẾN
TRONG TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

VŨ PHAN MINH TRANG

PHÁT NGÔN CÓ VỊ TỪ SAI KHIẾN
TRONG TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. ĐỖ THỊ HIÊN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô cùng sâu sắc tới TS. Đỗ Thị Hiên đã tận
tình hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này và các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn – Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và quan
tâm, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa
luận.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Sinh viên

Vũ Phan Minh Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài Phát ngôn có vị từ sai
khiến trong tiếng Việt là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ liệu nêu
trong khóa luận là xác thực. Những kết quả của khóa luận không trùng với kết
quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Sinh viên


Vũ Phan Minh Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 7
8. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................ 9
1.1. Lí thuyết ba bình diện nghiên cứu câu ....................................................... 9
1.1.1. Bình diện kết học .................................................................................... 9
1.1.1.1. Thành phần câu .................................................................................. 10
1.1.1.2. Cấu tạo ngữ pháp của câu .................................................................. 11
1.1.2. Bình diện nghĩa học .............................................................................. 12
1.1.2.1. Nghĩa biểu hiện .................................................................................. 12
1.1.2.2. Nghĩa tình thái .................................................................................... 16
1.1.3. Bình diện dụng học ............................................................................... 17
1.1.3.1. Cấu trúc đề - thuyết ............................................................................ 17
1.1.3.2. Cấu trúc thông tin ............................................................................... 19
1.2. Câu và phát ngôn ...................................................................................... 20
1.3. Tiểu kết..................................................................................................... 22
Chương 2 KHÁI QUÁT VỀ VỊ TỪ SAI KHIẾN VÀ PHÁT NGÔN CÓ
VỊ TỪ SAI KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT ................................................... 23
2.1. Khái quát về vị từ sai khiến...................................................................... 23



2.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 23
2.1.2. Đặc trưng ............................................................................................... 24
2.1.3. Phân loại ................................................................................................ 26
2.2. Khái quát về phát ngôn có vị từ sai khiến ................................................ 28
2.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 28
2.2.2. Cấu trúc ngữ pháp ................................................................................. 28
2.2.3. Cấu trúc ngữ nghĩa ................................................................................ 33
2.2.3.1. Cấu trúc ngữ nghĩa cơ sở của phát ngôn có vị từ sai khiến ............... 33
2.2.3.2. Vai nghĩa của các diễn tố ................................................................... 35
2.3. Tiểu kết..................................................................................................... 37
Chương 3 SỰ HIỆN THỰC HÓA CẤU TRÚC NGỮ PHÁP VÀ
NGỮ NGHĨA CỦA VỊ TỪ SAI KHIẾN TRONG PHÁT NGÔN
TIẾNG VIỆT ................................................................................................... 38
3.1. Khả năng hiện diện của các thành tố........................................................ 39
3.1.1. Khả năng hiện diện đầy đủ .................................................................... 39
3.1.2. Khả năng hiện diện không đầy đủ......................................................... 40
3.1.2.1. Vắng diễn tố 1 .................................................................................... 41
3.1.2.2. Vắng diễn tố 2 .................................................................................... 42
3.1.2.3. Vắng diễn tố 3 .................................................................................... 44
3.2. Khả năng hiện thực hóa của các thành tố trong vai trò chức vụ
cú pháp ............................................................................................................ 45
3.2.1. Chu tố .................................................................................................... 45
3.2.2. Diễn tố ................................................................................................... 46
3.2.2.1. Diễn tố 1 ............................................................................................. 46
3.2.2.2. Diễn tố 2 ............................................................................................. 47
3.2.2.3. Diễn tố 3 ............................................................................................. 48
3.2.3. Vị từ trung tâm ...................................................................................... 49



3.3. Tiểu kết..................................................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51
NGUỒN NGỮ LIỆU
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” câu thành ngữ của
ông cha ta đã gợi ra đươc sự phong phú mà rất phức tạp của tiếng Việt. Ngôn
ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng luôn là vấn đề được rất nhiều các nhà
nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và khám phá. Tuy nhiên có những khoảng
trống vẫn chưa được lấp đầy, có những vấn đề chưa được tìm hiểu đến, có
những sự phức tạp chưa được diễn giải.
Theo ngôn ngữ học truyền thống, các đơn vị của ngôn ngữ như từ và
câu thường chỉ được xem xét trên phương diện ngữ pháp. Tuy nhiên từ những
năm cuối của thế kỉ XX cho đến nay, nghiên cứu về ngôn ngữ đã có sự
chuyển biến rõ rệt, với sự ra đời của những lý thuyết mới, các đơn vị của
ngôn ngữ đã được nhìn nhận đầy đủ hơn ở cả ba phương diện: hình thức (ngữ
pháp), nội dung (ngữ nghĩa) và cách sử dụng (ngữ dụng).
Trong quá trình nghiên cứu phát ngôn có vị từ sai khiến, các nhà ngôn
ngữ học thường xem xét, nhìn nhận trên góc độ từ và đặc điểm ngữ pháp của
câu. Chưa công trình nào nghiên cứu câu có chứa vị từ sai khiến trên cả ba
bình diện. Nếu có cũng chỉ ở mức độ nhỏ và chưa đi sâu vào từng khía cạnh
cụ thể. Chúng tôi nhận thấy nghiên cứu phát ngôn có chứa vị từ sai khiến
trong tiếng Việt là một vấn đề hứa hẹn sẽ mang đến nhiều điều mới mẻ và thú
vị.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Phát ngôn có vị từ sai
khiến trong tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận này.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu câu trên ba bình diện
Câu là một trong những đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Vì thế, trong ngôn
ngữ học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về câu trên nhiều phương diện

1


khác nhau, bởi nhiều khuynh hướng ngôn ngữ khác nhau. Khởi nguồn là
Aristotle với các công trình nghiên cứu từ thời cổ đại cách đây 2000 năm. Và
cho đến nay, đặc biệt là từ khoảng những năm cuối của thế kỉ XX, lĩnh vực
nghiên cứu câu đã có nhiều sự chuyển biến rõ rệt, những cách nhìn nhận khác.
Ngôn ngữ học đã xem xét câu là một sản phẩm được tạo ra từ hoạt động hành
chức của ngôn ngữ (hoạt động thực hiện chức năng). Và câu đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong giao tiếp giữa con người với con người. Khi đó,
không chỉ quan tâm câu ở phương diện cấu trúc ngữ pháp (bình diện ngữ
pháp) như ngôn ngữ học truyền thống nữa mà cả ở bình diện ngữ nghĩa và
ngữ dụng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vị từ
L. Tesnière là người đầu tiên đặt nền móng cho ngữ nghĩa học cú pháp
với cuốn sách Eléments de syntaxe structural (Các yếu tố của cấu trúc cú
pháp) (1969). Ông là người đi đầu với quan niệm về cấu trúc câu bao gồm vị
từ và các diễn tố. Vị từ là yếu tố trung tâm và các diễn tố làm bổ ngữ. Vị từ sẽ
quy định về lượng cũng như về chất của các diễn tố. Kể cả chủ ngữ, được coi
là thành phần nòng cốt của câu, thì với L. Tesnière, chủ ngữ cũng chỉ là một
trong số các bổ ngữ bổ sung ý nghĩa nào đó cho vị từ.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vị từ và tham tố trong cấu trúc câu ngay
sau L. Tesnière là nhà ngôn ngữ học C.J. Fillmore. Quan điểm của C.J.
Fillmore được ông thể hiện qua bài viết The case of case (Tác dụng của cách)
(1968). Ở dây, tham tố (tham thể) được hiểu như diễn tố của L. Tesnière. Câu

biểu thị sư tình và C.J. Fillmore cho rằng, vị từ và các tham tố của nó sẽ biểu
hiện cốt lõi của sự tình. Vị từ là cốt lõi, là trung tâm, là trục mà các tham tố sẽ
quay xung quanh nó, tập hợp lại làm rõ sự tình của câu. Các tham tố đảm
nhiệm các vai nghĩa mà như C.J. Fillmore đã chỉ ra gồm: tác thể, đối thể, công

2


cụ,… Thế hệ sau đang từng ngày dần hoàn thiện danh sách vai nghĩa mà ông
đã khởi xướng.
Cùng với L. Tesnière và C.J. Fillmore, S.C. Dik cũng đưa ra quan điểm
về vai trò trung tâm của vị từ trong cấu trúc của câu (cấu trúc ngữ pháp và cấu
trúc ngữ nghĩa). Trong cấu trúc ngữ pháp, S.C. Dik cho rằng vị từ là trung
tâm, chủ ngữ và bổ ngữ là những vai nghĩa được gán cho các tham tố của vị
từ. Cấu trúc ngữ nghĩa bao gồm kết cấu vị ngữ mở rộng và kết cấu vị ngữ hạt
nhân. Kết cấu vị ngữ hạt nhân là nòng cốt, bao gồm vị từ và các tham tố. Kết
cấu vị ngữ mở rộng được cấu tạo từ kết cấu vị ngữ hạt nhân cộng thêm các
chu tố.
Một đại diện tiêu biểu nữa nghiên cứu về vị từ là nhà ngôn ngữ học
M.A.K. Halliday. Trong cuốn sách Dẫn luận ngữ pháp chức năng, ông không
gọi câu biểu thị sự tình mà ông cho rằng câu biểu thị một quá trình nào đó
đang diễn ra. Và mỗi quá trình thì gồm có ba thành phần: chính quá trình, các
tham thể trong quá trình, các chu cảnh liên quan đến quá trình; tương đương
với vị từ, tham thể, chu tố và vị từ đóng vai trò trung tâm.
Trên đây là sơ lược tình hình nghiên cứu vị từ trên thế giới, còn ở Việt
Nam, vị từ được xem xét theo hai khuynh hướng: vị từ là phạm trù từ loại và
vị từ là phạm trù chức năng.
Tiêu biểu cho khuynh hướng coi vị từ là một phạm trù từ loại là
Nguyễn Kim Thản và Lê Văn Lý. Họ xếp động từ và tính từ vào chung một
nhóm gọi là vị từ. Động từ và tính từ có những đặc điểm giống nhau và phân

biệt với danh từ.
Tiêu biểu cho khuynh hướng coi vị từ là một phạm trù chức năng là
Cao Xuân Hạo và Nguyễn Thị Quy – người chịu ảnh hưởng lớn từ các công
trình nghiên cứu vị từ của Cao Xuân Hạo. Họ xem xét vị từ dưới phương diện

3


chức năng, đó là chức năng tự mình làm thành một vị ngữ hoặc làm trung tâm
ngữ pháp.
2.3. Lịch sử nghiên cứu vị từ sai khiến
Vị từ sai khiến là một tiểu nhóm thuộc nhóm vị từ ba diễn tố (hay còn
gọi là vị từ ngữ trị ba) – một trong số những nhóm từ vựng cơ bản của tiếng
Việt. Nhóm vị từ sai khiến có số lượng tương đối nhiều trong tiếng Việt.
Vị từ sai khiến được xuất hiện trong các công trình nghiên cứu chung
về nhóm vị từ ba diễn tố của các tác giả: Hoàng Trọng Phiến, Trần Văn Thư,
Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thị Quy, Cao Xuân Hạo.
Trong cuốn Động từ trong tiếng Việt (1977), Nguyễn Kim Thản đã chia
vị từ thành động từ và tính từ. Sau đó, ông sử dụng ba tiêu chí để chia động
từ, trong đó có tiêu chí “theo tính chất chi phối của động từ”. Theo tiêu chí
này, tác giả đã chỉ ra được bốn nhóm động từ, trong đó có nhóm “động từ gây
khiến”. Nhóm động từ này yêu cầu hai bổ ngữ bắt buộc đi kèm.
Trong cuốn Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (1995), tác giả Nguyễn Thị
Quy cũng đã đề cập đến vị từ ba diễn tố. Dựa vào ngữ nghĩa và ngữ pháp, tác
giả cũng chia vị từ thành bốn loại, trong đó có “các vị từ cầu khiến vốn biểu
thị một hành động ngôn từ tác động vào một đối tượng là người hay động vật
được thuần dưỡng (diễn tố thứ hai) với mục đích điều khiển đối tượng đó làm
một hành động [+Chủ ý] nào đó: hành động này được biểu hiện bằng một vị
ngữ làm thành diễn tố thứ ba”. [8, tr. 151]
Tác giả Trần Văn Thư trong luận văn thạc sĩ Vị từ ngữ trị ba (2002) đã

nêu ra 12 nhóm vị từ ngữ trị ba, trong đó có nhóm vị từ sai khiến. Ở nhóm vị
từ sai khiến nói riêng và ở cả 12 nhóm vị từ ngữ trị ba nói chung, tác giả đã
nêu ra khái niệm, định nghĩa, đặc trưng khái quát của nhóm vị từ. Bên cạnh
đó, Trần Văn Thư cũng nghiên cứu sự hiện thực hóa của vị từ ngữ trị ba trong
câu. Đây là công trình nghiên cứu chi tiết và có hệ thống về vị từ ngữ trị ba

4


(vị từ ba diễn tố). Tuy nhiên, là một công trình tổng hợp về các tiểu nhóm vị
từ nên sự kiến giải về vị từ sai khiến cũng không quá chuyên sâu.
Ngoài những công trình tổng hợp về vị từ ba diễn tố trên còn có những
công trình nghiên cứu riêng về vị từ sai khiến (được nghiên cứu với tên gọi vị
từ cầu khiến, vị từ gây khiến): luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học Vị từ cầu khiến
trong tiếng Việt (2007) của Nguyễn Thị Liên; luận văn thạc sĩ khoa học ngữ
văn Vị từ gây khiến trong tiếng Việt (2007) của Nguyễn Thị Kim Quyên.
Tóm lại, vị từ sai khiến và phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng Việt
có được các nhà nghiên cứu nhắc đến, đề cập đến trong các công trình nghiên
cứu tổng hợp về vị từ ba diễn tố, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về tiểu loại vị từ sai khiến và phát ngôn có chứa vị từ
sai khiến trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng học. Đề tài của chúng
tôi cũng giống như bất kì các công trình nghiên cứu khoa học thuộc bất kì lĩnh
vực nào khác, không thể xây dựng mà không có các tiền đề lý thuyết quý giá
của các nhà nghiên cứu đi trước. Các công trình đã được công bố đã gợi mở
cho chúng tôi rất nhiều về mặt lý thuyết để chúng tôi thực hiện đề tài này:
Phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng Việt.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng Việt, chúng tôi
hướng đến mục đích đó là làm rõ những đặc điểm của chúng trên ba bình diện
của ngôn ngữ là kết học, nghĩa học và dụng học. Qua đó giúp hoàn thiện hơn

lý thuyết ba bình diện của câu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là phát ngôn có vị từ sai khiến
trong tiếng Việt.

5


4.2. Phạm vi
Để tìm ra các ngữ liệu, các dẫn chứng nhằm giải quyết vấn đề được đặt
ra, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên phạm vi tư liệu thuộc thể loại truyện
ngắn, tiểu thuyết Việt Nam của các tác giả thuộc trào lưu văn học hiện thực
giai đoạn 1930 - 1945. Những tác phẩm này sẽ cho khóa luận một nguồn tài
liệu phong phú để tìm hiểu vấn đề.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng Việt, chúng
tôi nhận thấy các nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu lý thuyết ba bình diện của ngôn ngữ (kết học, nghĩa học
và dụng học) và lý thuyết về câu và phát ngôn để làm cơ sở lí luận cho đề tài.
- Nghiên cứu lý thuyết về vị từ sai khiến và phát ngôn có vị từ sai khiến
để xác định và hiểu rõ hơn về đối tượng nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu sự hiện thực hóa cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của vị từ
sai khiến trong phát ngôn tiếng Việt.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích – miêu tả: phương pháp này được chúng tôi sử
dụng để phân tích những ngữ liệu đã được thống kê để có thể hiểu hơn về vấn
đề được nghiên cứu, sau đó tổng hợp chỉ ra các đặc trưng của phát ngôn có vị

từ sai khiến trong tiếng Việt.
- Phương pháp phân tích cú pháp: phân tích các ngữ liệu.
-Thủ pháp thống kê, phân loại: thống kê cụ thể các phát ngôn có vị từ
sai khiến trong tiếng Việt dựa theo mục đích nghiên cứu và phân loại chúng
theo những tiêu chí nhất định.

6


- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: so sánh các phát ngôn có đầy đủ thành tố
và không đầy đủ thành tố.
7. Đóng góp của khóa luận
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng:
- Về lý luận: làm rõ lý thuyết về ba bình diện kết học, nghĩa học, dụng
học; lý thuyết về câu và phát ngôn; lý thuyết về vị từ sai khiến và phát ngôn
có vị từ sai khiến trong tiếng Việt. Đồng thời chỉ ra được khả năng hiện diện
của các thành tố và khả năng hiện thực hóa của các thành tố trong vai trò chức
vụ cú pháp.
- Về thực tiễn: bổ sung sự hiểu biết, cái nhìn cụ thể về các phát ngôn có
vị từ sai khiến trong tiếng Việt; đồng thời có thể sử dụng chúng trong “lời ăn
tiếng nói” của cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong văn chương
nghệ thuật.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của khóa luận được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Ở chương này chúng tôi trình bày lý thuyết về ba bình diện nghiên cứu
câu, đó là bình diện kết học, bình diện nghĩa học và bình diện dụng học; và lý
thuyết khái quát về câu và phát ngôn.
Chương 2: Khái quát về vị từ sai khiến và phát ngôn có vị từ sai khiến

trong tiếng Việt
Ở chương này chúng tôi trình bày lý thuyết về vị từ sai khiến và phát
ngôn có vị từ sai khiến một cách khái quát nhất, giúp người đọc có thể nắm
được sơ lược về vị từ sai khiến và phát ngôn có vị từ sai khiến trong tiếng
Việt. Về vị từ sai khiến, chúng tôi trình bày khái niệm, đặc trưng và cách phân

7


loại. Về phát ngôn có chứa vị từ sai khiến, chúng tôi trình bày khái niệm, cấu
trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa.
Chương 1 và chương 2 là cơ sở tiền đề để chúng tôi khảo sát, phân loại và đưa
ra kết quả ở chương 3.
Chương 3: Sự hiện thực hóa cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của vị từ
sai khiến trong tiếng Việt
Ở chương này chúng tôi đưa ra dẫn chứng, ngữ liệu cụ thể, sau đó sẽ đi
vào phân tích để nêu ra khả năng hiện diện đầy đủ hay không đầy đủ của các
thành tố. Tiếp theo là khả năng hiện thực hóa của các thành tố trong vai trò
chức vụ cú pháp (chu tố, diễn tố, vị từ trung tâm). Để từ đó có thể đi đến
những kết luận hoàn toàn thuyết phục về vấn đề này.

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Lí thuyết ba bình diện nghiên cứu câu
Ngữ pháp hình thức, đúng như tên gọi của nó, có đối tượng quan tâm là
phương diện hình thức, nghiên cứu mặt hình thức của các đơn vị ngôn ngữ,
trong đó có câu. Tuy nhiên, chức năng chính của câu là giúp con người giao

tiếp với nhau, câu đi vào thực tế sử dụng chứ không chỉ nằm yên trên giấy. Vì
thế việc nghiên cứu câu không chỉ dừng lại ở mặt hình thức, cấu trúc ngữ
pháp mà còn phải nghiên cứu về mặt ngữ nghĩa và nghiên cứu câu trong thực
tế sử dụng (ngữ dụng). Ngữ pháp chức năng đã khắc phục được thiếu sót này
của ngữ pháp hình thức, đã nghiên cứu câu trên cả ba bình diện.
Ch.W.Morris (1938) đã dựa vào lý thuyết tín hiệu học để phân chia ba
lĩnh vực:
- Kết học: nghiên cứu hình thức và mối quan hệ của các tín hiệu.
- Nghĩa học: nghiên cứu hình thức của tín hiệu và nội dung mà hình
thức đó biểu thị.
- Dụng học: nghiên cứu việc sử dụng tín hiệu
Các nhà ngữ pháp học chức năng đã vận dụng lý thuyết của
Ch.W.Morris và cho rằng câu cần được xem xét trên cả ba bình diện: kết học,
nghĩa học, dụng học. Vì học cho rằng ngôn ngữ học cũng là một hệ thống tín
hiệu và câu là đơn vị nhỏ nhất mà ở đó cả ba bình diện đều được thể hiện.
1.1.1. Bình diện kết học
Bình diện kết học nghiên cứu về mặt hình thức cấu trúc ngữ pháp của
câu, trong đó có hai vấn đề chính: các đơn vị ngữ pháp của câu (thành phần
câu) và mối quan hệ giữa chúng (cấu trúc câu).

9


1.1.1.1. Thành phần câu
Việc mô tả thành phần câu (nêu tên, khái niệm và tiêu chí xác định các
thành phần câu) đã được các nhà ngôn ngữ học tiến hành từ rất lâu, song vẫn
chưa đi đến kết luận thống nhất. Có rất nhiều quan niệm về việc phân loại
thành phần câu, tuy nhiên, quan niệm chia thành phần câu thành bốn loại là
phổ biến và hợp lí trong việc sủ dụng để phân tích câu:
- Thành phần chính của câu, còn được gọi là nòng cốt câu, những thành

phần bắt buộc phải có mặt ở trong câu để câu có được sự hoàn chỉnh cả về nội
dung (biểu đạt trọn vẹn một ý nghĩa) và hình thức (cấu tạo hoàn chỉnh) kể cả
khi câu đứng tách biệt ngoài văn cảnh, ngữ cảnh. Thành phần chính của câu
bao gồm chủ ngữ và vị ngữ. Ví dụ (1): Tôi ngủ. Ví dụ này gồm chủ ngữ tôi và
vị ngữ ngủ.
- Thành phần phụ của câu là thành phần không nằm trong nòng cốt câu
(nằm ngoài kết cấu chủ - vị), gồm: trạng ngữ, vị ngữ phụ và khởi ngữ. Sự có
mặt của chúng bổ sung thêm ý nghĩa cho câu, cho kết cấu chủ - vị trung tâm,
chứ không ảnh hưởng gì đến cấu tạo ngữ pháp câu và nội dung ý nghĩa biểu
đạt của câu.
- Thành phần phụ của từ: giống như thành phần phụ của câu là thành
phần bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu thì thành phần phụ của từ bổ sung ý
nghĩa cho từ, ở đây là thực từ (danh từ, động từ, tính từ), bao gồm: định ngữ
và bổ ngữ. Định ngữ có nhiệm vụ bổ sung nghĩa cho danh từ/ cụm danh từ.
Bổ ngữ bổ nghĩa cho động từ, tính từ và góp phần làm thành cụm động từ,
cụm tính từ.
- Thành phần biệt lập: là thành phần không tham gia vào việc diễn đạt
nghĩa sự việc của câu, bao gồm: hô ngữ, liên ngữ, tình thái ngữ, phụ chú ngữ.

10


1.1.1.2. Cấu tạo ngữ pháp của câu
Ngoài các thành phần câu thì bình diện kết học còn nghiên cứu mối
quan hệ giữa các thành phần ấy, gọi là cấu trúc ngữ pháp của câu. Các nhà
ngôn ngữ học dựa vào số lượng các cụm chủ - vị, số lượng kết cấu chủ - vị để
phân chia thành ba loại câu là: câu đơn, câu ghép và câu phức.
Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ - vị nòng cốt. Trong phạm trù câu
đơn lại có hai tiểu loại là câu đơn bình thường (một cụm chủ - vị) và câu đơn
đặc biệt (không xác định được thành phần câu trong cấu trúc ngữ pháp cơ sở).

Ví dụ:
(2) Ông bố không trả lời. {3, tr. 287}
Ví dụ (2) là câu đơn bình thường gồm một chủ ngữ: ông bố và một vị
ngữ: không trả lời.
(3) Mình ơi!...{3, tr. 206}
Ví dụ (3) là một câu đơn đặc biệt dùng để gọi đáp.
Câu phức và câu ghép là những loại câu phải có từ hai cụm chủ - vị trở
lên. Nếu các kết cấu chủ - vị độc lập với nhau, không bao hàm nhau nhưng
vẫn có quan hệ về nghĩa thì đó là câu ghép. Còn các kết cấu chủ - vị mà bao
hàm, bao chứa nhau thì đó là câu phức. Trong đó, một kết cấu chủ - vị là nòng
cốt, kết cấu chủ - vị bị bao đảm nhiệm các chức năng ngữ pháp khác trong
câu, tạo nên câu phức thành phần bổ ngữ, câu phức thành phần chủ ngữ, câu
phức thành phần vị ngữ, câu phức thành phần định ngữ,…
Ví dụ:
(4) Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. {3, tr.
163}
Ví dụ (4) là câu ghép có hai vế, mỗi vế là một cụm chủ - vị. Cụm chủ vị thứ nhất: Hắn tủm tỉm cười một mình; cụm chủ - vị thứ hai: hai mắt thì
sáng lên lấp lánh.

11


(5) Đoàn biết rằng anh ta đang giận lắm. {3, tr. 188}
Ví dụ (5) là câu phức thành phần bổ ngữ. Câu có một cụm chủ - vị
nòng cốt và một cụm chủ - vị bị bao là anh ta đang giận lắm đóng vai trò làm
bổ ngữ cho động từ biết.
(6) Nhưng cũng có những lúc ông lão ngồi thu mình hàng giờ trong cái
góc nhà tối im lìm nhìn ra. {3, tr. 178}
Ví dụ (6) là câu phức thành phần chủ ngữ. Chủ ngữ được cấu tạo từ
một cụm chủ - vị: ông lão ngồi thu mình hàng giờ trong cái góc nhà tối im

lìm.
Sự phân chia các kiểu cấu trúc cú pháp của câu trên đây chỉ là kiểu
phân chia được đông đảo các nhà nghiên cứu chấp nhận, chứ chưa phải là
kiểu phân chia được tất cả các nhà nghiên cứu thống nhất. Có những cách
phân chia không chỉ dựa vào mặt hình thức mà còn dựa cả vào ý nghĩa, ngữ
nghĩa. Tuy nhiên, bình diện kết học xem xét hình thức câu cho nên chúng tôi
sẽ căn cứ vào hình thức (số lượng cụm chủ - vị nòng cốt) để làm tiêu chí phân
loại câu như trên đã trình bày.
1.1.2. Bình diện nghĩa học
Bình diện nghĩa học, hay còn gọi là bình diện ngữ nghĩa, đúng như tên
gọi của, bình diện này quan tâm đến nghĩa của câu, nghiên cứu câu và cái
được câu biểu đạt. Bình diện nghĩa học quan tâm đến nghĩa của câu trên hai
phương diện: nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái.
1.1.2.1. Nghĩa biểu hiện
Nghĩa biểu hiện còn có các tên gọi khác như nghĩa miêu tả, nghĩa kinh
nghiệm, nghĩa sự việc, nghĩa mệnh đề. Nghĩa biểu hiện là thành phần nghĩa
phản ánh, miêu tả sự vật, sự việc, hiện tượng, sự tình nào đó trong thực tế
khách quan. Tuy nhiên, sự miêu tả, phản ánh này không phải là sự sao chép,
như hình ảnh mà ta thu được khi đứng trước một chiếc gương soi. Người nói,

12


người viết đã thông qua lăng kính chủ quan của bản thân, thông qua sự nhận
thức của mình để phản ánh lại hiện thực khách quan ấy. Đó được gọi là sự
tình, mỗi câu thường nhắc đến một hoặc một vài sự tình. Nhìn chung, nó gồm
có cốt lõi của sự tình (được thể hiện bằng vị từ) và các yếu tố bên ngoài tham
gia vào sự tình (các tham tố hay tham thể). Bình diện kết học quan tâm đến
cấu trúc ngữ pháp, kết cấu chủ - vị thì bình diện nghĩa học quan tâm đến cấu
trúc ngữ nghĩa, cấu trúc vị từ - tham thể. Chúng ta có thể tưởng tượng cấu trúc

vị từ - tham thể có cấu tạo giống một cái bánh xe. Vị từ là trục của bánh xe và
các tham thể là những chiếc nan quay xung quanh trục đó. Chúng cùng nhau
thể hiện nội dung cốt lõi của sự tình.
Vị từ là trung tâm, thành tố cốt lõi của câu. Nó nêu lên đặc trưng hay
quan hệ trong sự tình. Vị từ làm trung tâm của vị ngữ, trả lời cho các câu hỏi
sau: đối tượng được phản ánh trong câu thể hiện hành động gì? Có trạng thái
ra sao? Có phẩm chất như thế nào? Có mối quan hệ như thế nào? Phương tiện
ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện vị từ rất đa dạng, gồm cả danh từ, động
từ, tính từ và cả những từ chỉ quan hệ.
Ví dụ:
(7) Đoàn đứng lên, lử thử đi vào trong buồng. {3, tr. 182} (Vị từ là động từ)
(8) Hạnh phúc thật hồn hậu, đơn sơ. {3, tr. 180} (Vị từ là tính từ}
(9) Tần là em họ, hắn là anh em con chú, con bác với Đoàn. {3, tr. 182} (Vị
từ là từ chỉ quan hệ}
Vị từ là danh từ, từ chỉ quan hệ không phải nhiều nhưng nó đã giúp ta
phân định vị từ thuộc phạm trù từ loại (vị từ là động từ và tính từ) với quan
niệm vị từ thuộc phạm trù chức năng. Và vị từ trong cấu trúc vị từ - tham thể
là vị từ thuộc phạm trù chức năng.
Vị từ và tham thể được đưa vào làm thành một cấu trúc vì chúng có
mối quan hệ với nhau. Vị từ là trung tâm nên nó sẽ quyết định số lượng tham

13


thể xung quanh nó cũng như các vai nghĩa mà tham thể sẽ mang. Dựa vào tiêu
chí đó, ta có:
- Vị từ không đòi hỏi tham thể đi kèm (vô trị). Đó là những vị từ làm
thành câu đặc biệt. Ví dụ:
(10) Bắt rồi. {3, tr. 186}
Ngoài vị từ vô trị thì các vị từ khác luôn đòi hỏi tham thể đi kèm, chỉ

khác nhau ở số lượng và vai nghĩa.
- Vị từ đòi hỏi một tham thể (đơn trị), tham thể đó là chủ thể thực hiện
hành động, thể hiện đặc điểm, trạng thái ở vị từ. Ví dụ:
(11) Cụ hỏi vậy. {2, tr. 9}
Ví dụ (11), vị từ gọi và tham thể là cụ - chủ thể của hành động gọi.
- Vị từ đòi hỏi hai tham thể (song trị) thường xuất hiện trong câu có
chứa vị từ cảm nghĩ, vị từ quan hệ, vị từ tác động,… Ví dụ:
(12) Đoàn nhìn thẳng vào mặt anh du kích. {3, tr. 194}
Ví dụ (12), vị từ nhìn có hai tham thể đi kèm là Đoàn – chủ thể của
hành động nhìn và mặt anh du kích – đối tượng của hành động nhìn.
(13) Nước ta là nước văn hiến. {2, tr. 8}
Ví dụ (13), vị từ quan hệ là có hai tham thể đi kèm nước ta và nước văn
hiến.
- Vị từ đòi hỏi ba tham thể (tam trị) thường xuất hiện trong câu có chứa
vị từ sai khiến, vị từ trao nhận, vị từ dời chuyển,… Ví dụ:
(14) Tôi cắp cặp đến nhà người Pháp. {1, tr. 186}
Ví dụ (14), vị từ dời chuyển cắp có ba tham thể đi kèm là: tôi – chủ thể
hành động, cặp – đối tượng dời chuyển, đến nhà người Pháp – điểm cuối của
sự dời chuyển.
(15) Tôi mời lão hút trước. {1, tr. 216}

14


Ví dụ (15), vị từ sai khiến mời có ba tham thể đi kèm: tôi – chủ thể
hành động sai khiến, lão – đối tượng sai khiến, hút – nội dung sai khiến.
Để thể hiện một sự tình trọn vẹn thì không chỉ có vị từ mà còn phải có
sự đóng góp của các tham thể, đó là những thực thể xung quanh vị từ, biểu thị
những ý nghĩa nào đó. Căn cứ vào đó có thể chia tham thể thành hai loại:
tham thể bắt buộc (diễn tố) và tham thể không bắt buộc (chu tố).

Tham thể bắt buộc (diễn tố) là các vai nghĩa tồn tại do bản thân vị từ
quy định và yêu cầu. Tham thể bắt buộc sẽ đặc trưng cho từng loại vị từ, từng
loại sự tình. Nếu ta thay đổi số lượng tham thể và vai nghĩa của chúng, ta sẽ
nhận được một sự tình khác. Ví dụ vị từ chặt. Nếu chặt là một hành động, vị
từ tác động thì nó yêu cầu hai tham thể là chủ thể của hành động, trả lời cho
câu hỏi “Ai chặt?” và đối tượng của hành động trả lời cho câu hỏi “Chặt cái
gì?”. Ví dụ (16a) Tôi chặt cây. Nếu chặt là vị từ chỉ trạng thái của sự vật thì
nó chỉ yêu cầu một tham thể đi cùng nó, đó là tham thể chỉ chủ thể của trạng
thái. Ví dụ (16b) Cây đã chặt xong.
Tham thể mở rộng là thực thể xung quanh vị từ, nhưng không phải do
vị từ ấn định mà do các yếu tố ngoài sự tình quy định. Tham thể mở rộng, hay
còn gọi là chu tố không đặc trưng cho loại vị từ nào mà chu tố bổ sung ý
nghĩa về mặt không gian, địa điểm, thời gian, cách thức, mục đích, phương
tiện, nguyên nhân. Ví dụ:
(17) Một con mèo nằm to sù gọn trên một bên đùi. {3, tr. 200}
Ở ví dụ (17), to sù là tham thể mở rộng thể hiện kích thước của sự vật.
Tuy tham thể mở rộng xuất hiện trong sự tình khá tự do vì không chịu
sự quy định trực tiếp của vị từ nhưng không phải không liên quan đến vị từ.
Các chu tố khi đi vào sự tình cũng phải được vị từ chấp nhận, phải phù hợp,
logic về mặt ý nghĩa với vị từ.

15


Diễn tố khi được hiện thực hóa trong câu thường giữ các chức vụ cú
pháp như chủ ngữ, bổ ngữ, … Còn chu tố thì thường đóng vai trò làm thành
phần phụ như trạng ngữ, vị ngữ phụ, đề ngữ, …
Các vai nghĩa mà các diễn tố đảm nhận cũng là một vấn đề đang được
các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu, thảo luận và chưa đi đến thống nhất. Quan
niệm được đa số các nhà ngôn ngữ học đồng ý đó là diễn tố có thể mang

những vai nghĩa cơ bản sau: vai tác thể (người tác động), vai đối thể (người
hay vật bị tác động), vai tiếp thể (người tiếp nhận), vai đắc lợi thể (chịu tác
động có lợi), vai thụ thể (chịu tác động có hại), vai nguồn, vai đích, vai địa
điểm, vai công cụ, vai cách thức, …
1.1.2.2. Nghĩa tình thái
Bên cạnh nghĩa miêu tả, bình diện nghĩa học còn dành sự quan tâm đến
nghĩa tình thái. Nghĩa tình thái luôn luôn hiện diện ở trong câu, vì như chúng
tôi đã trình bày ở trên, người nói, người viết phản ánh hiện thực khách quan
thông qua lăng kính chủ quan của bản thân, cho nên ít nhiều, người nói, người
viết đã thể hiện quan điểm, thái độ của bản thân vào trong câu. Quan niệm
hiện nay chia tình thái thành hai loại: tình thái của hành động phát ngôn và
tình thái của lời phát ngôn.
Tình thái của hành động phát ngôn chỉ mục đích của phát ngôn: để kể,
để hỏi, để cầu khiến, để cảm thán,… tương ứng với các kiểu câu: câu trần
thuật, câu cảm thán, câu cầu khiến, câu nghi vấn.
Tình thái của lời phát ngôn chỉ cách đánh giá, thái độ, quan hệ của
người nói đối với người nghe, đối với nội dung được nhắc đến trong câu, bao
gồm tình thái khách quan và tình thái chủ quan.
Tình thái khách quan (tình thái logic) thể hiện sự đúng/ sai của nội
dung câu với hiện thực khách quan đang tồn tại. Do đó, vai trò của người nói

16


hay các yếu tố chủ quan của người nói với nội dung câu không được tình thái
khách quan xem xét đến.
Tình thái chủ quan thể hiện cách đánh giá, thái độ, quan hệ của người
nói đối với người nghe (hai người giao tiếp với nhau luôn được đặt trong mối
quan hệ nào đó), người nói đối với nội dung được nhắc đến trong câu. Tình
thái chủ quan có thể được thể hiện ra bằng các yếu tố ngôn ngữ như các biểu

thức tình thái, cũng có thể chỉ được biểu hiện qua ngữ điệu của người nói.
Trên đây là sự trình bày của chúng tôi về bình diện ngữ dụng với hai
vấn đề là nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái. Tuy nhiên, chúng tôi dành nhiều
sự quan tâm hơn đến thành phần nghĩa biểu hiện vì nó có liên quan đến khóa
luận.
1.1.3. Bình diện dụng học
Bình diện ngữ dụng (dụng học) nghiên cứu mối quan hệ của câu với
người sử dụng, việc sử dụng câu trong những tình huống giao tiếp, những ngữ
cảnh cụ thể, nhằm phát hiện ra những ý nghĩa của câu, đó chính là nghĩa ngữ
dụng. Đối với bình diện này, câu không được xem xét ở trạng thái tĩnh như ở
bình diện kết học và bình diện nghĩa học nữa mà nó được nhìn nhận ở trạng
thái động vì nó được gắn với thực tế sử dụng.
Bình diện dụng học quan tâm đến rất nhiều vấn đề như: cấu trúc đề thuyết, cấu trúc lập luận, cấu trúc thông tin, các thành phần ngữ dụng của câu,
các hiện tượng tiêu điểm hóa, sự hiện thực hóa cấu trúc cú pháp của câu trong
phát ngôn,… Đây đều là những vấn đề quan trọng, tuy nhiên, chúng tôi chỉ
xin trình bày cấu trúc đề - thuyết và cấu trúc thông tin vì đó là những cơ sở lý
thuyết giúp chúng tôi hoàn thiện khóa luận này.
1.1.3.1. Cấu trúc đề - thuyết
Hiện nay có hai quan niệm về cấu trúc để - thuyết. Cao Xuân Hạo cho
cấu trúc đề - thuyết thuộc bình diện ngữ pháp. Ông phân tích câu theo cấu

17


trúc đề - thuyết chứ không phải cấu trúc chủ - vị. Ông cho rằng một câu gồm
phần đề là cái cơ sở, là phạm vi của điều được nhắc đên trong phần thuyết.
Trật tự thông thường của cấu trúc đề - thuyết là đề trước thuyết sau.
Khác với quan niệm của Cao Xuân Hạo, các nhà ngôn ngữ học lại coi
cấu trúc đề - thuyết là cấu trúc thông báo của câu. Phần đề là xuất phát điểm
cho câu nói. Phần thuyết là phần diễn giải, phát triển của phần đề. Cấu trúc đề

- thuyết thuộc bình diện ngữ dụng cùng với cấu trúc chủ - vị thuộc bình diện
ngữ pháp tồn tạo song song với nhau.
Cấu trúc đề - thuyết gồm các thành phần: đề, thuyết, khung đề, minh
xác ngữ.
Thành phần chính yếu và cốt lõi gồm đề và thuyết. Đề là cái được nhắc
đến trong câu. Đó là sự vật, hiện tượng được người nói và người nghe đã biết
trong quá trình giao tiếp. Thuyết là sự diến giải về cái được nhắc đến ở phần
đề. Thuyết thường chứa đựng một nội dung thông báo mới. Câu có thể thiếu
phần đề nhưng không thể thiếu phần thuyết.
Ngoài thành phần cốt lõi, cấu trúc đề - thuyết còn gồm thành phần phụ
là khung đề và minh xác ngữ.
Khung đề là phần biểu thị thời gian, ngữ cảnh. Khung đề thường đứng
đầu câu, trước phần đề, thường ứng với trạng ngữ trong cấu trúc chủ - vị.
Minh xác ngữ thường ứng với vị ngữ phụ trong cấu trúc chủ - vị, nó bổ
sung ý nghĩa trạng thái cho các sự kiện được nói tới ở nòng cốt câu.
Có năm tiêu chí để dựa vào đó ta có thể xác định trong câu đâu là phần
đề và đâu là phần thuyết. Tiêu chí về phương tiện ngôn ngữ: đó là các từ “thì,
là, mà”, đây là ranh giới rõ ràng nhất để phân chia đề - thuyết. Tiêu chí về nội
dung: phần đề nêu ra đối tượng, phần thuyết nêu ra nội dung về đối tượng đó.
Tiêu chí về vị trí, trật tự sắp xếp: thông thường là đề trước, thuyết sau. Tiêu
chí về mặt từ loại: vì phần đề thường nhắc đến sự vật, sự việc, hiện tượng, đối

18


×