Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG YẾN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG YẾN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2013



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trinh
nào khác. Các số liệu ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định của khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hồng Yến

3


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

GDP

Tổng thu nhập kinh tế quốc dân


FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngồi

NĐ-CP

Nghị định – Chính phủ

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TT

Thơng tư

LDN

Luật Doanh Nghiệp

VAT

Thuế Giá trị gia tăng

VCCI

Phịng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam






4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH
NGHIỆP TƢ NHÂN ........................................................................................ 7
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp tƣ nhân ở Việt nam hiện nay.................... 7
1.1.1. Địa vị pháp lý và vấn đề tiếp cận địa vị pháp lý của doanh nghiệp
tư nhân ........................................................................................................ 7
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân: ..................... 12
1.1.3.Các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của doanh
nghiệp tư nhân .......................................................................................... 15
1.2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tƣ nhân ....................................... 21
1.3. Vai trò của Doanh nghiệp tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng ở
Việt nam hiện nay........................................................................................... 30
1.3.1. Các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. .................... 30
1.3.2. Doanh nghiệp tư nhân với tư cách là một loại hình doanh nghiệp
của thành phần kinh tế tư nhân:................................................................ 34
CHƢƠNG 2: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VÀ VAI TRÒ THỰC TẾ CỦA DOANH
NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM ............................................................. 42
2.1. Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp
tƣ nhân............................................................................................................. 42
2.1.1. Nguyên tắc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật .............. 42
2.1.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp........ 44
2.1.3. Nguyên tắc chủ Doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn ........ 46

2.2. Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tƣ nhân theo qui định của pháp luật
ở Việt nam hiện nay ............................................................................... …..48
2.2.1. Quyền của doanh nghiệp tư nhân ................................................... 48
2.2.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân ............................................... 66
2.3. Vai trò thực tế của Doanh nghiệp tƣ nhân trong nền kinh tế Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 75

5


CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VÀ VAI
TRÒ THỰC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN ................................ 85
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao địa vị pháp lý của
Doanh nghiệp tƣ nhân ................................................................................... 85
3.1.1. Bổ sung quy định của pháp luật về việc xác định sản nghiệp kinh
doanh của Doanh nghiệp tư nhân ............................................................86
3.1.2. Xác định rõ hơn các thức giải quyết đối với trách nhiệm thực hiện
các nghĩa vụ của doanh nghiệp trong trường hợp chủ Doanh nghiệp tư
nhân chết. .................................................................................................. 86
3.1.3. Làm rõ mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp với người quản lý,
điều hành Doanh nghiệp tư nhân .............................................................. 86
3.1.4. Bổ sung các quy định pháp luật làm rõ bản chất pháp lý của chủ
Doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp tư nhân. .................................... 87
3.1.5. Làm rõ các quyền và nghĩa vụ của của Doanh nghiệp tư nhân với
người lao động trong các vấn đề lao động, chính sách thu nhập và bảo
hiểm xã hội. .............................................................................................. 87
3.2. Một số giải pháp cụ thể khuyến khích, trợ giúp các doanh nghiệp tƣ
nhân ................................................................................................................. 88
3.2.1. Hồn thiện hệ thống các chính sách khuyến khích trợ giúp đối với
Doanh nghiệp tư nhân ............................................................................. 88

3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân. ............ 89
3.2.3. Giải pháp về vốn – tài chính.......................................................... 91
3.2.4. Giải pháp về chính sách thị trường tiếp cận thị trường ................. 93
3.2.5. Giải pháp về thuế ............................................................................ 93
3.2.6. Giải pháp về chính sách về lao động ............................................. 95
3.2.7. Giải pháp hỗ trợ xuất khẩu đối với các Doanh nghiệp tư nhân .... 96
3.2.8. Nâng cao vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ ............. 97
KẾT LUẬN ................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 104

6


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI được ghi nhận như một
mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ mới và phù hợp với quy luật khách
quan. Chủ trương Đổi mới đúng đắn, trong đó sự ghi nhận và bảo hộ của nhà
nước đối với sở hữ tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân là trọng tâm, đã tạo
ra một sự động lực lớn cho sự phát triển của nền kinh tế- xã hội nước ta. Tiếp
tục chủ trương đổi mới, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX tiếp tục
khẳng định“khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong
những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm” [28].
Trên tinh thần ấy, Quốc hội khóa VIII đã thơng qua Luật Doanh nghiệp
tư nhân ( DNTN) ngày 21 tháng 12 năm 1990, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4
năm 1991. Sự ra đời của Luật DNTN đã thể hiện sự thừa nhận trên góc độ
luật pháp về loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, là cơ sở
pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của DNTN, là một đảm bảo pháp lý cho
những người có vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh một cách ổn định, lâu

dài.
Thông qua luật DNTN, Nhà nước đã công nhận sự tồn tại và phát triển
lâu dài của kinh tế tư nhân và tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh tế tư
nhân, cơng nhận sự bình đẳng trước pháp luật của DNTN với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Từ đó, DNTN đã hình thành, phát
triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt
Nam trong suốt hơn một thập kỷ qua.
Trên cơ sở sửa đổi những điều bất hợp lý, những quy định không cần
thiết của luật DNTN 1990, LDN 1999 và để phát huy hơn nữa vai trò của kinh
tế tư nhân, ngày 29/11/2005, Quốc hội đã ban hành Luậ Doanh nghiệp 2005
(LDN). Sự ra đời của LDN 2005 đã một lần nữa khẳng định vai trò của

1


DNTN trong nền kinh tế. Thực tiễn từ năm 2005 cho đến nay, trên cơ sở sự
hình thành khung pháp lý nhằm công nhận và bảo đảm sự tồn tại của các loại
hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, DNTN đã và đang khẳng
định vị trí của mình trong nền kinh tế. Cho nên nghiên cứu và làm rõ địa vị pháp
lý của DNTN sẽ cung cấp cái nhìn tổng quát hơn về địa vị và vai trị thực tế của
loại hình doanh nghiệp này. Việc nghiên cứu địa vị pháp lý của DNTN cũng
được đặt trong bối cảnh chung của một nền kinh tế đang đạt mức tăng trưởng
nhanh chóng, trong đó có sự đóng góp đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân
với nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây.
Năm 2007 khu vực kinh tế tư nhân đạt 233.992 tỷ đồng; Cơ cấu thành phần
kinh tế cũng có những thay đổi cơ bản, năm 1995 cơ cấu GDP theo thành
phần sở hữu: Khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 40.1%; khu vực kinh tế dân
doanh chiếm 53.5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiến 6.4%. Đến năm
2007 thì khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 37.8%; khu vực kinh tế dân doanh

chiếm 54%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiếm 8.2% [23]. Số liệu trên
cũng nói lên sự đóng góp đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự tăng
trưởng kinh tế của đất nước, mặt khác chính sự tăng trưởng đó cũng đem lại
thời cơ và nhiều điều kiện khách quan thuận lợi cho sự phát triển của DNTN.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay các DNTN của Việt nam chưa phát
huy được hết tiềm năng của mình, cịn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất
kinh doanh. Hiện tượng này một phần là do các DNTN chưa có kinh nghiệm
hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, cũng chưa có khung chính
sách thật rõ ràng và ổn định từ phía Nhà nước nhằm đưa ra các biện pháp hữu
hiệu tạo điều kiện cho các DNTN phát huy hết khả năng cho sự nghiệp phát
triển kinh tế đất nước [22].
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần xác định địa vị pháp lý của DNTN như
thế nào cho phù hợp với những điều kiện của nền kinh tế thị trường mới được

2


xác lập ở nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
địa vị pháp lý của DNTN cịn có ý nghĩa thời sự, góp phần xây dựng những
cơ sở lý luận trong việc hoàn thiện địa vị pháp lý của DNTN.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “ Địa vị pháp lý của DNTN
trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sỹ của mình. Hy vọng rằng, với đề tài này, luận văn sẽ góp phần thiết thực
vào việc thực hiện các qui định pháp lý về doanh nghiệp nói chung và
DNTN nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Pháp luật về doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng khơng phải là
một nội dung mới mẻ ở Việt nam. Hiện nay, đã có khá nhiều đề tài cũng như
các bài nghiên cứu pháp lý, các bài báo bàn về vấn đề này ở góc độ vĩ mơ
hoặc nghiên cứu chun sâu về từng loại hình doanh nghiệp như cơng ty cổ

phần, cơng ty TNHH 2 thành viên, doanh nghiệp tư nhân…Theo đó, các nhà
nghiên cứu tiếp cận địa vị pháp lý của doanh nghiệp ở khá nhiều góc độ như
nội dung về chế độ pháp lý về thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp;
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập; Quy chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay…
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về DNTN
trên các bình diện khác nhau. Điển hình là một số cơng trình nghiên cứu khoa
học của một số tác giả như sau:
-“ Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước
ta” của GS.TS Hồ Văn Vĩnh (đề tài cấp bộ 2001). Tác giả đã khẳng định vai
trò to lớn của kinh tế tư nhân, nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư
nhân và đưa ra các giải pháp về pháp luật, về chính sách, về tổ chức để
khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.

3


- “Kinh tế tư nhân ở Việt nam trong tiến trình hội nhập” của PGS.TS
Trịnh Thị Hoa Mai, nhà xuất bản Thế giới, Hà nội- 2005. Tác giả đưa ra
những vấn đề chung về khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân ở
Việt nam trong điều kiện hội nhập, trong đó tác giả có đưa ra một số vấn đề
như: các loại hình DNTN ở Việt nam, vốn thực tế của DNTN như thế nào? số
lượng DNTN ở Việt nam.
- “ DNTN ở Thái Bình hiện nay”. Luận văn thạc sỹ kinh tế của Bùi
Việt Hưng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội 2006. Tác giả đã
đánh giá được những thành tựu và những mặt hạn chế của sự phát triển của
DNTN ở Thái Bình. Đồng thời, tác giả đã đề ra một số giải pháp nhằm
khuyến khích phát triển DNTN ở Thái Bình.
- “Vài bình luận về pháp LDN tư nhân” của TS Ngơ Huy Cương đăng

trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, Luật học 26(2010). Từ thực
trạng pháp luật còn thiếu những giải pháp để giải quyết những tranh chấp có
liên quan và có nhiều bất cập trong việc điều tiết các mối quan hệ của DNTN,
tác giả đã tập trung phân tích bản chất pháp lý của DNTN từ đó chỉ ra bất cập
của pháp luật về DNTN.
Tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào tiếp cận và làm rõ địa vị
pháp lý của DNTN bời các đề tài đã xuất bản ở Việt nam hoặc chỉ tìm hiểu về
một DNTN cụ thể hoặc nghiên cứu DNTN dưới góc độ một đơn vị kinh
doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Tính đến thời điểm này, đây là một
trong những luận văn thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu về Địa vị pháp lý của
DNTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Luận
văn được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu của bản thân kết hợp tham khảo
thông tin tại các nguồn sách, báo, thông tin trên mạng internet.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng về
địa vị pháp lý trong hệ thống pháp luật và trên thực tế của DNTN ở nước ta

4


trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề ra các giải pháp để hoàn thiện địa vị pháp
lý của Doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể, luận văn làm rõ những vấn đề dưới đây:
phân tích và đánh giá đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, quyền và
nghĩa vụ của DNTN được pháp luật ghi nhận, phân tích vai trò của DNTN
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện
nay. Từ đó định rõ những khiếm khuyết của pháp luật về địa vị pháp lý doanh
nghiệp tư nhân, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý
và vị trí thực tế của doanh nghiệp tư nhân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định pháp lý về địa vị pháp lý

của DNTN trên cơ sở sử dụng và xem xét các qui định của LDN 2005, Luật
thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan hiện hành. Đồng thời,
luận văn cũng đối chiếu xem xét thực trạng cũng như tình hình phát triển trên
thực tế của DNTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp tổng thể nhiều phương pháp nghiên cứu. Phương
pháp luận được sử dụng trong luận văn là những phương pháp cơ bản của
khoa học pháp lý bao gồm phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, lịch sử, hệ thống, logic, diễn giải.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các qui định trong LDN 2005
với LDN tư nhân 1990, Luật công ty 1990 và các văn bản pháp luật khác về
doanh nghiệp, so sánh các qui định của pháp luật Việt Nam và các qui định
pháp luật trên thế giới. Ngoài ra, còn thực hiện đối chiếu, tổng kết với thực
trạng áp dụng các qui định pháp luật trên thực tế nhằm hồn thiện các qui
định pháp lý, góp phần vào việc giải quyết các tranh chấp có liên quan tới
hoạt động doanh nghiệp tư nhân.

5


- Phương pháp phân tích tồng hợp: phân tích các qui định pháp lý được
lý giải, dẫn chiếu trong các văn bản pháp luật, tổng hợp các qui định pháp luật
trong và ngồi nước nhằm có cái nhìn tồn diện hơn về địa vị pháp lý của
DNTN ở Việt Nam hiện nay.
- Ngồi ra luận văn cịn triêt để sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp duy vật lịch sử để xem xét quá trình hình thành, phát triển một cách
khách quan của doanh nghiệp tư nhân, cụ thể đi sâu nghiên cứu địa vị pháp lý
và vai trò thực tế của loại hình doanh nghiệp này.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp tư nhân.
Chương 2: Địa vị pháp lý và vai trò thực tế của DNTN ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao địa vị pháp lý và vai trò thực tế của
doanh nghiệp tư nhân.
Nghiên cứu và hoàn thiện chế định địa vị pháp lý của DNTN là vấn
đề phức tạp. Hơn nữa, với thời gian ngắn, thơng tin và trình độ người viết
cịn hạn chế, do vậy luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả
rất mong sẽ nhận được nhiều ý kiến phê bình, đóng góp của thầy cơ giáo và
các bạn.

6


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp tƣ nhân ở Việt nam hiện nay
1.1.1 . Địa vị pháp lý và vấn đề tiếp cận địa vị pháp lý của doanh
nghiệp tư nhân
Theo cách hiểu truyền thống, địa vị pháp lý của một doanh nghiệp là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp đó được pháp luật
ghi nhận, đảm bảo sự độc lập về mặt pháp lý và khả năng tham gia các quan
hệ pháp luật, trước hết là quan hệ luật kinh tế và từ đó có thể phân biệt với các
chủ thể kinh doanh khác.
Một doanh nghiệp không chỉ tham gia các quan hệ pháp luật kinh tế,
các quan hệ kinh doanh mà có thể đồng thời tham gia nhiều quan hệ khác
như: quan hệ dân sự, hành chính, lao động… Khi xem xét địa vị pháp lý của
một doanh nghiệp với tính chất tổng thể là các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
một doanh nghiệp, trong khoa học pháp lý đã có lúc có quan niệm xem xét
vấn đề theo phương diện khái niệm thẩm quyền, bao gồm những quyền và
nghĩa vụ trong nhiều lĩnh vực và phương diện tồn tại, hoạt động của doanh

nghiệp [1]. Trong đó, thẩm quyền trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh được coi
là một nội dung chủ yếu trong hệ thống thẩm quyền của doanh nghiệp với lý
do doanh nghiệp là tổ chức kinh tế… được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thẩm quyền kinh tế của một doanh nghiệp bao gồm các quyền và nghĩa
vụ của nó trong q trình tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Đối
với các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì hệ thống thẩm quyền này cũng
có những điểm khác nhau. Cũng chính vì vậy, đối với mỗi loại hình doanh
nghiệp, pháp luật đều dành cho chúng những quy chế pháp lý riêng [5].

7


Ngoài ra, khi nghiên cứu địa vị pháp lý của một doanh nghiệp độc lập,
từ trước đến nay, trong khoa học pháp lý vẫn thường đề cập đến khái niệm
pháp nhân (hay tư cách pháp nhân). Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì tư
cách pháp nhân và tư cách chủ thể pháp lý không phải là đồng nhất.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi mà pháp luật
kinh tế chỉ điều chỉnh các quan hệ và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã, thì vấn đề pháp nhân và tư cách pháp nhân của những chủ
thể này cũng không được quan tâm nhiều, tuy nhiên khi những lọai hình chủ
thể kinh doanh mới có tư cách pháp nhân như cơng ty TNHH, công ty cổ
phần, công ty hợp danh xuất hiện thì vấn đề tư cách pháp nhân đã được đặt ra
và xem xét một cách cụ thể hơn. Nội dung của khái niệm pháp nhân theo quan
niệm của luật Dân sự truyền thống đã trở lên quá chật hẹp đối với các loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, từ hệ thống
pháp luật hiện hành về các doanh nghiệp của nước ta cho phép khẳng định là:
bên cạnh những chủ thể kinh doanh là pháp nhân cịn có sự tồn tại của những
doanh nghiệp tuy không phải là pháp nhân, nhưng chúng vẫn là những thực
thể pháp lý có tư cách pháp lý độc lập tham gia vào các quan hệ kinh tế và các

quan hệ pháp luật.
Hơn nữa, khi xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp, chúng ta phải
gắn với chúng với sự phát triển của các mơ hình kinh tế, cơ chế kinh tế mà
trong khn khổ đó các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Như vậy, có thể
thấy nội hàm địa vị pháp lý của doanh nghiệp được phản ánh và thể hiện ở
những phương diện sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về vị trí, vai trị, chức năng của
từng loại hình doanh nghiệp; tính chất, đặc điểm tổ chức kinh doanh trong
mỗi loại hình doanh nghiệp.
Thứ hai, tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh
nghiệp được pháp luật quy định phù hợp với vị trí, vai trị và chức năng của

8


doanh nghiệp và những quyền hạn và nghĩa vụ mà doanh nghiệp đảm nhận
trên cơ sở những quy định của pháp luật khi doanh nghiệp tham gia vào các
quan hệ pháp luật trong quá trình hoạt động.
Những quyền và nghĩa vụ này được quy định trong hệ thống các văn
bản bao gồm:
- Các văn bản quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho mọi doanh
nghiệp trong hoạt động kinh tế - xã hội (luật thuế, luật lao động, luật hải quan,
các quy định về bảo hiểm, xuất nhập khẩu…)
- Các văn bản quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động đối với các loại
doanh nghiệp (LDN Nhà nước, LDN tư nhân, luật công ty trước năm 2000 và
LDN 2005 hiện hành
- Các quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, địa
bàn hoạt động kinh doanh, ngành nghề kinh doanh…
Có thể thấy rằng từ thời kỳ Đổi mới 1986 đến nay các chủ thể hoạt
động sôi động nhất và được quan tâm, nghiên cứu nhiều nhất trong khu vực

kinh tế tư nhân là các doanh nghiệp có tư cáchs pháp nhân như các cơng ty
TNHH (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), DNTN chưa dành được nhiều
chú ý.
Cho đến nay, những vấn đề về địa vị pháp lý của DNTN cịn ít được
nghiên cứu về mặt lý luận. Vì vậy, để tiếp cận địa vị pháp lý của doanh
nghiệp tư nhân, cần phải tham khảo những cơng trình khoa học hiện có, các
quan điểm của một số tác giả đề cập đến các vấn đề chủ thể pháp luật, chủ thể
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, về doanh nghiệp nói chung, doanh
nghiệp Nhà nước và các loại hình cơng ty nói riêng, cũng như các quan niệm
về doanh nghiệp và địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân.
Khi đề cập đến địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật nói chung hay
một doanh nghiệp nào đó, có tác giả xem địa vị pháp lý là toàn bộ quyền và

9


nghĩa vụ của chúng được Nhà nước thừa nhận. Trong cơng trình nghiên cứu
về địa vị pháp lý của một số loại hình doanh nghiệp, có tác giả lại quan niệm
pháp nhân là khái niệm phản ánh địa vị pháp lý của một tổ chức (trong đó có
các doanh nghiệp).
Ở đây, tác giả có quan niệm khơng thống nhất với các quan điểm nêu
trên. Vì một chủ thể kinh tế nói chung, một doanh nghiệp (trong đó có DNTN
nói riêng) khơng chỉ có các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực kinh tế mà cịn
có các quyền và nghĩa vụ khác. Các chủ thể này không chỉ chịu sự điều chỉnh
của luật kinh tế, mà còn chịu sự điều chỉnh của các ngành luật khác như hành
chính, hiến pháp, lao động, dân sự, mơi trường, đất đai…
Trong q trình nghiên cứu địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, có
thể nhận thấy, nhiều tác giả đã đồng nhất các khái niệm tư cách chủ thể pháp
luật, tư cách pháp nhân với khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp. Sự
đồng nhất này có những điểm khơng chuẩn xác. Ở đây, tác giả thống nhất với

quan điểm cho rằng tư cách pháp nhân và tư cách chủ thể pháp luật là hai vấn
đề có nội dung và bản chất pháp lý khác nhau. Bởi vì tất cả các doanh nghiệp
được pháp luật thừa nhận và bảo hộ thì đều có tư cách chủ thể pháp lý độc
lập. Nhưng chỉ những doanh nghiệp có trách nhiệm giới hạn về tài sản thì
chúng mới là pháp nhân. Bởi vì, dấu hiệu cơ bản của pháp nhân là: chỉ chịu
TNHH trong số tài sản của mình đem ra kinh doanh (TNHH). Trong trường
hợp này, có sự tách biệt giữa tài sản góp vào doanh nghiệp và tài sản mà
người góp vốn khơng góp vào doanh nghiệp (tài sản dân sự).
Trong khi đó, DNTN với trách nhiệm vơ hạn khơng có sự tách biệt,
giới hạn về trách nhiệm tài sản và trong mọi trường hợp, họ phải chịu trách
nhiệm đến cùng về thiệt hại thực tế. Quan điểm này phần nào đã bác lại quan
điểm cho rằng: tư cách pháp nhân một chế định pháp lý thể hiện địa vị pháp
lý của doanh nghiệp.

10


Chính vì địa vị pháp lý của một chủ thể kinh doanh, nhất là của các
doanh nghiệp là những khái niệm chưa được thống nhất, chưa được nghiên
cứu đầy đủ, nên khi đề cập đến các đặc trưng của chúng, các tác giả thường
dùng một khái niệm: tư cách chủ thể pháp luật của doanh nghiệp được nhà
nước thừa nhận là một chủ thể pháp lý độc lập. Theo đó, tư cách chủ thể phản
ánh vị trí, vai trị của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Theo tác giả, những quan điểm nay ít nhiều đã làm sáng tỏ dần khái
niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần có cách tiếp cận mới
năng động và đa dạng đối với địa vị, vai trò mới của doanh nghiệp trong kinh
tế thị trường.
Khi nghiên cứu về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, việc đầu
tiên chúng ta phải xác định khái niệm về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư
nhân. Muốn làm sáng tỏ khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân,

trước hết chúng ta phải làm sáng tỏ loạt khái niệm như: chủ thể pháp luật, chủ
thể luật kinh tế, chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp…
Điều đáng lưu ý là trong LDN 2005 chỉ mới đề cập đến những vấn đề
kinh doanh, chủ thể kinh doanh và doanh nghiệp. Theo nghĩa đó, doanh
nghiệp (trong đó có doanh nghiệp tư nhân) là những chủ thể kinh doanh độc
lập, đồng thời cũng là chủ thể pháp luật kinh tế độc lập. Chúng xuất hiện trên
cơ sở pháp lý khác với các chủ thể kinh doanh khác, chúng được tồn tại và
hoạt động trên cơ sở thừa nhận của các văn bản pháp luật.Vì vậy, cần nghiên
cứu địa vị pháp lý của DNTN trong sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành
phần và trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chú trọng
phân tích loại hình DNTN trong sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành
phần và trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Cũng như
xem xét đánh giá trên thực tế và xác định những bất cập trong chế định địa vị
pháp lý của khu vực kinh tế tư nhân và DNTN nói riêng để từ đó đề xuất các
phương hướng, biện pháp củng cố hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp
tư nhân, góp phần đổi mới và phát triển kinh tế.

11


1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân:
Địa vị pháp lý của DNTN là một chế định quan trọng trong pháp luật
kinh doanh. Khi nghiên cứu địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, vấn
đề đầu tiên cần làm sáng tỏ là định nghĩa DNTN và các đặc điểm pháp lý
của chúng.
LDN 2005 đã đưa ra cách hiểu thống nhất về doanh nghiệp tư nhân.
Theo đó, Điều 141 LDN 205 đã định rõ: „DNTN là doanh nghiệp do một cá
nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp” [8]. Định nghĩa này cho thấy, DNTN không
phải là thực thể độc lập. Chủ nhân của nó phải đầu tư vốn để tạo lập nó và có

tồn quyền trong việc bán, cho th doanh nghiệp, trách nhiệm của chủ doanh
nghiệp gắn liền với mọi hoạt động của doanh nghiệp trong suốt quá trình tồn
tại. Tại thời điểm đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp phải kê khai rõ số
vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp [2]. Vì thế, xác định rõ tư cách pháp
lý của DNTN sẽ tạo ra cách nhìn nhận đúng đắn hơn về vai trị, vị trí của
DNTN trong nền kinh tế
Trên cơ sở được thừa nhận là chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, DNTN có quyền tham gia vào quan hệ kinh tế, thực hiện các hoạt
động thương mại. Hoạt động do doanh nghiệp tiến hành phải phù hợp với địa
vị pháp lý của doanh nghiệp, tức là chỉ hoạt động trong phạm vi quyền và
nghĩa vụ được pháp luật ghi nhận. Các quyền và nghĩa vụ của DNTN được
xác định dựa trên bản chất pháp lý của DNTN và được quy định trong LDN.
Ngoài ra, chủ DNTN cịn có thể có những quyền và nghĩa vụ khác do mình
tạo ra bằng các hành vi pháp lý của doanh nghiệp, thông qua bằng việc thiết
lập những quan hệ do pháp luật dân sự, hành chính, lao động, môi trường, đất
đai…điều chỉnh mà DNTN tham gia.

12


Như vậy, DNTN là một đơn vị sản xuất, kinh doanh bình đẳng trước
pháp luật với mọi doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh, cũng như các quan hệ pháp luật khác, có đủ các quyền
và nghĩa vụ như một chủ thể pháp lý độc lập. Vị trí, vai trị của DNTN trong
nền kinh tế thể hiện sự phân công lao động xã hội, là cơ sở khách quan trong
việc xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, với nội hàm chủ yếu là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một doanh nghiệp, vai trò và giới hạn hoạt
động của nó trong nền kinh tế.
Về nguyên tắc, tất cả các DNTN đều hoạt động trên cơ sở những quy
định chung và thống nhất của pháp luật hiện hành, nhưng trên thực tế, mỗi

DNTN có vai trị, vị trí, nhiệm vụ cụ thể riêng trong quá trình sản xuất kinh
doanh [15].
Thực tế cho thấy, bên cạnh những quy định chung và thống nhất của
Nhà nước về doanh nghiệp và DNTN nói chung, các DNTN cụ thể hoạt động
kinh doanh trên từng ngành, nghề khác nhau, trong chừng mực nhất định sẽ
có sự khác nhau nhất định trong tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
một DNTN nói chung. Do đó, địa vị pháp lý của DNTN sẽ gồm 2 bộ phận:
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định cho DNTN nói chung
và tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý được xác định cho mỗi DNTN cụ
thể nói riêng.
Về hình thức pháp lý, hai bộ phận cấu thành nên địa vị pháp lý của
DNTN được thể hiện bằng hai hình thức khác nhau.
Bộ phận thứ nhất về địa vị pháp lý của DNTN được thể hiện trong
LDN 2005 và các quy định pháp luật có liên quan.
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng bị chi
phối bởi LDN và luật chuyên ngành. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có sự nhất
trí khái niệm luật chun ngành nhưng theo tác giả, luật chuyên ngành là luật

13


quy định và hoạt động kinh doanh trong một chuyên ngành cụ thể nào đó.
Luật chuyên ngành được quy định tại Điều 3 của LDN 2005 bao gồm:
- Bộ Luật hàng hải năm 2005
- Luật xuất bản 2012
- Luật dầu khí (sửa đổi năm 2000)
- Luật hàng khơng dân dụng Việt Nam 2006
- Luật khống sản 2010
- Luật báo chí 1989
- Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật báo chí 1999

- Luật giáo dục 1998 (sửa đổi 2009)
- Luật tài nguyên nước 2012
- Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
- Luật tổ chức tín dụng 2010
Bộ phận thứ hai về địa vị pháp lý của DNTN là những quyền và
nghĩa vụ phát sinh khi doanh nghiệp tham gia vào các quan hệ xã hội
không chỉ do các quy phạm pháp luật kinh tế mà còn các quy phạm của các
ngành luật điều chỉnh.
Như vậy, địa vị pháp lý của DNTN là tổng hợp những quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm được pháp luật xác định phù hợp với vị trí, vai trị, chức năng kinh
tế và xã hội của loại hình DNTN trong quá trình sản xuất kinh doanh và những
quyền, nghĩa vụ mà tự DNTN và chủ DNTN lựa chọn và đảm nhận trên cơ sở
vận dụng những khả năng pháp luật cho phép hoặc không cấm khi tham gia vào
các vào các quan hệ pháp luật trong q trình hoạt động của mình.
Pháp luật khơng thể quy định chi tiết được tất cả mối quan hệ pháp luật
mà doanh nghiệp tham gia mà chỉ có khả năng xác định những vấn đề có
tính ngun tắc, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Do
đó, quyền và nghĩa vụ của từng DNTN cụ thể không hoàn toàn giống nhau

14


mà còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi chủ thể pháp luật bằng hành vi của
mình thực hiện quyền và nghĩa vụ trong khuôn khổ luật pháp quy định.
DNTN là chủ thể kinh doanh có cơ cấu tổ chức và quản lý được Nhà
nước thừa nhận. Do vậy, DNTN có các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật. Khẳng định DNTN là chủ thể pháp lý phải đi đôi
với việc quy định trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan Nhà nước. Do vậy,
DNTN có quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi khi bị xâm hại, có quyền khiếu nại
các quyết định trái pháp luật của cơ quan Nhà nước.

Như vậy, khái niệm địa vị pháp lý của DNTN với hai bộ phận quyền và
nghĩa vụ nêu trên đã phản ánh đầy đủ hơn những đặc trưng pháp lý của
DNTN trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở đó, vấn đề về địa vị pháp luật
và thực trạng thực tế của DNTN sẽ được xem xét một cách thống nhất và chặt
chẽ hơn. Trong phạm vi luận văn, khi phân tích chi tiết địa vị pháp lý của
doanh nghiệp tư nhân, tác giả căn cứ chủ yếu trên các quy định của LDN
2005 và các văn bản pháp luật có liên quan.
1.1.3. Các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của doanh
nghiệp tư nhân
Nghiên cứu các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của
DNTN là cần thiết bởi các yếu tố chi phối đó có mối quan hệ biện chứng với địa
vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, chúng có sự tác động qua lại với nhau. Từ
đó có hướng điều chỉnh sao cho tác động của các yếu tố chi phối đó ở mức độ
hợp lý, tạo đà cho DNTN phát triển.
Các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của DNTN có thể chia ra thành
3 nhóm:
- Sự ảnh hưởng của chế độ chính trị - kinh tế
Trước Đổi mới 1986, nền kinh tế nước ta, chỉ hai hình thức sở hữu là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể được chính thức cơng nhận và bảo hộ, sở hữu

15


tư nhân nhỏ lẻ tuy vẫn vẫn được bảo hỗ nhưng bị hạn chế trong khuôn khổ
“kinh tế phụ gia đình xã viên” và bị giới hạn trong những lĩnh vực nhất định.
Rõ ràng là sự vượt trước của quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa đã được áp
đặt lên , trong khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém
đã mang lại tác dụng ngược là kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội,
không huy động được tiềm lực trong dân để phát triển kinh tế của đất nước.
Trên thực tế, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nơng nghiệp, sản xuất nhỏ

là phổ biến. Trong khi đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất rất không đều
nhau giữa các vùng, ngành kinh tế của đất nước, giữa miền xuôi với miền
ngược, giữa thành thị với nông thơn.
Vì thế, việc Hiến pháp 1980 khơng ghi nhận hình thức “sở hữu tư
nhân” đã làm cho bộ phận thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân bị kìm
hãm, khơng được phát triển. Do đó, trong thời kỳ này, chủ thể kinh doanh chủ
yếu là doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, còn DNTN và một số loại hình
doanh nghiệp khác chưa được thừa nhận về mặt pháp lý.
Đại hội Đảng 1986 đã xác định phát triển nền kinh tế nước ta theo
hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nhận sự tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã sửa đổi và ban hành
một số văn bản luật để tạo hành lang pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tham
gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh như Luật đầu tư 2005, LDN 2005,
Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật khác.
Việc đưa hình thức sở hữu tư nhân vào là một điểm tiến bộ của Hiến
pháp năm 1992 bởi điều này đã tạo nền tảng pháp lý cho hình thức kinh tế tư
nhân phát triển, tiến tới một nền kinh tế thị trường phong phú và phát triển
mạnh mẽ hơn. Theo đó, Điều 21, Hiến pháp 1992 qui định: “kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh,

16


được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về qui mơ hoạt động trong
những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”[7]. Trên cơ sở đó, DNTN một loại hình doanh nghiệp dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân đang ngày càng
phát triển và khẳng định được vai trị của mình. Trên cơ sở đó, LDN và các
văn bản luật có liên quan đã cụ thể hóa hơn thẩm quyền kinh tế của DNTN
trong nền kinh tế.
Thực tiễn trong những năm qua, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội,

như huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất
kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản xuất cho xã hội, tạo thêm nhiều việc
làm mới vừa tăng của cải vật chất cho xã hội, vừa giảm áp lực giải quyết việc
làm cho người lao động, thúc đấy sự hình thành và phát triển của các loại thị
trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, tạo ra sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và
kinh doanh, vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham
gia giải quyết các vấn đề xã hội…đã thể hiện rõ sự định hướng đúng đắn của
Đảng và Nhà nước trong việc xác lập và xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở Việt nam.
- Sự ảnh hưởng của thi trường và các chính sách cạnh tranh
Trong bối cảnh tự do cạnh tranh kinh doanh, Nhà nước ta trong những
năm gần đây đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, chính sách về thị trường và
chính sách cạnh tranh. Tuy vậy, trên thực tế:
+ Cịn tồn tại những nhận thức khơng đúng đắn về vị trí, vai trị của
khu vực ngồi quốc doanh nói chung, của DNTN nói riêng. Vì thế khu vực
này cũng không nhiều cơ hội để thu hút lực lượng lao động trí thức và lao
động có tay nghề cao.

17


+ Còn tồn tại nhiều lĩnh vực cấm hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh
của các DNTN một cách bất hợp lý.
+ Tư tưởng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế còn tương đối
nặng nề, tư tưởng này không chỉ thể hiện ở các quy định pháp luật, chính sách
mà cịn thể hiện cả trong những hành vi ứng xử của một số công chức Nhà
nước, của các cơ quan thi hành chính sách, pháp luật.
Sự phát triển của DNTN cịn có hạn chế là do nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng chủ yếu do chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần

của Đảng, trong nhiều trường hợp cụ thể, vẫn chưa có sự thống nhất cao trong
nhận thức. Cơ chế, chính sách cịn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và môi trường
kinh tế va luật pháp cịn thiếu sự thơng thống. Đây là nhân tố hàng đầu làm
nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước và kinh tế còn cồng kềnh, chồng
chéo. Việc phát triển đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường và tạo lập một
mơi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cịn chậm. Đặc
biệt, với những chính sách ưu đãi riêng đối với từng thành phần kinh tế, Nhà
nước chưa tạo ra một môi trường chung dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, vai trò chủ đạo của doanh
nghiệp nhà nước bị nhầm lẫn với độc quyền kinh doanh của một số doanh
nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp nhà nước duy trì sự
trì trệ, ỷ lại chính sách bao cấp.
Bên cạnh đó, hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan
hệ liên quan đến cạnh tranh chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật chưa
nghiêm, vì thế cịn tồn tại nhiều hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh trong
nền kinh tế.

18


Việc đổi mới, đơn giản hóa thủ tục hành chính tiến hành còn chậm,
chưa kịp thời nên còn gây nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng
tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh. Thủ tục hành chính phức tạp cũng đã
làm tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư tại Việt
Nam so với các nước khác. Tuy vậy có thể thấy, môi trường kinh doanh tư
nhân tại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể từ giữa năm 1999. Việc thành
lập Diễn đàn khu vực tư nhân và việc thơng qua LDN là một số những tín
hiệu tích cực của Chính phủ cho các nhà đầu tư. Chính phủ giờ đây cho phép

các DNTN có điều kiện được góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên vấn đề cản trở sự phát triển của DNTN còn là thị trường và
cơ cấu giá. Nhà nước ta cần đặc biệt phát triển khu vực tư nhân bằng cách tạo
lập một sân chơi bình đẳng, tiếp tục tiến tới hạ thấp các hàng rào mậu dịch,
thúc đẩy hệ thống Ngân hàng và Thị trường vốn theo hướng thương mại hơn
và tăng tốc hội nhập kinh tế thế giới cùng với những nỗ lực đặc biệt để cải
thiện khoa học và cơng nghệ, khuyến khích và tạo điều kiện thơng thống hơn
để phát triển kinh tế tư nhân- khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng
góp vai trị khơng nhỏ trong q trình tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế,
nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Bài học kinh nghiệm của các
quốc gia phát triển cho thấy, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải
được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu vì nó có vai trị to lớn trong giải
quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp hiện nay.
- Nhóm các yếu tố thuộc cơ chế quản lý Nhà nước:
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng, đều
chịu sự tác động và chi phối về phương diện quản lý từ Nhà nước. Xu hướng
chung trong các nền kinh tế thị trường đều cho thấy vai trò quản lý của Nhà
nước đối với doanh nghiệp. Luật chú ý đến việc nâng cao hiệu lực quản lý

19


×