Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Phát ngôn có vị từ trao nhận trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.1 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

THIỀU THU LINH

PHÁT NGÔN CÓ VỊ TỪ TRAO NHẬN
TRONG TIẾNG VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

THIỀU THU LINH

PHÁT NGÔN CÓ VỊ TỪ TRAO NHẬN
TRONG TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học

TS. ĐỖ THỊ HIÊN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Phát ngôn có vị từ trao nhận trong tiếng Việt” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Ngữ liệu khảo sát là hoàn toàn chính xác.
Những kết quả nghiên cứu chưa từng được công bố trong bất kì công trình khoa học
nào.

Sinh viên

Thiều Thu Linh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô cùng sâu sắc tới TS.Đỗ Thị Hiên, người trực
tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này cùng các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn
Ngôn ngữ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng bạn bè và gia
đình đã tạo điều kiện, động viên tôi trong suốt quá trình học tâp và nghiên cứu.
Bước đầu đi vào thực tế nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để công trình được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên

Thiều Thu Linh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8
4. Đối tương, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
7. Đóng góp khóa luận ...................................................................................... 9
8. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 11
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 11
1.1. Lí thuyết ba bình diện nghiên cứu câu ..................................................... 11
1.1.1. Bình diện kết học (ngữ pháp) ................................................................ 11
1.1.2. Bình diện nghĩa học (ngữ nghĩa)........................................................... 13
1.1.3. Bình diện dụng học ............................................................................... 15
1.2. Câu và phát ngôn ...................................................................................... 18
1.3. Tiểu kết..................................................................................................... 19
Chương 2. KHÁI QUÁT VỀ VỊ TỪ TRAO NHẬN VÀ PHÁT NGÔN CÓ
VỊ TỪ TRAO NHẬN TRONG TIẾNG VIỆT............................................ 20
2.1. Khái quát về vị từ trao nhận ..................................................................... 20
2.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 20
2.1.2. Đặc trưng ............................................................................................... 21
2.1.3. Phân loại ................................................................................................ 24
2.1.4. Các thủ pháp xác định diễn tố của vị từ trao nhận ................................ 25
2.2. Khái quát về phát ngôn có vị từ trao nhận ............................................... 31
2.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 31


2.2.2. Cấu trúc ngữ pháp ................................................................................. 32
2.2.3. Cấu trúc ngữ nghĩa ................................................................................ 35
2.3. Tiểu kết..................................................................................................... 36
Chương 3. SỰ HIỆN THỰC HÓA CẤU TRÚC NGỮ PHÁP VÀ NGỮ

NGHĨA CỦA VỊ TỪ TRAO NHẬN TRONG PHÁT NGÔN TIẾNG
VIỆT ............................................................................................................... 37
3.1. Khả năng hiện diện của các thành tố........................................................ 37
3.1.1. Khả năng hiện diện đầy đủ .................................................................... 38
3.1.2. Khả năng hiện diện không đầy đủ......................................................... 38
3.2. Khả năng hiện thực hóa của các thành tố trong vài trò chức vụ cú pháp 40
3.2.1. Chu tố .................................................................................................... 40
3.2.2. Diễn tố ................................................................................................... 42
3.2.3. Vị từ trung tâm ...................................................................................... 45
3.3. Tiểu kết..................................................................................................... 48
KẾT LUẬN .................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NGUỒN NGỮ LIỆU
PHỤ LỤC


QUY ƯỚC VIẾT TẮT

Viết tắt

Xin đọc là

1

BN

Bổ ngữ

2


CN

Chủ ngữ

3

CT

Chu tố

4

CTCP

Cấu trúc cú pháp

5

CTĐT

Cấu trúc Đề - thuyết

6

CTNBH

Cấu trúc nghĩa biểu hiện

7


Đ–T

Đề - thuyết

8

DT

Diễn tố

9

KN

Khởi ngữ

10

TC – TM

Tin cũ – Tin mới

11

TN

Trạng ngữ

12


VN

Vị ngữ

13

VNP

Vị ngữ phụ

14

VT

Vị từ

15

VTBDT

Vị từ ba diễn tố

16

VTN

Vị từ nhận

17


VTT

Vị từ trao

18

VTTN

Vị từ trao nhận

19

VTTT

Vị từ trung tâm

STT


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhà ngôn ngữ học B.Whorf đã từng nói: “Thực chất của ngôn ngữ là tìm
hiểu nghĩa” [12, tr.7]. Mà thực chất ngữ nghĩa của ngôn ngữ chính là mặt biểu hiện
của lời nói trong hiện thực giao tiếp. Thật vậy, ngôn ngữ là một vấn đề thu hút được
sự chú ý của rất nhiều tác giả. Đây là chủ đề khiến các nhà nghiên cứu mất rất nhiều
thời gian để đi sâu tìm hiểu tính chất bên trong và bên ngoài của ngôn ngữ thế giới
nói chung và ngôn ngữ Việt Nam nói riêng. Nếu như trước đây, câu chỉ được
nghiên cứu ở mặt cấu trúc ngữ pháp thì nay nó được tìm hiểu trên cả bình diện: ngữ
pháp – ngữ nghĩa – ngữ dụng. Trong những năm gần đây thì việc nghiên cứu câu
trên ba bình diện ngày càng được chú ý đầu tư. Nắm bắt xu thế đó, công trình

nghiên cứu lần này chúng tôi đặc biệt chú ý đến vị từ trao nhận trong tiếng Việt xét
trên ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
Phát ngôn chứa vị từ trao nhận xuất hiện khá nhiều trong đời sống. Đã có vô
vàn các cuộc tranh luận khác nhau về vị từ trao/nhận theo phương thức khác nhau ở
những đối tượng khác nhau, từ những hoạt động đơn giản với những vật dụng bình
thường đến những nghi thức trang trọng hay các phần thưởng cao quý. Thực tế đó
cho thấy vị từ trao/ nhận được phản ánh một cách sinh động trong ngôn ngữ qua
hàng loạt các vị từ khác nhau mà trong nghiên cứu này chúng tôi gọi chung là nhóm
vị từ trao/ nhận.
Vị từ trao nhận là vị từ vốn có cấu trúc phức tạp vì nó đòi hỏi ba diễn tố đi
kèm (người trao, người nhận, vật trao hoặc nhận). Khi đi vào phát ngôn, làm trung
tâm của phát ngôn sẽ tạo ra các phát ngôn có cấu trúc phức tạp đòi hỏi phân tích kĩ
lưỡng. Hơn nữa, việc nghiên cứu nhóm vị từ này rất nhiều điểm lí thú cả về cách
thức tri nhận, mô tả sự tình lẫn đặc điểm tâm lý, văn hóa, xã hội của mỗi cộng đồng
ngôn ngữ khi thực hiện hoặc diễn tả các cuộc trao/ nhận.
Trên thực tế thì đây cũng là nhóm vị từ có số lượng lớn. Nhóm vị từ trao nhận
cũng có sự chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình giao tiếp. Chức năng và vai
trò của một vị từ trong cấu trúc vị từ – tham thể đã được đề cập khá nhiều mang tính

1


phổ quát cao nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cụ thể về nhóm vị từ
trao nhận một cách cụ thể và thấu đáo.
Đồng thời, phát ngôn chứa vị từ trao nhận là vấn đề mà chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào tiếp cận. Chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu Phát
ngôn có vị từ trao nhận là một vấn đề cần được khai phá.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu: Phát ngôn có vị từ trao
nhận trong tiếng Việt làm đề tài cho khóa luận này.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu của câu trên ba bình diện
Câu là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Cách đây 2000 năm, Aristotle là
người đi tiên phong với các công trình nghiên cứu từ thời cổ đại. Trong những thập
kỉ cuối thế kỉ 20, ngôn ngữ học đã có chuyển biến rõ rệt với những cách nhận thức
khác nhau. Chuyên ngành này đã xem xét câu là kết quả của hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ và câu đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp giữa con người với
nhau. Do vậy, khác với ngôn ngữ truyền thống, ngôn ngữ học hiện đại đã nghiên
cứu câu trên cả ba bình diện (ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng). Đây là khuynh
hướng có đóng góp quan trọng với ngôn ngữ học hiện đại. Đồng nhất với quan điểm
của Cao Xuân Hạo cho rằng “Câu là đơn vị nhỏ nhất của ngôn từ trong đó có cả ba
bình diện đều được thể hiện” [4, tr.19).
2.2. Lịch sử nghiên cứu vị từ
Vị từ là một vấn đề quan trọng của ngôn ngôn ngữ học nói chung và ngữ pháp
chức năng nói riêng. Vị từ chiếm phần lớn trong cấu trúc và chức năng của câu nên
được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu. Vị từ là một thành tố gây được sự chú
ý cho các nhà ngôn ngữ trên thế giới cũng như Việt Nam. Tuy nhiên, việc nhìn nhận
về vị từ lại tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Đại biểu phải nhắc tới đầu tiên là L.Tesnière với cuốn Eléments de syntax
structural (Các yếu tố của cấu trúc cú pháp) (1969). Theo ông, vị từ chính là cái
yếu tố trung tâm, cốt lõi của bắt buộc cần có của câu. Xung quanh nó là các diễn tố
làm bổ ngữ, có nhiệm vụ bổ sung ý nghĩa, làm sáng rõ nội dung mà người viết

2


muốn đạt tới, và quyết định mặt lượng cũng như mặt chất của câu. Đồng thời nó
còn quy định đến cấu trúc cú pháp của câu. Ông từng phát biểu “cấu trúc cú pháp
xoay quanh vị từ và các diễn tố làm bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là một
trong các bổ ngữ đó” [4, tr.81 – 82]. Hơn nữa, chủ ngữ cũng được coi là một thành
phần nòng cốt trong câu. Theo tác giả, xét cho cùng thì bổ ngữ cũng nằm trong

thành phần bổ sung ý nghĩa cho vị từ.
Người kế tiếp L.Tesnière là C.J.Fillmore trong bài viết Tác dụng của cách
(1968), ông nhấn mạnh khi xem xét mối liên hệ giữa vị từ và tham tố, cho thấy
được một điều là vị từ là cốt lõi, là yếu tố trung tâm và các tham tố (tham thể) xoay
quanh sẽ thể hiện mặt nghĩa hay vai nghĩa trong hoàn cảnh cụ thể. Theo ông, vị từ
và tham thể là cái biểu thị nội dung sự tình của câu. Do vậy, C.J. Fillmore cũng
quan tâm đến vấn đề cấu trúc nghĩa của câu. Trong đó các tham tố như ông trình
bày gồm các vai nghĩa: tác thể, đối thể, thụ thể…đến các tác giả sau này đang không
ngừng hoàn thiện các vai nghĩa do ông đề ra.
Cuối cùng phải kể tới S.C.Dik là một nhà ngôn ngữ học đề cao trong cấu trúc
ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu. Theo ông, “các đơn vị có tính nội dung (đơn giản như
động từ, tính từ, danh từ) được xử lí theo những vị từ cở bản theo quy tắc của Bach
(1986)” [24, Tr.29]. Nhà nghiên cứu S.C.Dik cũng khẳng định vai trò của vị từ
trong cấu trúc câu (cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa). Cùng với hai tác giả
trên, S.C.Dik cũng cho rằng vị từ là trung tâm còn chủ ngữ, bổ ngữ là các vai nghĩa
được gán với tham tố của vị từ. Từ đó, ông đưa đánh giá về vai trò của vị từ trong
việc xác định thành phần câu, tức là lựa chọn CN và BN sẽ được mã hóa ở động từ
dưới dạng thức khác nhau (chủ động – bị động) với những lựa chọn của hai thành
phần này khác nhau đã được ấn định trước.
Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa của S.C.Dik đã đề ra gồm có kết cấu vị ngữ hạt
nhân và vị ngữ mở rộng. Kết cấu vị ngữ hạt nhân là trọng tâm, lại được chia thành
vị từ và các tham tố. Kết cấu vị ngữ mở rộng lại tạo nên từ vị ngữ hạt nhân cộng
thêm tham tố. Ông đưa ra nhận xét: vị từ là yếu tố quyết định đến đặc điểm tham tố
trong câu.

3


Trên đây là những trình bày cơ bản về tình hình nghiên cứu vị từ trên thế giới,
tại Việt Nam, phạm trù vị từ cũng được nghiên cứu từ rất sớm. Có thể kể đến đến

một số nghiên cứu của: Trương Vĩnh Ký (1883), Lê Văn Lý (xuất bản lần đầu 1968),
Nguyễn Kim Thản (1977), Nguyễn Thị Quy (2002), Cao Xuân Hạo,…Quan điểm
của các nhà nghiên cứu được kết tụ thành hai khuynh hướng chính:(1) coi vị từ là
một phạm trù từ loại và (2) coi vị từ là một phạm trù chức năng [20, tr.29]
Tiêu biểu cho khuynh hướng thứ nhất phải kể đến hai tác giả với công trình
Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam của Lê Văn Lý, chuyên luận Động từ trong tiếng Việt
của Nguyễn Kim Thản. Các tác giả này đều cho rằng vị từ là một phạm trù từ loại
được tạo bởi động từ và tính từ. Động từ và tính từ mang đặc điểm giống nhau và
cần phải phân biệt với danh từ.
Khuynh hướng thứ hai phải kể hai chuyên luận gần đây Kết trị của động từ
tiếng Việ của Nguyễn Văn Lộc. Nhưng đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này là
tác giả Cao Xuân Hạo, trong một bài viết của mình ông đã phê phán cách nhìn của
Châu Âu với tiếng Việt. Ông có sự phân biệt rõ ràng giữa khái niệm động từ và tính
từ để giúp cho những người Châu Âu có cách hiểu sâu sắc về ngôn ngữ dân tộc ta.
Theo ông, những đơn vị ngôn ngữ thường được gọi là tính từ và động từ xếp một
nhóm gọi là vị từ. Tiếp đến, Nguyễn Thị Quy có ảnh hưởng sâu sắc từ nghiên cứu
của người thầy Cao Xuân Hạo. Theo Nguyễn Thị Quy tác giả cũng đồng tình với
quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước cho rằng vị từ đều là sự cụ thể hóa của
động từ và tính từ. Như vậy, cả hai thầy trò Cao Xuân Hạo đều xem xét vị từ trên
phương diện chức năng tự mình làm thành một vị ngữ và trung tâm ngữ pháp.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên, có thể nhận thấy vị từ có vai trò
trên cả hai bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa. Đặc biệt, kết hợp của nó thông qua các
tiêu chí với mục đích rõ ràng. Bằng chứng cho thấy, đến nay chưa có công trình nào
phân tích, nghiên cứu sâu sắc theo hướng nghiên cứu này, điều quan trọng nó lại là
vị từ trao nhận. Do vậy, đây là dấu hỏi cho sự hoàn thiện ở những công trình nghiên
cứu sau này. Đó cũng là điều mà chúng tôi gửi gắm tới độc giả trong công trình
nghiên cứu lần này.

4



2.3. Lịch sử nghiên cứu vị từ trao nhận
Vị từ trao nhận là một trong các nhóm từ vựng cơ bản của ngôn ngữ. Chúng
nằm trong số những yếu tố ngôn ngữ dễ tiếp nhận và là tiền đề để hình thành nên
các đơn vị ngữ nghĩa khác. Là nhóm từ có số lượng tương đối nhiều trong tiếng
Viêt.
Chúng tôi xin điểm qua một số nghiên cứu về vị từ trao nhận của một số tác
giả như: Nguyễn Kim Thản (23), Trần Văn Thư (22), Lâm Quang Đông (13), Cao
Xuân Hạo,…Và gần đây nhất trong luận án của TS. Đỗ Thị Hiên, với công trình
“Phát ngôn có vị từ ba diễn tố trong tiếng Việt” tác giả đã tìm hiểu và đưa ra 8 loại
vị từ trong tiếng Việt và vị từ trao nhận là một tiểu loại nằm trong đó.
Trong Động từ trong tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản (1977) có đề cập tới động
từ phát nhận rồi ông tiếp tục chia chúng thành hai tiểu loại là : động từ ban phát và
động từ tiếp nhận. Tác giả dựa trên tính chất chi phối của động từ đưa ra các ví dụ
thử nghiệm và dạng cải biến của mỗi thành tố N1, N2. Tiếp đó, ông dựa trên đặc
điểm ngữ pháp của chúng mà làm rõ một điều rằng: cả hai nhóm động từ này đều
đòi hỏi có hai bổ ngữ đi kèm, theo công thức sau:
N1 – V – N2 – N3
Nếu như động từ trao đòi hỏi có hai danh từ: một là danh từ sự thay đổi về chủ
sở hữu (từ chủ sở hữu ban đầu sang chủ sở hữu mới) và một là biểu thị người tiếp
nhận đối tượng vừa nói trên. Đằng sau mỗi động từ ban phát ấy đi kèm với phó
động từ cho đặt trước N2, N3.
Đối với động từ nhận cũng mang đặc điểm ngữ pháp cơ bản giống với ban
phát, khác ở chỗ nó có sự xuất hiện của hư từ của. Đồng thời, cả hai loại này đều
đều có sự thay đổi trật tự giữa N2, N3 tùy thuộc vào yêu cầu tu từ học về nhịp điệu
của câu. Từ đó nhận thấy một điều là ông cũng tìm ra một số nhóm từ khác: đòi, đòi
hỏi, hạch sách… cũng có thể tạm xếp vào nhóm động từ tiếp nhận.
Điều này cho thấy nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản đã mở ra một bước đi
đầu tiên trong nghiên cứu các VTBDT nói chung và VTTN nói riêng. Mặc dù vậy
tác giả chỉ mới đề cập tới vị từ trao nhận ở động từ mà chưa xem xét ở tính từ. Cũng


5


như tác giả chưa đi nghiên cứu tới phân tích nội dung sâu bên trong của các động từ
ấy như thế nào. Trong đề tài này nghiên cứu này chúng tôi sẽ giúp tác giả phần nào
hoàn thiện cái ‘khung xương’ (hình thức) đã vẽ ra bằng lớp thịt đầy đủ hơn (nội
dung), tức làm rõ cả phần nội dung và hình thức cũng như mối quan hệ ngữ pháp và
ngữ nghĩa của chúng.
Đại diện thứ hai cho khuynh hướng này có thể kể đến tác giả luận văn Thạc sĩ
của Trần Văn Thư với công trình Vị từ ngữ trị ba trong tiếng Việt. Đây có thể coi là
người đi tiên phong trong tìm hiểu, khảo sát, phân tích, đánh giá và làm rõ các vị từ
ngữ trị ba (chúng tôi xin được gọi là VTBDT). Nhìn một cách tổng quát luận văn
của tác giả đã phát hiện ra 12 nhóm vị từ và lần lượt đi giải thích khái niệm, phân
loại và chứng minh bằng những ví dụ cụ thể tiêu biểu nhất cho mỗi loại. Cũng như
xem xét khả năng hiện thực hóa của vị từ ngữ trị ba trong câu, trong văn bản có đầy
đủ hay không từ đó đưa ra những nhận xét về tác dụng của các trường hợp này.
Đáng chú ý trong luận văn này là đề cập tới nhóm vị từ tiếp nhận và ban phát cũng
là một vấn đề liên quan mật thiết với đề tài nghiên cứu của chúng tôi Phát ngôn có
vị từ trao nhận trong tiếng Việt. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là luận án mà mang tính
khái quát khá cao, bên cạnh những đóng góp to lớn những cũng tồn tại những thiếu
xót mà hi vọng chúng tôi tiếp tục hoàn thiện những mảnh ghép mà luận văn trên
chưa đạt tới.
Thứ ba, đó là luận án Ngữ văn của TS.Đỗ Thị Hiên với đề tài Phát ngôn có vị
từ ba diễn tố trong tiếng Việt. Trong khóa luận này, tác giả đã đi sâu nghiên cứu,
phân tích, khảo sát và cụ thể hóa các phát ngôn trong tiếng Việt và chia các vị từ
thành 8 tiểu loại, vị từ trao nhận là một nhóm vị từ thuộc công trình nghiên cứu này.
Đây là nghiên cứu đi vào khái quát các phát ngôn có vị từ ba diễn tố nhưng chưa đi
sâu vào phân tích cụ thể trong phát ngôn có vị từ trao nhận. Là tiền đề quan trọng
đối với nghiên cứu của chúng tôi.

Ngoài ra phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên sâu về VTBDT đó là
chuyên luận Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với nhóm từ trao/tặng trong tiếng
Việt của Lâm Quang Đông (2008). Điều dễ nhận thấy nhất trong cuốn sách này là

6


tác giả đã đề cập tới một trong số rất nhiều vị từ ba diễn tố đó là nhóm vị từ
“trao/tặng”. Tác giả đã lần lượt đi tới phân tích các vai nghĩa và lớp nghĩa cũng như
đặc trưng của tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của vị từ trao/tặng. Ông cũng
xác định rõ một sự tình trao/ tặng đảm bảo đầy đủ các thành tố:” người trao/tặng,
người nhận và vật trao/tặng” [13, tr.104]. Mỗi sự tình sẽ tương ứng với mỗi ý nghĩa
nhất định. Những vai nghĩa đều được xem xét rõ ràng, phổ biến nhưng cũng có
trường hợp một tham thể có thể mang nhiều vai nghĩa như: tác thể, thụ thể, nghiệm
thể, đối thể, đích, tiếp thể, người tiếp nhận…Đồng thời, đưa ra ý kiến co rằng nhóm
vị từ này là nhóm tam tri (ba tham thể bắt buộc) và được gọi là vị từ tam trị với
nghĩa chúng có kết trị ba. Cũng như các lớp nghĩa được thể hiện ra sao trong từng
trường hợp cụ thể để từ đó thấy rõ được từng vai nghĩa ở những lớp nghĩa khác
nhau sẽ cho ta cách hiểu sâu sắc hơn về vị từ trao/tặng.
Một nét nổi bật nữa là ở chuyên luận này Lâm Quang Đông chú trọng làm nổi
bật được sự so sánh đối chiếu về mặt lí thuyết, phân tích ngữ liệu cụ thể cho thấy sự
khác biệt giữa ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, nhất là trong vị từ trao tặng.
Và so sánh giữa vị từ trao/tặng với số lượng tham thể ít hơn ba, nhiều hơn ba
và với một số vị từ khác như: mua, nhảy, đào. Đồng thời, cũng xác định danh giới
của Chu tố, Phi tham thể, Cảnh huống trong cấu trúc nghĩa biểu hiện không hoàn
toàn rõ ràng. Có thể thấy hướng nghiên cứu này là thấu đáo, thuyết phục. Trong
chuyên luận này tác giả chỉ mới tập trung diễn giải lí thuyết của nhóm vị từ
trao/tặng mà chưa đi sâu phân tích ngữ liệu thật rõ ràng, đây là tiền đề để chúng tôi
tiếp tục triển khai với nhóm từ nhận trong tiếng Việt.
Trong khóa luận, chúng tôi hướng tới đi sâu nghiên cứu một cách kĩ lưỡng

hơn những khía cạnh, góc độ, cách nhìn nhận cụ thể về vị từ trao nhận trong tiếng
Việt để giúp bạn đọc thấy được các giá trị bản chất cấu trúc của nó trong tiếng Việt
nói riêng và ngôn ngữ nói chung.

7


3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các vị tố trao nhận xét trên ba bình diện các ngữ pháp, ngữ nghĩa,
ngữ dụng để làm rõ đặc trưng của vị từ trao nhận trong tiếng Việt. Phân tích, chứng
minh đặc trưng thông qua ví dụ minh họa cụ thể.
- Bên cạnh đó cho thấy đặc trưng cấu trúc của phát ngôn có vị từ trao nhận trong
tiếng việt trong ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
4. Đối tương, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các phát ngôn có vị từ trao nhận trong
tiếng Việt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu được chúng tôi tập trung khảo sát trong giới hạn giai đoạn văn học
1930-1945 (lãng mạn và hiện thực) đã thu thập được hơn 500 ngữ liệu để phân tích,
chứng minh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của công trình nghiên cứu này được cụ thể hóa thành những
luận điểm sau:
- Làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài: khái niệm về ba bình diện câu,
khái niệm vị từ trao nhận, phát ngôn có vị từ trao nhận, cấu trúc ngữ pháp, cấu trúc
ngữ nghĩa, cấu trúc đề - thuyết, chu tố, diễn tố, vị từ trung tâm và cấu trúc thông tin.
- Thống kê, phân loại các phát ngôn có vị từ trao nhận trong tiếng Việt (các
phát ngôn có vị từ trao và vị từ nhận)
- Phân tích và mô tả đặc điểm ngữ pháp của nhóm vị từ trao nhận và vai trò

của vị từ trao nhận trong cấu trúc cú pháp.
- Phân tích và mô tả đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm vị từ trao nhận trong cấu
trúc vị từ – tham thể. Đặc biệt, xem xét, phân tích các vai nghĩa của các tham thể
trong cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm vị từ này.
- Phân tích khả năng hiện thực hóa cấu trúc ngữ nghĩa trong phát ngôn có vị từ
trao nhận. Từ đó rút ra kết luận về vai trò vận dụng của các vị từ trao nhận trong
quá trình hiện thực hóa ở lời nói.

8


6. Phương pháp nghiên cứu
- Thủ pháp phân tích miêu tả: phương pháp này sử dụng nhằm phân tích
những ngữ liệu mà chúng tôi thống kê để có thể hiểu được nhiều khía cạnh khác
nhau của vấn đề đồng thời giải thích, làm sáng tỏ chức năng của ba bình diện.
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: khi nghiên cứu các vị từ trao nhận chúng
tôi luôn đặt trong ngữ cảnh nhất định, trong đơn vị câu. Vì vậy chúng tôi sử dụng
phương pháp phân tích diễn ngôn làm sáng tỏ các chức năng của các từ vị tố trao
nhận trên ba bình diện.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như:
- Thủ pháp thống kê, phân loại: chúng tôi đã sử dụng trong quá trình thu thập
và xử lí các từ chưa vị từ trao nhận
- Thủ pháp so sánh đối chiếu: để làm nổi bật những nét tương đồng và khác
biệt của các từ chứa vị từ trao nhận.
7. Đóng góp khóa luận
- Về lí luận: khóa luận làm rõ lý thuyết về ba bình diện kết học, nghĩa học,
dụng học và các lý thuyết để thấy được chức năng của nhóm từ vị từ trao nhận xét
trên ba bình diện.
- Về thực tiễn: khóa luận nghiên cứu giúp cho bạn đọc có hình dung cụ thể về
chức năng của các từ chứa vị từ trao nhận có thể sử dụng các từ đó cho văn chương

cũng như đời sống hằng ngày.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
khóa luận được trình bài gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Ở chương này chúng tôi tập trung trình bày lí thuyết về ba bình diện kết học,
nghĩa học, dụng học và lý thuyết về câu và phát ngôn. Đó là cơ sở để chúng tôi khảo
sát phân loại ở chương 2.
Chương 2: Khái quát về vị từ trao nhận và phát ngôn có vị từ trao nhận trong
tiếng.

9


Trong phần này chúng tôi sẽ làm rõ khái niệm về vị từ trao nhận và phát ngôn
chứa vị từ trao nhận ở bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa.
Chương 3: Sự hiện thực hóa cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của vị từ trao
nhận trong phát ngôn tiếng Việt.
Với phần này chúng tôi sẽ phân tích để thấy được khả năng hiện diện và hiện
thực hóa của các phát ngôn có vị từ trao nhận.

10


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Lí thuyết ba bình diện nghiên cứu câu
Ngữ pháp hình thức, dường như chỉ quan tâm đến mặt hình thức cũng như các
đơn vị ngôn ngữ của câu. Mục đích cuối cùng của câu là giúp con người có thể trao

đổi, giao tiếp với nhau, câu đi vào thực tế sử dụng sẽ như thế nào chứ không phải
chỉ trên lí thuyết. Từ những hạn chế trên, ngữ pháp chức năng, đúng như tên gọi của
nó, đã khắc phục được tình trạng này, đó là xem xét ngôn ngữ trên ba bình diện ngữ
pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Điều này được minh họa trong lý thuyết tín hiệu học
của Ch.W. Morris (1938) từng đưa ra:
Kết học: nghiên cứu về mặt hình thức bên ngoài và quan hệ của các tín hiệu.
Nghĩa học: nghiên cứu hình thức và nội dung tín hiệu mà chúng biểu thị.
Dụng học: tìm hiểu cách sử dụng của tín hiệu
Kế thừa quan điểm này mà các nhà nghiên cứu sau này đã thống nhất và xem
xét câu trên ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Do vậy, họ cho rằng
ngôn ngữ học là một hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ.
1.1.1. Bình diện kết học (ngữ pháp)
1.1.1.1. Các thành phần câu
Thành phần trong câu là một đặc trưng nổi bật của bình diện kết học. Việc tìm
hiểu các thành phần câu (khái niệm, tiêu chí xác định thành phần câu) đã được
nghiên cứu từ lâu, song mỗi thành phần sẽ tương ứng với chức năng ngữ pháp riêng
cho mình. Mặc dù đã có rất nhiều kiến giải nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
nhưng các tác giả vẫn chưa có đáp án thống nhất về khái niệm và liệt kê các thành
phần câu theo tiêu chí cụ thể nào cả. Theo quan niệm thuần túy, trong tiếng Việt bao
gồm các thành phần: thành phần chính, thành phần phụ của câu, thành phần phụ
của từ và thành phần biệt lập. Tuy nhiên, chúng tôi đồng tình với ý kiến của hai nhà
nghiên cứu Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp cho rằng là thành phần câu
là những từ bắt buộc phải có trong câu để đảm bảo tính trọn vẹn về nghĩa của câu.

11


Tức là sẽ không có đầy đủ bốn thành phần trên của câu nói trên. Tiếp theo, để phân
loại câu trong tiếng Việt một cách cụ thể, chi tiết chúng tôi xin chia thành bốn kiểu
sau:

- Thành phần chính của câu: là những thành phần bắt buộc không thể thiếu
trong câu. Đó là chủ ngữ và vị ngữ. Chủ ngữ bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng
nhất. Vị ngữ có chức năng giải thích ý nghĩa cụ thể cho câu.
- Thành phần phụ của câu: trạng ngữ, vị ngữ phụ, khởi ngữ.
- Thành phần phụ của từ: là bổ sung ý nghĩa cho thực từ (danh từ, động từ hay
tính từ)
- Thành phần biệt lập: hô ngữ, liên ngữ..,
1.1.1.2. Các kiểu cấu tạo câu
Bên cạnh việc nghiên cứu thành phần câu, kết học còn đi sâu nghiên cứu các
kiểu cấu tạo câu. Như đã trình bày ở trên, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều dựa
tiêu chí cấu trúc C – V nòng cốt để đưa ra căn cứ phân biệt các kiểu câu và bao gồm
ba kiểu câu chính: câu đơn, câu phức và câu ghép.
-

Câu đơn được cấu tạo bởi hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ làm
nòng cốt trong câu đơn thường

-

Câu ghép là câu có hai thành phần C – V nòng cốt trở lên. Trong đó, mỗi
nòng cốt độc lập tạo nên vế câu riêng nhưng lại có sự liên kết với nhau để
tạo nên một cấu trúc câu trọn vẹn.

-

Câu phức: cũng có hai thành phần C – V nòng cốt trở lên nhưng có một vế
làm nòng cốt chính trong câu và vế còn lại có đảm nhiệm vai trò làm thành
phần câu, bổ sung làm rõ ý nghĩa câu.

Xung quanh những cách phân chia trên còn tồn tại những luồng ý kiến khác

nhau: coi chúng là câu ghép vì có hai kết cấu C – V, coi chúng là câu đơn vì mặc dù
có hai kết cấu C – V nhưng chỉ có một vế đảm nhiệm vai trò nòng cốt. Sự phân chia
trên cũng giống với sự phân chia của thành phần câu, tưởng chừng đã rạch ròi, rõ
ràng nhưng lại là vấn đề gây nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu.

12


Quan điểm của chúng tôi thống nhất chia theo kết cấu C – V và do vậy trong
khóa luận này, nếu một kết cấu C – V là câu đơn thường, có hai kết cấu C – V nằm
ngoài nhau, độc lập là câu ghép và trường hợp còn lại sẽ là câu phức nếu: một vế
làm nòng cốt và vế còn lại đảm nhiệm là bất kì thành phần nào trong câu.
Bình diện kết học đóng vai trò là hình thức trong câu nên khi đi vào phân tích
ngữ liệu của từng phát ngôn thì đây là một căn cứ để chúng tôi xác định đúng các
thành phần trong vị từ trao nhận. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp tới quá trình
nghiên cứu của chúng tôi.
1.1.2. Bình diện nghĩa học (ngữ nghĩa)
1.1.2.1. Nghĩa sự việc
Nghĩa miêu tả của câu (hay nghĩa sự việc, nghĩa biểu hiện, nghĩa mệnh đề)
Là phản ánh sự việc, hiện tượng, sự vật, hành động, trạng thái,..ngoài thực tế
khách quan. Mỗi câu thường ứng với một sự việc. Nội dung phản ánh hiện thực
được gọi là sự việc (sự tình). Các sự tình lại được chia thành hai phần: nội dung và
các nhân tố tham gia vào sự tình (còn gọi là tham tố). Hay nói cách khác, câu là đơn
vị ngôn ngữ nhỏ nhất để thể hiện chức năng truyền đạt thông tin. Cụ thể hơn, khi
giao tiếp người nói bao giờ cũng gửi gắm vào trong đó một thông tin thuộc về sự
vật, hiện tượng diễn ra trong hiện thực khách quan tới người nghe nhằm mục đích
cụ thể nào đó. Mỗi câu thường đề cập tới một sự tình. Sự tình ấy có thể thuộc về
vấn đề tự nhiên, xã hội, con người cũng có thể liên quan đến vật chất và tinh thần.
Các yếu tố tạo nên một sự tình gồm cái cốt lõi của sự tình được cụ thể hóa thành vị
từ trung tâm, yếu tố tham gia xoay quanh vị từ đó là tham thể. Tóm lại, vấn đề cần

tập trung làm rõ là thuật ngữ: vị từ, tham thể.
a. Vị từ
Vị từ là cái trung tâm cốt lõi của sự tình. Chúng ta không nên có sự nhầm lẫn
giữa nghĩa học của tín hiệu học với nghĩa học thông thường. Bởi nghĩa học của tín
hiệu học quan tâm tới những nội dung khá mơ hồ tuân theo quy tắc đúng, sai của
logic. Còn đối với nghĩa học thường thì chỉ quan tâm, căn cứ tới nội dung miêu tả
của câu thì mới có thể kết luận là nó đúng hay sai. Về bình diện này được chia

13


thành hai bộ phận: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Chúng có liên hệ chặt chẽ với
nhau.
b. Tham thể (tham tố)
Nếu vị từ là yếu tố trung tâm thì tham thể chính là phần xung quanh, bao
quanh vị từ trung tâm ấy. Để biểu thị một nội dung trọn vẹn, vị từ cần các tham thể
xoay quanh, mỗi tham thể tương ứng với một chức năng ngữ pháp cụ thể. Căn cứ
vào chức năng ngữ pháp mà tham thể được chia thành hai loại: diễn tố và chu tố.
Diễn tố là những thực thể xoay quanh vị từ mà sự có mặt của chúng là do vị từ đòi
hỏi. Ngược lại, Chu tố là những yếu tố xuất hiện trong sự tình nhưng sự có mặt của
nó là do hoàn cảnh, tình huống quy định chứ không phải do VT bắt buộc đòi hỏi.
Chúng thường biểu thị ý nghĩa về thời gian, địa điểm, nguyên nhân…
Như vậy, nghĩa miêu tả là vấn đề trực tiếp liên quan đến nghiên cứu của chúng
tôi. Vai nghĩa, cũng có những quan điểm khác nhau. Cho nên việc diễn đạt ý nghĩa
của từng phát ngôn cũng sẽ khác nhau.
1.1.2.2. Nghĩa tình thái của câu
Đây là thành phần nghĩa đóng vai trò quan trọng không kém so với nghĩa miêu
tả. Là thành phần nghĩa luôn tồn tại trong câu như Cao Xuân Hạo từng khẳng
định:“nội dung của bất kỳ phát ngôn nào cũng chứa đựng nghĩa tình thái” [12,
tr.98]. Đó là phần nghĩa trên nhiều phương diện, được đề cập ở phương diện: bày tỏ

thái độ, quan hệ của người nói đối với người nghe hay sự đánh giá của người nói
với hiện thực nhắc tới trong câu. Theo ngôn ngữ học hiện nay chia thành hai loại:
tình thái từ của hành động phát ngôn và tình thái từ của lời phát ngôn.
+ Tình thái từ của hành động phát ngôn: là nghĩa tình thái mà thông qua hành
động nói, người nói thể hiện ý định, mục đích, thái độ đối với nội dung câu. Phát
ngôn nào cũng hướng tới một mục đích nhất định..
+ Tình thái từ của lời phát ngôn: biểu thị thái độ, cách đánh giá của người nói
đối với người nghe và được phân chia thành hai loại: tình thái khách quan và tình
thái từ chủ quan.

14


Tóm lại, cả hai thành phần nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái là hai thành phần
tạo nên ngữ nghĩa của câu. Nhưng trong khóa luận này, chúng tôi chỉ xin xem xét
phát ngôn dưới cấu trúc nghĩa miêu tả của các VTTN (Vị từ trao nhận) để từ đó
thấy được khả năng hiện thực hóa ở bình diện ngữ dụng.
1.1.3. Bình diện dụng học
Bình diện ngữ dụng là bình diện nghiên cứu mối quan hệ giữa câu với người
sử dụng, giữa câu với việc sử dụng câu trong một tình huống giao tiếp cụ thể nhằm
phát hiện ra những ý nghĩa mới tiềm ẩn trong câu. Ở bình diện này, câu không còn
hiện hữu ở trạng thái đứng yên mà chuyển sang trạng thái chuyển động vì câu bao
giờ cũng gắn với thực tiễn.
Ngoài nghĩa sự việc và nghĩa tình thái còn một phần liên quan đến tình huống
sử dụng hay còn gọi là ngữ dụng học. Đồng thời, ngữ dụng học quan tâm đến nhiều
vấn đề như: khái niệm, cấu trúc đề – thuyết, cấu trúc tin, sự hiện thực hóa cấu trúc
ngữ nghĩa trong phát ngôn… nhưng trong phạm vị khóa luận này, chúng tôi xin
trình bày: cấu trúc đề – thuyết và cấu trúc tin bởi nó liên quan mật thiết tới khóa
luận này.
1.1.3.1. Cấu trúc đề – thuyết

a. Quan niệm về cấu trúc đề – thuyết
Hiện nay có hai quan điểm về vấn đề này, đi tiên phong cho quan niệm này là
Cao Xuân Hạo. Ông đã áp dụng một cách triệt để cấu trúc này trong công trình
Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng (1991). Trong đó cấu trúc đề và thuyết
được hiểu: đề là điểm khởi đầu, là cơ sở, là tiền đề cho triển khai nội dung câu ở
phần thuyết.
Nhưng các nhà Việt ngữ học lại có quan điểm khác, cho rằng cấu trúc đề –
thuyết là cấu trúc thông báo trên câu. Cấu trúc này tồn tại song song cùng với cấu
trúc chủ vị trong câu vì thuộc hai bình diện khác nhau. Đây cũng là vấn đề mà
chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu để làm rõ được vai trò, vị trí, chức năng và sự
hiện thực hóa cụ các vị từ trao nhận trong từng hoàn cảnh cụ thể.
b. Các thành phần trong cấu trúc đề - thuyết

15


Thành phần chủ yếu chính là phần đề và thuyết
- Phần đề (Đ): tức sự vật, hiện tượng là cái mà cả người nghe và người nói đã
biết trong câu.
- Phần thuyết (T): là sự giải thuyết cho cái được nhắc đến ở phần đề
Ngoài ra, cấu trúc đề – thuyết còn có các thành phần khác: khung đề và minh
xác ngữ.
- Khung đề: là những thành phần biểu thị ý nghĩa về thời gian, tình huống,
thường đứng trước cấu trúc đề – thuyết.
- Minh xác ngữ: là thành phần phụ đứng trước nòng cốt câu.
c. Phân loại
Theo tác giả Trần Kim Phượng [21] câú trúc Đ – T gồm năm tiêu chí để xác
định, dựa vào đó mà chúng tôi có thể xác định một cách chính xác các phát ngôn có
vị từ trao nhận. Cụ thể:
- Tiêu chí về phương tiện: dựa vào các hư từ thì, là, mà. Thì đánh dấu phần đề,

là đánh dấu phần thuyết mà nằm ranh giới Đ – T, mà lại nằm giữa ranh giới Đ – T.
- Tiêu chí về ý nghĩa chức năng (nội dung): Nếu như Đ nêu ra đối tượng thì
phần T nêu lên nội dung về đối tượng đó.
- Tiêu chí về vị trí: căn cứ này dễ nhận biết nhất, phần Đ đứng trước và T
đứng sau, ít khi thay đổi cho nhau.
- Tiêu chí về từ loại: Do biểu thị sự vật, hiện tượng nên phần Đ bao giờ cũng
biểu hiện bằng danh từ, cụm danh từ hay đại từ.
- Tiêu chí lược bỏ: cấu trúc Đ – T là thành phần không thể lược bỏ giống như
cấu trúc chủ vị, còn những phần khác như khung đề, minh xác ngữ có thể bỏ được.
1.1.3.2. Cấu trúc thông tin
a. Quan niệm về cấu trúc thông tin
Về cấu trúc này, phải nhắc đến V. Mathesius là người đầu tiên dề xuất lí
thuyết phân đoạn thực tại. Theo ông, phân đoạn thực tại trong câu tức là việc phân
tích lời nói hay phát ngôn đều dựa trên nguyên lí thông tin, đánh giá vai trò của các
thành tố cấu tạo nên tổng thể của câu.

16


Trong câu, bình diện ngữ dụng là phức tạp hơn hẳn so với hai bình diện còn
lại. Ở hai bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa đều tồn tại những phát ngôn ngay cả khi
nó thuộc trường hợp biệt lập, tách khỏi hoàn cảnh giao tiếp. Đó là nghĩa, còn về cấu
trúc thông tin lại gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh giao tiếp. Do vậy, muốn nắm được
nội dung câu cần gắn cấu trúc thông tin ở hoàn cảnh cụ thể. Từ những lí thuyết trên
chúng tôi thấy rằng cấu trúc thông tin gồm có: thành phần tin cũ và thành phần tin
mới.
b. Các thành phần cấu trúc thông tin
Về tên gọi các thành phần của cấu trúc thông tin có rất nhiều tác giả đưa ra
nhiều cách gọi khác nhau: Nguyễn Minh Thuyết, Cao Xuân Hạo, Trần Ngọc
Thêm…cùng một số tác giả khác nhưng trong nghiên cứu lần này chúng tôi xin

được sử dụng thuật ngữ: tin cũ (TC) và tin mới (TM).
- TC là thành phần thông tin mà người nói và người nghe đã biết từ trước.
- TM là phần thông tin mà lần đầu tiên đưa vào trong cuộc giao tiếp tại một
thời điểm nói. TM thường mang nội dung thông tin quan trọng, trọng tâm mà người
nói muốn diễn đạt.
c. Tiêu chí xác định TC – TM
Chúng tôi dựa trên nghiên cứu của Trần Kim Phượng [21] để xác định theo
bốn tiêu chí sau:
- Căn cứ về ý nghĩa chức năng: nếu TC là khởi đầu của thông báo, là cái mà
người nghe và người nói đã biết thì TM là trọng tâm, cái mà người nói muốn nhấn
mạnh ở TC.
- Căn cứ vào vai trò cú pháp: theo cấu trúc tin là thành phần không thể thiếu
và chúng đảm nhiệm vai trò không thể thiếu trong câu.
- Căn cứ vào vị trí: theo vị trí thông thường TC – TM, tức là TC đứng trước,
TM đứng sau, trường hợp ngược lại là rất ít.
- Dấu hiệu hình thức: thông qua các từ ngữ phân chia giữa TC vàTM: hư từ,
ngữ điệu, khả năng lược bỏ,..

17


Như vậy, trên bình diện ngữ dụng học là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu
của chúng tôi. Dựa trên cấu trúc Đ – T và cấu trúc thông tin giúp ích trực tiếp cho
việc xác định, phân tích câu một cách cụ thể hơn ở bình diện này. Bởi đây là vấn đề
mà ít người chú ý đến khai thác. Chúng tôi sẽ đi sâu phân tích các phát ngôn để thấy
rõ được vai trò và chức năng của các thành phần trên.
1.2. Câu và phát ngôn
Trong lịch sử ngôn ngữ, đặc biệt là những năm cuối thế kỉ XX, ngôn ngữ học
đã có nhiều chuyển biến tích cực đáng chú ý là câu. Từ đó đến nay, câu đã được
điều chỉnh để phù hợp với thời đại, ngày càng xuất hiện nhiều trường phái, khuynh

hướng nghiên cứu về câu trên nhiều phương diện khác nhau để cho chúng ta một
định nghĩa đầy đủ nhất: “Câu là đơn vị ngôn ngữ không có sẵn, dùng để biểu thị sự
tình, được tạo nên từ các đơn vị nhỏ hơn theo những quy tắc ngữ pháp nhất định, có
dấu hiệu hình thức riêng, được sử dụng trong giao tiếp nhằm thực hiện một hành
động nói”. [1, tr.93]
Dưới ảnh hưởng của học thuyết ngữ pháp chức năng thì câu cần được quan
tâm tren cả ba bình diện. Bên cạnh đó khi xem xét ngôn ngữ trên ba bình diện: ngữ
pháp – ngữ nghĩa – ngữ dụng sẽ đem đến những điều mới mẻ về ý nghĩa câu. Điều
đó dẫn tới bên cạnh khái niệm về câu cũng xuất hiện thuật ngữ về phát ngôn.
Câu và phát ngôn không phải là hai đơn vị ngôn ngữ khác nhau mà cùng một
cấp độ nhưng được nhìn nhận ở hai khía cạnh khác nhau. Câu không phải là sự phân
bậc giữa âm vị và hình vị, từ với câu mà câu được cấu tạo từ sự kết hợp các đơn vị
nhỏ hơn còn phát ngôn thì hình thành từ hoạt động hành chức của ngôn ngữ. Câu
thiên về hình thức mang tính trừu tượng khó hiểu, khái quát còn phát ngôn tồn
nhiều trong hoạt động giao tiếp là sự hiện thực hóa của câu giúp người tiếp nhận dễ
dàng hiểu hơn. Phát ngôn mang nội dung ý nghĩa cụ thể, muốn hiểu được phát ngôn
cần trả lời câu hỏi: Phát ngôn nói cho ai? Nói trong hoàn cảnh nói ra? Nhằm mục
đích gì? Phát ngôn luôn thể hiện một nội dung và mục đích rõ ràng với lời nói trực
tiếp hoặc gián tiếp, ngoài nghĩa tường minh (nghĩa đen) phát ngôn còn mang nghĩa
hàm ẩn (nghĩa bóng). Trong phát ngôn có sự phân bố nội dung tương thích với từng

18


×