Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luận văn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.82 KB, 99 trang )

MỤC LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và một trong những
vấn đề được nêu ra đó là: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội đã khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Có thể khẳng định: Định hướng xã hội chủ
nghĩa là một chủ đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, giữ vai trò chỉ
dẫn và chi phối các hoạt động tư tưởng, lý luận và thực tiễn, được toàn Đảng
toàn dân hết sức quan tâm.
Trong tình hình hiện nay, khi công cuộc đổi mới ở Việt Nam đang diễn
ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, đang đứng trước những
thời cơ và vận hội to lớn cũng như những thách thức và nguy cơ không thể
xem thường thì vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng giữ vai trò
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với thực tiễn hôm nay và tương lai mai
sau của đất nước. Trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng cũng đã
xác định nội dung đầu tiên của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chính là “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường”.
Việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa chính là một nguyên tắc
của công cuộc đổi mới, thành công hay thất bại của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay phụ thuộc vào việc có giữ vững được định hướng đó hay
không. Trong Văn kiện của Đảng tại Đại hội lần thứ VII,VIII cũng đã đề cập
đến bốn nguy cơ, thách thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở




2

nước ta, trong đó “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” có thể coi là nguy cơ lớn
nhất. Bởi vậy việc nghiên cứu “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
vừa cơ bản-vừa cấp thiết.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, vai trò của Nhà nước
nói riêng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học ở nhiều cấp, nhiều ngành. Cho đến nay, đã có nhiều công
trình nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học cũng như công trình nghiên
cứu tập thể các vấn đề nói trên dưới nhiều góc độ khác nhau như:
-Một số chương trình, đề tài thuộc các chương trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nước như: Chương trình KX01 “Những vấn đề lý luận về chủ
nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” do giáo sư
tiến sĩ Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm. Hay một số cuốn sách chuyên khảo:
- Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Một số vấn đề lý luận cấp
bách của Trần Xuân Trường.
- Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của tác giả
Nguyễn Đức Bách, Nhị Lê, Lê Văn Yên.
- Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam của tác giả
Lê Đăng Doanh.
- Kinh tế Việt Nam trước thế kỷ XXI, cơ hội và thách thức của Nguyễn
Minh Tú.
- Đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta
của các tác giả Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao.
Hoặc một số luận án PTS, ThS. gần đây cũng đề cập và nghiên cứu đến
vấn đề này như:



3

- Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nội dung cơ bản và những
điều kiện chủ yếu để thực hiện của Nguyễn Văn Oanh.
- Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kiến trúc thượng tầng chính
trị đối với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
hiện nay của Huỳnh Thanh Minh...
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu được công bố trên nhiều tạp
chí, thông tin chuyên đề:
- Hội thảo “Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”
đăng trên Tạp chí Cộng sản từ số 4 tháng 2/1996 đến số 7 tháng 4/1996.
- Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa của Bùi Ngọc
Chưởng, Tạp chí Cộng sản tháng 6/1995.
- Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của
Nguyễn Tiến Phồn, Tạp chí Triết học số 3/1995.
- Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới
chính sách xã hội của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học số 3/1996.
- Quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
của TS Trần Hải Minh đăng trên Tạp chí lý luận truyền thông số tháng
10/2013.
Mặc dù các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết đã đề cập khá nhiều
đến các khía cạnh khác nhau có liên quan trực tiếp đến chủ đề: định hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, song chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học về việc “Giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay”. Luận văn của tôi muốn đi sâu, nghiên cứu và làm rõ hơn vấn đề này
dưới góc độ triết học và chỉ rõ thực trạng và giải pháp của vấn đề.



4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận chung về kinh tế thị trường và giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
+ Làm rõ thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và đề xuất một
số giải pháp nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận, phương pháp luận. Luận văn còn dựa
trên cơ sở lý luận là các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, kết quả
các công trình nghiên cứu có liên quan. Luận văn sử dụng chủ yếu các
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đặc biệt là các phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp
thống nhất giữa lôgíc và lịch sử,...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn của nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: từ những năm 80 của thế kỷ XX
6. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Góp phần nêu ra một số giải pháp nhằm giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.


5

7. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả đạt được trong luận văn sẽ góp phần nâng cao chất
lượng nghiên cứu và giảng dạy môn triết học Mác - Lênin, có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho môn kinh tế chính trị học và một số môn khác trong phạm
vi liên quan đến đề tài.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 2 chương, 4 tiết.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
(tháng 1-2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011- 2020 được
Đại hội XI thông qua, nhất quán với các kì đại hội trước, tiếp tục khẳng định
mô hình kinh tế nước ta trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng xác định đây là giai đoạn đổi mới và
hội nhập sâu sắc, toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Có thể thấy
rằng, hai nhiệm vụ xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ khăng khít và làm điều kiện
cho nhau. Trong đó phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là vấn đề cốt lõi của đường lối cách mạng nước ta, có ý nghĩa quyết định đến

con đường phát triển và tương lai các dân tộc trong thế kỉ mới - một thế kỉ dự
báo sẽ có những biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt khoa học công nghệ, thể
chế kinh tế xã hội và mối liên hệ toàn cầu theo hướng vừa hợp tác vừa cạnh
tranh quyết liệt. Tình hình đó đang đặt dân tộc trước những cơ hội và thách
thức to lớn về hội nhập và phát triển. Điều chủ yếu chúng ta phải chuẩn bị là
trang bị tốt tiềm lực trí tuệ, chính sách và thể chế, lựa chọn thành công một
chiến lược rút ngắn và mô hình phát triển phù hợp, vừa năng động vừa hiệu
quả, dựa trên cơ sở phát huy nội lực với thu hút ngoại lực, giữa kế thừa các
giá trị dân tộc và tiếp thu tinh hoa thời đại.
Tuy nhiên cho đến nay nhận thức về mô hình kinh tế tổng quát nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn có những điểm chưa nhất
trí, cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Điều này đôi khi gây ra mơ hồ về


7

nhận thức, tư tưởng, cũng như thiếu nhất quán trong hành động nhất là trong
việc hoạch định và thực hiện các chủ trương quyết sách kinh tế. Thậm chí
không hiếm trường hợp thiếu niềm tin vào Đảng cộng sản và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, hoặc tin tưởng một cách giáo điều, dẫn tới tình trạng “trống
đánh xuôi kèn thổi ngược”... Ví dụ nói phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn có tư tưởng muốn níu giữ bao cấp cho
doanh nghiệp nhà nước trong khi lại tìm cách hạn chế sự phát triển của khu
vực tư nhân. Thậm chí một số hiện tượng khuyết điểm chủ quan và tệ tham
nhũng đang có cơ hội bùng phát do buông lỏng kỉ cương và xử lý không
nghiêm. Có lập luận cho rằng kinh tế thị trường không nhất thiết phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, rằng kinh
tế thị trường và chủ nghĩa xã hội như nước với lửa, gắn kinh tế thị trường với
chủ nghĩa xã hội là võ đoán, dường như chúng ta muốn đi theo “con đường
riêng” không hội nhập với thế giới.

Để góp phần giải quyết những vướng mắc trong lý luận và thực tiễn
trên đây cần phải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tính tất yếu, quy luật vận hành và nội dung của
nó trong điều kiện Việt Nam và bối cảnh thế giới ngày nay.
1.1. Bản chất việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Lịch sử của xã hội loài người trước hết là lịch sử của sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, đồng thời
cũng là quá trình thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất. Trong đó
kinh tế thị trường ra đời và tồn tại dựa trên yêu cầu tất yếu của lịch sử. Bất kỳ
xã hội nào muốn tồn tại và phát triển cần phải có một tổ chức kinh tế - xã hội,
đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa.


8

Kinh tế tự nhiên là hình thức kinh tế đầu tiên của xã hội loài người,
trong đó sản phẩm được sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người
sản xuất trong một đơn vị kinh tế nhất định, người sản xuất quyết định về số
lượng, chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của mình, gắn với điều kiện tự nhiên
và phong tục tập quán cổ truyền, trình độ phân công lao động, công cụ lao
động, phương thức tổ chức sản xuất còn rất thấp và giản đơn, sản xuất mang
tính tự cấp, tự túc, khép kín từng vùng, địa phương, lãnh thổ. Nền kinh tế tự
nhiên chủ yếu tồn tại trong xã hội như công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến.
Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, kế tiếp của kinh tế tự nhiên
trên cơ sở phát triển của phân công lao động xã hội và tách biệt về kinh tế của
những người sản xuất. Kinh tế hàng hóa là hình thức kinh tế trong đó con
người sản xuất sản phẩm không phải là để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của

mình, mà là nhằm trao đổi buôn bán trên thị trường. Vì vậy số lượng và chủng
loại sản phẩm đều do người mua quyết định, việc phân phối sản phẩm được
thực hiện thông qua quan hệ trao đổi (mua bán) trên thị trường.
Kinh tế hàng hóa ra đời rất sớm vào thời kì tan rã của chế độ công xã
nguyên thủy, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất mà hình thức đầu tiên
của nó là kinh tế hàng hóa giản đơn. Đó là kiểu sản xuất do những người nông
dân, thợ thủ công tiến hành trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức
lao động của chính bản thân người sản xuất, họ trực tiếp trao đổi sản phẩm
với nhau trên thị trường. Khi quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển mạnh, đặc
biệt là trong thời kỳ tan rã phương thức sản xuất phong kiến và quá độ sang
chủ nghĩa tư bản kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hóa
tư bản chủ nghĩa. Kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa là hình thức sản xuất
hàng hóa cao nhất, phổ biến nhất trong lịch sử dựa trên sự tách rời tư liệu sản
xuất với sức lao động. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa là


9

dựa trên cơ sở chế độ sử hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và
bóc lột lao động làm thuê. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trải qua hai giai đoạn:
kinh tế thị trường tự do (cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp (hiện đại).
Như vậy, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho kinh tế hàng
hóa giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh
tế thị trường một cách triệt để.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là đồng nhất kinh tế thị trường với
chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường phát triển cao dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội
xã hội chủ nghĩa khác hẳn với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tiêu chí nói
lên sự khác biệt giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa
chủ yếu là mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Kinh tế thị trường tư bản chủ

nghĩa là nền kinh tế thị trường lớn có quan hệ giữa người lao động làm thuê
và người thuê lao động, do đó dẫn đến tình trạng bất công, còn kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó phải thực hiện và đảm bảo
được công bằng xã hội. Thực tế hiện nay trên thế giới chưa có nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa một cách hoàn chỉnh do chưa thực hiện được mục
tiêu công bằng xã hội.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: sản
xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển
của nền văn mình nhân loại, tồn tại khách quan và cần thiết cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy kinh tế thị
trường không phải là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà ngược lại
nó đã có ở nhiều chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Sự ra đời kinh tế tư
bản chủ nghĩa chỉ đẩy kinh tế thị trường lên một giai đoạn phát triển cao hơn
về chất, về cả quy mô, tính chất, mức độ bao quát của nó. Tiếp tục xu hướng


10

tất yếu đó, nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội nói chung và thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nói riêng là một sự phát triển mang tính phủ định biện chứng
đối với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đấy ra đời nền kinh tế thị
trường mới về chất. Nếu trong chế độ tư bản, kinh tế thị trường đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong
chủ nghĩa xã hội nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước vô
sản nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải
phóng con người, vì con người.
Như vậy, kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế
hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều
thông qua thị trường. Kinh tế thị trường chỉ có thể được xác lập và phát triển

trên cơ sở đảm bảo những điều kiện sau: Thứ nhất, phải tồn tại nền kinh tế
hàng hóa. Việc đẩy mạnh phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm được coi là điều kiện
tiên quyết để phát triển kinh tế thị trường.Thứ hai, phải dựa trên cơ sở tự do
kinh tế, tự do sản xuất, tự do kinh doanh. Đây là điều kiện hết sức cần thiết
cho quá trình giải phóng sức lao động và điều hòa lợi ích giữa người mua và
người bán, đồng thời giúp cho thị trường tuân theo các quy luật kinh tế trong
sản xuất và lưu thông hàng hóa.Thứ ba, nền kinh tế phải đạt đến một tình độ
phát triển nhất định được thể hiện ở sự phát triển các ngành kinh tế thuộc hệ
thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cùng với hệ thống tiền tệ, phương
tiện để lưu thông hàng hóa.
Trong lịch sử thế giới, kinh tế thị trường xuất hiện như một tất yếu gắn
với sự tồn tại của mọi quốc gia, là con đường dẫn đến giàu có, văn minh.
Thực tế, nền kinh tế thị trường trên thế giới cho chúng ta thấy, các nước khác
nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội, phong tục tập quán và truyền thống
không giống nhau nên cùng một mô hình kinh tế thị trường nhưng các thể chế


11

kinh tế sẽ khác nhau. Chẳng hạn: ở Mỹ là kinh tế thị trường tự do, Công hòa
Liên bang Đức là kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường kiểu Thụy Điển,
ở Nhật kinh tế thị trường cộng đồng, kinh tế thị trường chủ nghĩa xã hội mang
màu sắc Trung Quốc, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam... Như vậy, không có một nền kinh tế thị trường nào là bản sao của nền
kinh tế thị trường khác, mỗi nước cần phải tìm ra cho mình một thể chế kinh
tế thị trường thích hợp, một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định
hướng nền kinh tế đến mục tiêu mong muốn, trên cơ sở tôn trọng các quy luật
khách quan của kinh tế thị trường.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều quốc gia phát triển đất nước theo con

đường xã hội chủ nghĩa như: Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba, Việt Nam...
nhưng mỗi nước lại lựa chọn cho mình một thể chế kinh tế không hoàn toàn
giống nhau. Chẳng hạn Trung Quốc đang xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm “Bản chất xã hội chủ nghĩa là giải
phóng sức sản xuất, phát triển sức sản xuất, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa
hai cực, cuối cùng đạt đến sự giàu có” [40,32]. Việt Nam định hướng về mục
tiêu xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường là “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
[12,85-86]. Với chủ trương phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định khuôn khổ của sự vận hành thị trường
một cách có tổ chức, có định hướng nhằm thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Có thể nói cho đến nay lý
luận kinh tế học vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có thể hiểu một cách chung nhất đó là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa dựa trên những nguyên tắc quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên


12

sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, là
nền kinh tế chưa phải nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhưng cũng
không còn hoàn toàn là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Điều này cho
thấy: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về bản chất
đó là nền kinh tế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa vừa mang
tính kế thừa những thành tựu của loài người vừa gắn liền với đặc điểm và mục
tiêu chính trị, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Muốn
giữ vững định hướng chính trị, nhà nước bằng hệ thống chính sách, công cụ
để quản lý, điều hành nền kinh tế, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực

của thị trường nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được cải thiện.
Tóm lại: kinh tế thị trường được coi là một kiểu tổ chức kinh tế - xã
hội, trong đó sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị
trường, quan hệ kinh tế giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm đều
biểu hiện qua thị trường, qua việc mua bán sản phẩm với nhau. Ở nước ta
trong những năm qua nhờ chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế đã có những thay đổi căn bản và có những bước khởi
sắc rõ rệt. Điều đó khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng vừa phù hợp với xu thế phát triển của
thế giới vừa phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
1.1.2 Quan niệm về định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.2.1 Quan niệm về định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam
Định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển lâu dài của đất nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra trong cương lĩnh 1991 đã được thực tiễn
công cuộc đổi mới trong những năm qua kiểm nghiệm là đúng đắn. Tuy nhiên


13

đó mới là những định hướng chung, cơ bản, mang tính chiến lược lâu dài.
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng càng xuất hiện nhiều vấn đề cụ
thể không dễ trả lời chỉ với định hướng chung hoặc chỉ dựa vào kinh nghiệm,
do đó cần thiết phải cụ thể hóa và khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa
cho từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta cũng đã khẳng định phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chống nguy cơ chệch hướng. Vấn đề
đặt ra là cần phải hiểu định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
như thế nào cho đúng theo quan điểm đường lối đổi mới của Đảng ta.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét và khái quát dựa trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn những nguyên lý cơ bản.Với việc vận dụng
phép biện chứng vào phân tích sự phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen không những đã vạch ra luận chứng kinh tế về tính chất quá độ
lịch sử của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản một
cách tất yếu mà còn khái quát về mặt lý luận những đặc trưng chung nhất của
xã hội tương lai. Đó là: nền kinh tế dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát
triển cao, xác lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thủ tiêu chế độ
người bóc lột người; sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi thành viên trong
xã hội; nền sản xuất được tiến hành theo kế hoạch thống nhất trên phạm vi
toàn xã hội: mọi người có quyền bình đẳng trong lao động và phân phối sản
phẩm tiêu dùng; xóa bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động
trí óc và chân tay, xóa bỏ giai cấp... [6,306-330].
Trong tác phầm “Phê phán cương lĩnh Gota” (1875) C.Mác đã nêu lên
luận điểm quan trọng về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản và nguyên tắc
phân phối trong mỗi giai đoạn. Ông nhấn mạnh rằng cần phân biệt rõ “xã hội
cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó” (tức giai đoạn cao)
với “một xã hội chủ nghĩa cộng sản vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”


14

(tức giai đoạn đầu - giai đoạn này Lênin gọi là chủ nghĩa xã hội). Mỗi giai
đoạn có đặc điểm riêng. Trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
(chủ nghĩa xã hội) lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa, “sau những
cơn đau đẻ dài” là một xã hội còn mang những dấu vết của xã hội cũ. Về kinh
tế trong giai đoạn này việc phân phối phải được thực hiện theo nguyên tắc
trong trao đổi hàng hóa - vật ngang giá, tức là thực hiện phân phối sản phẩm
tiêu dùng theo số lượng và chất lượng lao động [28,35-36].

Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen tuy mới là dự báo khoa học về
một xã hội tương lai, nhưng nó mang ý nghĩa phương pháp luận có tính định
hướng về nguyên tắc trong việc vận dụng giải quyết những vấn đề kinh tế cụ
thể ở mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như Lênin đã chỉ rõ
“chúng ta không hy vọng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác hiểu biết
một cách cụ thể con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta chỉ biết phương
hướng của con đường đó, những lực lượng, giai cấp nào tiến đến con đường
đó còn về cụ thể trên thực tế con đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng
triệu con người sẽ chỉ rõ khi họ bắt tay vào hoạt động” [22,152-153]. Chính
Lênin là người kế tục trực tiếp và phát triển đầy sáng tạo chủ nghĩa Mác trong
thời đại mới. Ông còn là người trực tiếp lãnh đạo công cuộc khai phá con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, lần đầu tiên biến tư tưởng vĩ đại của C.Mác
thành hiện thực trên nước Nga Xô viết. Qua đó, Lênin làm sáng tỏ tính khách
quan, đặc điểm và những nhiệm vụ cơ bản thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời vạch rõ nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội
bao gồm tổng thể các nguyên lý, biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở một nước mà những tiền đề
của xã hội xã hội chủ nghĩa còn kém phát triển. Đặc biệt là kế hoạch xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế mới.
“Chính sách kinh tế mới” được Lênin vạch ra vào mùa xuân năm 1921
trên cơ sở khẳng định lại đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ ở nước Nga lúc


15

đó là còn sự tồn tại đan xen những thành phần, những bộ phận, những “mảnh”
của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tính đa thành phần kinh tế của
nền kinh tế vừa là biểu hiện, vừa là hệ quả của nền sản xuất xã hội hóa ở trình
độ thấp. Bởi vậy, Lênin cho rằng chưa nên xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã
hội và việc “lùi về” chủ nghĩa tư bản, kể cả tư bản nước ngoài là cần thiết và

có ích cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chính sách kinh tế
mới không chỉ có sử dụng thị trường và chủ nghĩa tư bản, đó là một tổng thể
các yếu tố, các khâu liên hoàn có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ, tạo nên một
cơ chế kinh tế mới năng động - cơ chế kinh tế năng động của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với những nội dung và biện pháp chủ yếu bao gồm: đầy
mạnh vai trò trao đổi hàng hóa trên cơ sở nhà nước nắm các đòn bẩy chỉ huy;
sử dụng và cải tạo dần cơ cấu kinh tế cũ, làm cho nó thích ứng dần với chủ
nghĩa xã hội; phát triển và sử dụng đến mức nhất định chủ nghĩa tư bản trong
và ngoài nước hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước; xây dựng
ngày càng vững mạnh các cơ sở kinh tế quốc doanh, cùng với việc từng bước
hợp tác hóa nền tiểu sản xuất nhằm tạo lập nền tảng vững chắc cho nền kinh
tế quốc dân; sử dụng nhiều hình thức phân phối khác nhau; đẩy mạnh công
nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Có thể nhận thấy “chính sách kinh tế mới” là mẫu hình con đường phát
triển kinh tế theo định hướng những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra. Bởi vậy nó có ý nghĩa cả
mặt lý luận và thực tiễn đối với các nước kém phát triển lựa chọn con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiếc rằng sau khi Lênin mất, mô hình kinh tế
theo chính sách kinh tế mới không được tiếp tục quán triệt và phát triển, thay
thế vào đó là mô hình kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Đã có nhiều ý kiến bàn luận đề cập đến nguồn gốc, đặc trưng, những ưu
thế, tính tích cực cùng những hạn chế, tiêu cực của mô hình kinh tế tập trung


16

quan liêu bao cấp. Song cần phải nói đến những sai lầm mang tính giáo điều ở
đây trong suốt thời gian dài (kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II) người ta đã
áp đặt mô hình kinh tế này lên toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa như một “tín
điều”. Việc đó khiến cho nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa và trong

toàn hệ thống trước đây, sau những cú bứt phá ban đầu đã rơi vào tình trạng
phát triển không bình thường, trì trệ và lâm vào khủng hoảng. Nhiều nhà kinh
tế học, nhiều nước xã hội chủ nghĩa ngày càng nhận ra những khiếm khuyết,
sai lầm của mô hình kinh tế này, do đó xuất hiện những ý tưởng “cải cách”,
“cải tổ” với những hình thức biện pháp khác nhau. Tuy nhiên kết cục đã
không được như mong muốn. Nhìn chung các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô trong quá trình thể nghiệm “cải cách”, “cải tổ” đã không định
hình được một mô hình kinh tế thích hợp khả dĩ đưa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng và vẫn giữ vững bản chất xã hội chủ nghĩa. Mặt khác tính không
triệt để, thiếu đồng bộ và nhất quán trong “cải tổ” “cải cách” cùng với nhiều
nguyên nhân khác đã dẫn tới sự sụp đổ về kinh tế kéo theo sự sụp đổ về chính
trị ở các nước này vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.
Trung thành với đường lối cách mạng Việt Nam được vạch ra từ Cương
lĩnh đầu tiên (1930) của Đảng, dựa trên những phác thảo kinh tế kinh điển mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin, tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ III (1960) và lần thứ IV (1976) Đảng ta đã lần lượt đề ra
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trên cả nước. Sau hơn hai
thập kỷ xây dựng và phát triển trên đất nước ta, chủ nghĩa xã hội đã phát huy
cao độ bản chất tốt đẹp - bản chất dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Tuy
vậy bên cạnh những thành tựu to lớn mà chế độ non trẻ này đã giành được thì
mô hình kinh tế kiểu cũ ngày càng bộc lộ những hạn chế và cả những sai lầm
dẫn đến việc thực hiện không trọn vẹn nhiều mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra.
Đó là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng vào giữa những thập niên 80 thế kỷ XX.


17

Cuộc sống đòi hỏi bức bách phải đổi mới, đổi mới để tồn tại và phát
triển. Đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu, con đường xã hội chủ

nghĩa mà là nhận thức lại và quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội,
vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội một cách rõ ràng chính xác, phù
hợp điều kiện mới của đất nước và bối cảnh quốc tế. Đó là cơ sở trực tiếp
của đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ 1986
trở lại đây.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng: “Cách mạng xã hội chủ
nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và lâu dài nhất, chúng ta phải xây
dựng một xã hội hoàn toàn mới, xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nề nếp thói quen, ý nghĩ và thành kiến
có gốc rễ sâu xa hàng nghìn năm, chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,
xóa bỏ giai cấp bóc lột, áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta
từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp, chúng ta phải
dần dần tập thể hóa nông nghiệp, chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp” [29,784]. Mục
đích “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, có cuộc sống ấm no và sống một đời hạnh phúc”.
Một quá trình “biến đổi” và “xây dựng” rộng khắp đầy ắp nội dung kinh tế và
mang tính giai cấp sâu sắc như vậy hoàn toàn không thể là một việc giản đơn.
Nếu không xác định rõ mục tiêu, phương hướng, bước đi và giải pháp thích
hợp sẽ không có cơ sở làm chủ được sự thay đổi của đất nước, của nền kinh
tế, dẫn đến chệch hướng. Với những kinh nghiệm của nhiều thập kỉ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, những thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội
thế giới, bước vào thời kì đổi mới, công cuộc xây dựng đất nước đòi hỏi phải
xác định được mô hình kinh tế xã hội mà chúng ta tiến tới, làm chuẩn mốc để
không bị chệch hướng. Đáp ứng yêu cầu đó Đại hội toàn quốc lần thứ VII của


18

Đảng đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên

chủ nghĩa xã hội” trong đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình đó.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khái quát: “Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đây là một hình thái kinh tế thị
trường vừa tuân theo những quy luật kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Ở góc độ lý luận cơ bản, định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
kinh tế là xây dựng và bảo vệ những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội bao
gồm cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa (tức
là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dưới chủ nghĩa xã hội), rằng “kinh
tế xã hội chủ nghĩa phải là sự thống nhất của cả hai yếu tố cấu thành phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, cả hai yếu tố đó phải hình thành và phát triển
lớn mạnh dần trong thời kì quá độ, trong mối quan hệ tương tác biện chứng
lẫn nhau”. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải xây dựng chế độ
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, coi đó như là một trong những mục tiêu
cơ bản để có chủ nghĩa xã hội [43,136-142]. Trên cơ sở học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội của C.Mác, ý kiến trên góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt
lý luận đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta khái quát.
Quan niệm trên đây nhấn mạnh khía cạnh chính trị - xã hội của nền
kinh tế. Tập trung vào các khía cạnh của quan hệ sản xuất, gắn chính sách
kinh tế với chính sách xã hội, hạn chế sự ảnh hưởng không thuận chiều của
chính sách kinh tế với việc thực hiện các mục tiêu xã hội trong phát triển. Về
mặt kinh tế xã hội quan niệm này nói lên được tính ưu việt hơn hẳn của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa so với kinh tế tư bản chủ nghĩa.


19


Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế đang được tích cực xây dựng và hoàn thiện. Riêng đối với vấn đề
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường, tuy
là vấn đề còn mới mẻ và phức tạp nhưng các nhà kinh tế Việt Nam đã đi được
một đoạn đường dài. Mặc dù còn nhiều tranh luận chưa ngã ngũ nhưng đa số
họ đã thống nhất rằng kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội và
có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa
phát huy các nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xã hội, vừa phát huy nhân tố
mở đường, hướng dẫn và chế định sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu
xã hội chủ nghĩa đã chọn [34,28]. Đồng thời định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ
khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, làm cho nó phát
triển hài hòa hơn trong chủ nghĩa xã hội. Về mặt chính trị kinh tế thị trường
tuy là một quá trình phức tạp nhưng là quá trình tất yếu và nhà nước xã hội
chủ nghĩa sẽ là “bà đỡ” cho kinh tế thị trường ra đời [3,10]. Đó là quan niệm
biện chứng và có tính thuyết phục về kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Khái quát những ý kiến trên đây, quan niệm định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế ở Việt Nam được hiểu như sau: Thứ nhất: mục
tiêu chiến lược là xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với tư cách là
phương thức sản xuất có trình độ cao hơn, tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện địa và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ
yếu trong mối quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau.Thứ hai: đẩy mạnh phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước. Bảo đảm tăng trưởng nhanh, bền vững, đồng thời
tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế sang các quan hệ xã hội hóa


20


cao hơn, hạn chế xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Thứ ba: kết hợp hài hòa
các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, sự phát triển kinh tế phải hướng tới
việc tạo ra các giá trị xã hội cao: công bằng, văn minh, đời sống nhân dân lao
động ngày càng nâng cao. Đó chính là phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Thứ tư: xây dựng nền kinh tế mở rộng
cả trong lẫn ngoài trên cơ sở giữ vững độc lập và bản sắc dân tộc, chủ động
hợp tác, hội nhập, tham gia phân công lao động trên phạm vi khu vực và quốc
tế. Thứ năm: nhà nước nắm giữ vai trò quản lý định hướng sự phát triển của
nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Qua những luận điểm trên đây cho thấy: định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế chỉ sự phát triển khách quan của nền kinh tế Việt Nam,
là mục tiêu mà nền kinh tế sẽ phải đạt tới, là cái đích của công cuộc đổi mới
nền kinh tế, của các lực lượng kinh tế trong xã hội sẽ hướng vào và là trạng
thái vận động của nền kinh tế trong giai đoạn lịch sử đặc biệt, bắt đầu từ khi
đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến khi những cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Với ý nghĩa đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế chính
là yêu cầu trong quá trình quá độ kinh tế - nội dung kinh tế của thời kỳ quá
độ.
1.1.2.2 Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam
Xây dựng nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
một quá trình lâu dài, diễn ra từng bước với những chương trình, kế hoạch,
biện pháp cụ thể. Đương nhiên trong quá trình đó, tiềm tàng thường xuyên
nguy cơ chuyển sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, trong cuộc đấu
tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Do đó đấu
tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quyết định trực tiếp



21

quá trình xây dựng và đổi mới nền kinh tế đất nước. Đại hội lần thứ VII của
Đảng ta đã khẳng định, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình
đổi mới là yêu cầu và bài học kinh nghiệm trước tiên ở giai đoạn đầu của
công cuộc đổi mới. Điều đó cũng được Đại hội lần thứ VIII khẳng định cho
chặng đường tiếp theo [11,70].
Như vậy, định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa nói chung có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, vừa quy định
nhau, vừa làm tiền đề của nhau như là sự biểu hiện sinh động của quy luật xây
dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
ở nước ta. Định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức trí tuệ tập thể của Đảng
về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường để thực hiện mô hình đó trên cơ sở
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực tiễn sinh động của đất nước. Trong đó bao hàm sự khẳng định khoa học
về tính tất yếu của sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, cũng như bản
chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã
hội mà chúng ta đang xây dựng. Đó là những nguyên tắc mà chúng ta cần
được giữ vững trong đổi mới đất nước. Còn giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa chính là sự đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng phương hướng đã xác
định - tức là đưa tư tưởng định hướng xã hội chủ nghĩa vào cuộc sống, được
thực hiện trong cuộc sống và thông qua thực tiễn cuộc sống tiếp tục bổ sung
hoàn chỉnh cũng như hiện thực hóa một cách sinh động các mục tiêu của định
hướng xã hội chủ nghĩa. Không có hoặc coi nhẹ nhận thức hoạt động quản lý
và bảo vệ quá trình xây dựng, để quá trình đó tự phát “khắc đi khắc đến” sẽ
dẫn đến nguy cơ chệch hướng. Định hướng xã hội chủ nghĩa lúc đó chỉ còn là
nội dung không hiện thực. Bởi vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là
nguyên tắc của đổi mới, thực chất là kiên trì sự lựa chọn con đường phát triển
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.



22

Với ý nghĩa đó, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là quan niệm
có tính lịch sử nói đến trạng thái hoạt động chủ quan, nhấn mạnh khía cạnh
đấu tranh phòng ngừa các nguy cơ chệch hướng và bảo vệ những nhận thức
khoa học về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những
thành quả xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, là quá trình tích cực chủ động
kết hợp sự kiên định về nguyên tắc chiến lược cách mạng với sự linh hoạt
trong sách lược nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bắt đầu từ khi tiến hành công cuộc
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, cho đến
khi những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được hiện thực hóa một cách căn
bản và sinh động.
Mục đích giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
là thực hiện cùng lúc hai mặt của phát triển kinh tế, đó là vừa tăng trưởng
nhanh, bền vững vừa giữ vững mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa. Điều đó
đặt ra yêu cầu lựa chọn một mô hình kinh tế kết hợp được cả hai nội dung đó.
Mô hình kinh tế cũ vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong một
thời gian dài thể nghiệm đã tỏ ra bất lực trước yêu cầu này và trên thực tế nó
đã sụp đổ. Mô hình kinh tế mới với sự đa dạng về hình thức sở hữu và kết hợp
hài hòa hai yếu tố căn bản: kế hoạch và thị trường thay thế mô hình cũ đã phát
huy tác dụng tích cực ngay ở giai đoạn đầu của đổi mới. Như vậy, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế diễn ra trong điều kiện
đang chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình mới cho nên nó bao hàm cả sự
đoạn tuyệt dứt khoát mô hình kinh tế cũ, những “mảnh” tàn dư còn sót lại ở
mặt này, mặt kia, đồng thời khẳng định mô hình kinh tế mới- kinh tế nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.



23

Mục tiêu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là lấy thực tiễn cuộc sống
của con người làm điểm xuất phát và hướng tới hạnh phúc của con người, sự
phát triển hài hòa của cá nhân và cả cộng đồng xã hội theo tiêu chí công bằng
xã hội. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở phương diện kinh tế xã hội
chính là việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội, thực hiện công bằng, văn minh. Tuy nhiên việc thực hiện mối
quan hệ đó như thế nào là căn cứ vào yêu cầu của mỗi giai đoạn phát triển cụ
thể, vừa giải quyết được những yêu cầu xã hội hiện tại, vừa tạo điều kiện cho
đất nước tiếp tục phát triển bền vững, có triển vọng tích cực.
Như vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
là sự cụ thể hóa các mục tiêu của định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế, đó
là sự triển khai về mặt lý luận và thực hành trong thực tiễn lý luận đó, làm cho
chủ nghĩa xã hội từng bước được hiện thực hóa thông qua cách thức, biện
pháp tổ chức xây dựng một cách tự giác sáng tạo của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Kinh
nghiệm của những năm đổi mới vừa qua đã chứng minh về mặt thực tiễn rằng
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế ở Việt Nam thực chất mang
ý nghĩa giai cấp và dân tộc sâu sắc nhằm giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội cho sự phát triển kinh tế.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, các vấn đề kinh tế,
chính trị, giai cấp có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời và suy đến
cùng kinh tế là yếu tố quyết định. Xuất phát từ địa vị kinh tế khác nhau giữa
các tập đoàn người trong một hệ thống sản xuất nhất định, được phân định
trước hết bởi quan hệ của họ với tư liệu sản xuất và vai trò của họ trong tổ
chức xã hội về lao động và phân phối sản phẩm mà hình thành các giai cấp

khác nhau [25, 17-18]. Mỗi giai cấp có lợi ích kinh tế riêng, khác biệt hoặc


24

đối lập với lợi ích kinh tế của giai cấp khác. Việc giải quyết mối quan hệ giữa
các lợi ích kinh tế đó là nguồn gốc, động cơ, nội dung của đấu tranh giai cấp.
Nói cách khác đấu tranh giai cấp thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế.
Ăngghen đã khẳng định điều này trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức” rằng “bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào
cũng đều là đấu tranh chính trị - xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải
phóng về kinh tế” [1,441]. Theo đó trong một xã hội còn phân định các giai
cấp khác nhau thì bất cứ một vấn đề kinh tế nào cũng in đậm dấu ấn giai cấpkinh tế có thuộc tính giai cấp: kinh tế là của giai cấp này hoặc của giai cấp
khác, sự thống nhất chỉ là tương đối và vì lợi ích tuyệt đối của giai cấp.
Lênin cho rằng “Chừng nào mà người ta chưa biết phân biệt lợi ích
kinh tế của giai cấp này hay giai cấp khác... thì trước sau người ta vẫn là kẻ
ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị” [24,57].
Người ta không thể tách kinh tế ra khỏi giai cấp mà ngược lại nó luôn được
xem xét và giải quyết theo quan điểm chính trị của giai cấp. Thực tiễn lịch sử
đã cho thấy, bất cứ giai cấp nào cầm quyền cũng đều hướng kinh tế phát triển
theo lập trường chính trị của giai cấp đó theo con đường, mục tiêu kinh tế xã
hội mà giai cấp đó đề ra. Vì vậy nếu không có một thế giới quan, một lập
trường chính trị rõ ràng, một giai cấp nhất định không thể giữ vững được sự
thống trị của mình và do đó không thể giải quyết được nhiệm vụ kinh tế theo
con đường và mục tiêu đã đặt ra[25,350].
Trên ý nghĩa đó, giai cấp công nhân sau khi giành chính quyền thì
nhiệm vụ chính trị tiếp theo là định hướng nền kinh tế phát triển theo con
đường và mục tiêu của giai cấp, đó là con đường và mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là tiếp tục cuộc đấu tranh
“đoạt lấy những lực lượng sản xuất và thiết lập một chế độ đem lại cho mỗi

thành viên của xã hội khả năng tham gia không những vào sản xuất mà cả vào


×