Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.75 KB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là một khái niệm mới xuất hiện ở Đông Á,
cùng với trào lưu đầu tư trực tiếp của Nhật vào các nước ASEAN (đặc biệt là
Thailand, Malaysia và Indonesia) giữa thập kỷ 80. Thuật ngữ này chỉ được sử
dụng phổ biến ở Đông Á từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, đây là một thuật ngữ còn khá mới mẻ và không nhiều
người biết rõ về nó. Tuy nhiên, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là một
trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam và được kỳ
vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp Việt Nam. Đó cũng là
giải pháp hữu hiệu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,
góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống xã hội…
Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam còn khá mới mẻ, trong khi nhu cầu về
nguyên phụ liệu phục vụ trong nước ngày càng tăng cao, nhất là trong xu
hướng cạnh tranh ngày càng lớn của thị trường. Đặc biệt, xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay đã đặt các doanh nghiệp phụ trợ của ta trước nhiều
khó khăn trong việc tìm hướng đi thích hợp để phát triển. Liên kết kinh tế
giữa các doanh nghiệp trong nước và liên kết với các doanh nghiệp nước
ngoài (chủ yếu thông qua thu hút FDI) để phát triển lĩnh vực mới mẻ này là
tất yếu khách quan.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, việc
xây dựng một nền tảng kinh tế vững chắc, trong đó có sự phát triển của công
nghiệp là vấn đề mang tầm chiến lược. Công nghiệp hỗ trợ chính là một trong
những nền tảng của sự phát triển ấy.
Những khó khăn, thuận lợi của Việt Nam để phát triển công nghiệp hỗ
trợ hiện nay đã đặt ra yêu cầu cấp bách, đòi hỏi sự liên kết kinh tế hiệu quả
giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, liên




2

kết kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài (chủ yếu thông qua vốn FDI) đã
đóng góp nhiều cơ hội thuận lợi cho ngành công nghiệp hỗ trợ nước ta phát
triển.
Tái lập năm 1997, Vĩnh Phúc được đánh giá là tỉnh có nền kinh tế phát
triển năng động và có năng lực cạnh tranh khá so với các tỉnh, thành phố khác
trong cả nước. Trong xu thế phát triển chung của cả nước, Vĩnh Phúc là một
trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm khu vực Đông Bắc bộ đã
đề cao tầm quan trọng của việc phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng
yếu, trong đó có công nghiệp hỗ trợ.
Vĩnh Phúc là một tỉnh có lợi thế về vị trí địa lý, về mọi tiềm năng cho
phát triển các ngành công nghiệp. Hiện nay, trên địa bàn của tỉnh đã hình
thành nhiều khu công nghiệp lớn như: KCN Khai Quang, Bình Xuyên, Phúc
Yên, Bá Hiến… Nhiều nhà máy, xí nghiệp của các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài với quy mô lớn,
nhỏ và vừa… hoạt động có hiệu quả như: Tập đoàn Prime, Honda, Toyota,
Nissin, Piagio, giày da Vĩnh Phúc, … Phần lớn trong số đó hiện đang tiến
hành sản xuất các thiết bị phụ trợ và là các doanh nghiệp liên kết kinh tế với
doanh nghiệp nước ngoài.
Trong hướng đi trước mắt, Vĩnh Phúc xác định công nghiệp hỗ trợ đóng
vai trò hết sức quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, để
phát triển được ngành công nghiệp còn khá mới mẻ này, đòi hỏi phải có sự liên
kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân
của Việt Nam trên địa bàn tỉnh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc Vĩnh Phúc phải đề ra được những giải
pháp hữu hiệu để giải quyết những vướng mắc cho phát triển ngành kinh tế
đang ngày càng “nóng” này trên địa bàn tỉnh. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài:

“Liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” là hết sức cần thiết.


3

2.

Tình hình nghiên cứu.
Liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp
hỗ trợ là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Trên cả nước đã có rất
nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố có nội dung
liên quan đến những vấn đề này như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của PGS. TSVũ Sỹ Tuân (2008)
đã phân tích vai trò, tác động của doanh nghiệp vừa và nhỏ với việc phát triển
CNHT của Việt Nam.
- Nhận định của TS. Đỗ Hương Lan và Ths. Nguyễn Tường Anh (2009)
trong Kỷ yếu Hội thảo phát triển CNHT – Kinh nghiệm của Nhật Bản và một
số nước Châu Á tại Hà Nội về Phát triển CNHT ở Việt Nam từ bài học kinh
nghiệm của các nước trong khu vực.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của TS. Nguyễn Thị Thìn (2011), đề cập đến
tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Lê Giang Nam – Đại học Ngoại
thương về Mối quan hệ giữa phát triển CNHT và thu hút FDI ở Việt Nam. Tác
giả đã nêu lên mối quan hệ hai chiều giữa phát triển CNHT và thu hút FDI ở
Việt Nam. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cao trong thu
hút FDI cho phát triển CNHT, đồng thời tăng cường liên kết kinh tế trong và
ngoài nước để hỗ trợ nhân lực, thúc đẩy CNHT phát triển.
- Tác phẩm Đông Á đổi mới công nghệ để tham gia vào mạng lưới sản

xuất toàn cầu (2007) của PGS.TS Trần Văn Tùng đã phân tích chi tiết về sự
phát triển của các nước Đông Á trong công nghiệp hóa, đặc biệt nhấn mạnh
đến quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của các quốc gia này
thông qua việc liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài.


4

- Tác phẩm Mạng lưới sản xuất toàn cầu và sự tham gia của các ngành
công nghiệp Việt Nam do TS. Cù Chí Lợi, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ làm chủ
biên đã đề cập đến sự phát triển của các mạng sản xuất toàn cầu và vai trò của
nó đối với tiến trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển; đồng thời
nêu ra khả năng liên kết mạng khu vực và toàn cầu của công nghiệp Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Phương Thảo (2008), trường
Đại học Ngoại thương về Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm tăng cường thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình khoa học, các bài viết, các tác phẩm nêu
trên đã đề cập khá sâu sắc về các hoạt động của ngành công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam,... nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về
liên kết kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp
hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng ngành công
nghiệp hỗ trợ và hoạt động liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để
phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, đề xuất một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Một là, khái quát hóa những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận và thực
tiễn về ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Hai là, phân tích thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ và hoạt động
liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua.


5

- Ba là, đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh liên kết kinh tế với doanh
nghiệp nước ngoài để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh
nghiệp nội địa để phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc.
- Về thời gian: chủ yếu là từ năm 2005 đến 2013, có tham khảo số liệu
của giai đoạn trước đó để so sánh.
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu hoạt động của ngành công nghiệp hỗ
trợ và hoạt động liên kết kinh tế với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) để phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước và thực
hiện quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, về ngành

công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam và ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng
- Phương pháp khái quát hóa


6

- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp thống kê – so sánh
- Phương pháp mô hình hóa
- Phương pháp logic lịch sử
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về ngành công
nghiệp hỗ trợ.
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của ngành công
nghiệp hỗ trợ và sự liên kết kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài để phát
triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ba là, đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh liên kết kinh tế với doanh
nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học về liên kết với doanh nghiệp nước ngoài
để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Chương 2: Thực trạng liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài
để phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

- Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước
ngoài để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.


7

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LIÊN KẾT VỚI DOANH NGHIỆP
NƯỚC NGOÀI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1.

Khái quát chung về ngành công nghiệp hỗ trợ

1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công nghiệp hỗ trợ

1.1.1.1.

Khái niệm
Trước hết là khái niệm công nghiệp hỗ trợ của một số
nước trên thế giới:
Thuật ngữ công nghiệp hỗ trợ (CNHT – supporting industry) đã được
sử dụng rất rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước công
nghiệp phát triển, nhưng khái niệm về CNHT vẫn chưa có sự thống nhất.
Thuật ngữ CNHT được cho là có nguồn gốc từ Nhật Bản, sau này được
du nhập và sử dụng rộng rãi vào các nước châu Âu, châu Mỹ. Tài liệu chính
thức sử dụng thuật ngữ này là “Sách trắng về Hợp tác kinh tế” năm 1985 của
Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản (MITI) đã chính thức đưa
ra khái niệm CNHT, theo đó, CNHT được dùng để chỉ các doanh nghiệp nhỏ

và vừa (SMEs) có đóng góp trong việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở
các nước châu Á trong trung và dài hạn hay các SMEs sản xuất linh phụ kiện .
MITI đã đưa ra khái niệm CNHT với mục đích chính là nhằm thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa và phát triển các SMEs ở các nước ASEAN, đặc biệt là
ASEAN 4 . Sau đó, năm 1993, trong khuôn khổ Kế hoạch phát triển châu Á
mới (New AID plan), Nhật Bản đã giới thiệu thuật ngữ CNHT tới các nước
châu Á, lúc đó, CNHT được định nghĩa là các ngành công nghiệp cung cấp
những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hóa cơ bản
cho các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử) . Định
nghĩa này đã mở rộng phạm vi của ngành CNHT, từ các SMEs thành các
ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa trung gian và hàng hóa tư bản, tránh


8

việc đồng nhất CNHT với SMEs như ở một số nước châu Âu và châu Mỹ.
Hơn nữa, phạm vi của CNHT đã tính tới cả nguyên liệu thô và nó cũng liên
quan nhiều hơn tới sản xuất theo kiểu lắp ráp, nhấn mạnh vào các ngành công
nghiệp lắp ráp chính: ô tô, điện và điện tử.
Ngoài ra, trên thế giới còn có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CNHT,
mỗi khái niệm ở tùy từng nước lại có sự chênh lệch tương đối trong phạm vi
từng ngành CNHT. Mỗi khái niệm được đưa ra đều nhằm mục đích đảm bảo
sự tương thích giữa định nghĩa đó với mục tiêu của chính sách của mỗi quốc
gia. Các giáo sư trường Đại học Waseda, Nhật Bản cho rằng CNHT là khái
niệm để chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc
sản xuất các thành phẩm chính, cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng,
sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, … và cũng có thể bao gồm cả
những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế.
Khái niệm do giáo sư Michael E.Porter của Đại học Havard đưa ra vào
năm 1990 về “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ”, cho rằng CNHT thường

được đánh giá là một trong 4 yếu tố tạo nên lợi thế so sánh của một quốc gia.
CNHT tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp về sau bởi chúng cung cấp
nhiều loại đầu vào rất quan trọng nhằm tạo ra sự đổi mới trong sản xuất và tạo
ra những thuận lợi cho việc quốc tế hóa sản phẩm.
Bộ năng lượng Mỹ thì cho rằng CNHT là những ngành công nghiệp
cung cấp nguyên liệu và quy trình cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trước khi
chúng được đưa ra thị trường.
Thuật ngữ “công nghiệp phụ thuộc” được sử dụng rộng rãi tại Ấn Độ từ
đầu những năm 1950. Thuật ngữ này được định nghĩa trong Luật (Phát triển
và Điều chỉnh) Công nghiệp năm 1951 là “hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp có liên quan đến hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc sản


9

xuất linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, công cụ hoặc hàng hóa trung gian,
hoặc cung cấp dịch vụ,…”
Còn ở Thái Lan, CNHT được hiểu là Các doanh nghiệp sản xuất linh
phụ kiện được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp cuối cùng của các ngành
công nghiệp sản xuất ô tô, máy móc và điện tử.
Như vậy, rất nhiều định nghĩa về CNHT đã được đưa ra trên thế giới.
Mặc dù có sự khác nhau tương đối trong phạm vi ngành nhưng các khái niệm
về CNHT đều có nhấn mạnh tầm quan trọng của ngành CNHT – một ngành
sản xuất đầu vào cho thành phẩm. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hiện
nay khó có thể áp dụng bất kỳ khái niệm sẵn có nào về CNHT của nước ngoài
vì sự khác biệt về điều kiện kinh tế cũng như trình độ phát triển. Việt Nam cần
phải lựa chọn cho mình một định nghĩa phù hợp nhất với điều kiện kinh tế xã
hội hiện nay.
Khái niệm công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, thuật ngữ CNHT được chính thức sử dụng khá muộn, từ

năm 2003 khi chúng ta đang chuẩn bị tiến tới kí kết “Sáng kiến chung Việt
Nam – Nhật Bản” giai đoạn I (2003 – 2005).
Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung, mặc dù ngành CNHT cũng
có một vai trò hết sức quan trọng trong chính sách phát triển công nghiệp
nặng của Việt Nam, nhưng Việt Nam lại không chú ý tới khái niệm CNHT vì
lúc này các linh phụ kiện dùng cho các sản phẩm cuối cùng của ngành công
nghiệp nặng (như máy nông nghiệp, xe đạp, ô tô, …) đều được sản xuất trong
cùng một doanh nghiệp theo cơ cấu tích hợp chiều dọc. Tới khi thuật ngữ
CNHT được giới thiệu rộng rãi ở các nước châu Á tại các cuộc họp của Tổ
chức Năng suất châu Á (APO – Asian Productivity Organization) và Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) thì Việt Nam lại đang loay


10

hoay trong giai đoạn đầu của quá trình Đổi mới, cho nên một lần nữa Việt
Nam lại không dành sự quan tâm thích đáng cho ngành công nghiệp này.
Đến giữa những năm 1990, khi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng
nhanh, đặc biệt là trong các ngành sản xuất lắp ráp, các nhà đầu tư nước ngoài
đã vấp phải vấn đề rất lớn về nguồn cung cấp các sản phẩm đầu vào cho họ.
Chính vì thế, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản
đã nêu vấn đề này tới Chính phủ Việt Nam và đề nghị Chính phủ có những
biện pháp thích hợp để phát triển CNHT, giải quyết vấn đề cho các nhà sản
xuất lắp ráp. Chính vì vậy, “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản” đã được
chính thức ký kết vào tháng 4 năm 2003, theo Bản kế hoạch hành động triển
khai sáng kiến chung đã được thông qua sau đó gồm 44 hạng mục lớn, hạng
mục đầu tiên chính là nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam.
Theo Quyết định số 12/2011/QĐ-Ttg, ngày 22/2/2011 của Thủ tướng,
CNHT được hiểu: “Là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng
linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản

xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm
tiêu dùng”.
Công nghiệp hỗ trợ là một khái niệm rộng, có tính chất tương đối. Các
khái niệm có thể khác nhau, tuy nhiên phần lớn các khái niệm đều hàm chứa
các điểm chung như sau:
Thứ nhất, đó là việc cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích sản xuất
sản phẩm cuối cùng.
Thứ hai, các ngành CNHT bao gồm các công đoạn chủ yếu để sản xuất
các linh kiện kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử, nhằm phục vụ các
ngành công nghiệp lắp ráp và chế tạo.
Thứ ba, việc cung ứng này chủ yếu được đáp ứng bởi hệ thống doanh
nghiệp nhỏ và vừa có trình độ công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm có độ


11

chính xác lớn, thực hiện các cam kết hợp đồng với khách hàng một cách
chuẩn mực.
Thứ tư, khách hàng cuối cùng của các ngành CNHT là nhà lắp ráp. Do
vậy, thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm cho người tiêu
dùng cuối cùng.
1.1.1.2.Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ
Một là, CNHT có hiệu quả tăng dần theo quy mô. Có nghĩa là nếu có
một sự gia tăng đầu vào theo tỷ lệ nào đó sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu ra (sản
lượng) với tỷ lệ cao hơn. Các ngành CNHT như: tạo khuôn mẫu, gia công kim
loại, ép nhựa… cần nhiều vốn để đầu tư vào máy móc đắt tiền. Hơn nữa,
những máy móc này lại không thể chia nhỏ được (tức là không thể mua từng
phần máy móc được). Một khi đã đầu tư lắp đặt hệ thống máy móc thì chi phí
vốn cho nhà máy sẽ vẫn luôn ở một mức cố định cho dù hệ thống này được
vận hành liên tục 24 giờ/ ngày và 365 ngày/ năm, hay chỉ vận hành trong một

khoảng thời gian nhất định. Do vậy, chi phí vốn đơn vị sẽ tỷ lệ nghịch với
lượng sản phẩm đầu ra. Vì vậy, CNHT là một ngành có hiệu quả tăng dần
theo quy mô, và để một doanh nghiệp hỗ trợ có thể tồn tại thì sản xuất phải
đạt đến một mức sản lượng nhất định.
Hai là, lao động làm việc trong ngành CNHT thường đòi hỏi chuyên
môn cao hơn trong công nghiệp lắp ráp. Nếu như các doanh nghiệp lắp ráp sử
dụng nhiều nhân công không đòi hỏi trình độ cao để lắp ráp các bộ phận, thì
lao động ở các doanh nghiệp CNHT phần lớn đòi hỏi có trình độ cao hơn,
thường là các nhà vận hành máy móc, kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm,
các kỹ thuật viên và các kỹ sư. Vì máy móc trong CNHT phức tạp hơn nhiều
và các chi tiết, phụ kiện càng tinh xảo, phức tạp thì máy móc đòi hỏi công
nghệ càng phải hiện đại, và người vận hành càng cần phải có trình độ để có
khả năng vận hành. Đây là một điểm khó khăn cho các nước đang phát triển.


12

Các nước này không thể có đủ lao động có trình độ để đáp ứng cho các doanh
nghiệp hỗ trợ.
Ba là, ngành CNHT mang tính chuyên môn hóa sâu và hợp tác rộng rãi.
Một doanh nghiệp hỗ trợ không thể ôm đồm thực hiện tất cả các khâu
trong quá trình sản xuất từ sản xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ đến
lắp ráp bán thành phẩm và thành phẩm, hay làm nhiều loại sản phẩm cùng
một lúc. Thông thường, một doanh nghiệp hỗ trợ chỉ tập trung chuyên môn
hóa vào một khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất. Và cùng với quá trình
phân công lao đọng ngày càng sâu sắc, các doanh nghiệp sản xuất các sản
phẩm hỗ trợ không chỉ chuyên môn hóa theo từng sản phẩm mà còn theo từng
chi tiết, từng bộ phận của sản phẩm. Việc chuyên môn hóa giúp nâng cao
năng suất, giảm giá thành và cũng giúp ích cho việc đầu tư máy móc, công
nghệ hiện đại, áp dụng các dây chuyền sản xuất. Chuyên môn hóa sâu là cơ sở

dẫn tới nhu cầu phải có sự hợp tác rộng răi giữa các xí nghiệp để tạo ra sản
phẩm cuối cùng. Các linh kiện, phụ kiện để có thể tích hợp được với nhau thì
cần phải tuân theo những quy chuẩn chất lượng chung. Các cơ sở sản xuất
phải có mối quan hệ với nhau về mặt kỹ thuật và công nghệ.
Bốn là, các doanh nghiệp hỗ trợ thường là các công ty nhỏ và vừa
Các công ty nhỏ và vừa (SMEs) có khả năng chuyên môn hóa cao. Các
công ty này chỉ có thể đủ vốn để đầu tư chuyên môn hóa sản xuất một loại sản
phẩm hoặc một vài loại chi tiết nhất định, chứ không đủ tiềm lực để sản xuất
nhiều sản phẩm hay chi tiết cùng một lúc. Trên thế giới, các ngành công
nghiệp hỗ trợ thường được tiến hành tại các công ty nhỏ và vừa. Sự hoạt động
của các SMEs này luôn gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
hãng lớn và có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật với các hãng lớn. Khi
các mối liên hệ này trở nên thường xuyên và ổn định chúng trở thành vệ tinh
của các hãng lớn.


13

Năm là, các khách hàng của ngành CNHT có thể ở trong và ngoài
nước. Bên cạnh việc cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước, đối
với các nước có ngành CNHT phát triển, sản phẩm của ngành nay có thể xuất
khẩu sang các nước khác, cung cấp cho các công ty lắp ráp hay mạng lưới các
xí nghiệp chi nhánh của các TNCs nằm ở nước ngoài. Để thực hiện điều này,
các sản phẩm phải đảm bảo được tiêu chuẩn xuất khẩu, đáp ứng các yêu cầu
của nhà lắp ráp nước ngoài.
1.1.1.3. Vai trò của CNHT trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mọi sự chuyển
đổi của một nền kinh tế phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển của công nghiệp
và khoa học công nghệ. Do đó, sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ cũng

đóng góp vào quá trình phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vai trò của ngành CNHT thể hiện rõ ở một số khía
cạnh sau:
Một là, công nghiệp hỗ trợ phát triển giúp tăng cường thu hút vốn FDI
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, CNHT phát triển là một trong
những tiêu chí lựa chọn môi trường đầu tư tiềm năng. Gần đây, chi phí nhân
công rẻ không còn là lợi thế lớn của các nước tiếp nhận đầu tư, mà chính
CNHT phát triển mới là điều hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Theo điều
tra của JETRO tiến hành tại các cơ sở lắp ráp cơ khí của các nhà đầu tư Nhật
Bản ở Đông Nam Á, chi phí linh kiện, phụ tùng chiếm đến 70 – 90% giá
thành sản phẩm, chi phí nhân công chỉ chiếm khoảng 10% . Chính vì thế, dù
một nước có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển thì môi trường
đầu tư cũng trở nên kém hấp dẫn. Phát triển CNHT là điều kiện để thu hút
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.


14

Hơn nữa, CNHT phát triển thu hút được nhiều vốn FDI cũng giúp nước
nhận đầu tư phát triển công nghệ, kỹ năng quản lý cũng như đào tạo nhân lực
bởi vì ngoài nguồn vốn tư bản, nhà đầu tư cũng tiến hành chuyển giao công
nghệ hiện đại và kỹ năng lao động và quản lý chuyên nghiệp sang các nước
tiếp nhận đầu tư. Như vậy, CNHT phát triển sẽ góp phần quan trọng trong đổi
mới sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm của một quốc gia.
Việc phát triển CNHT dẫn tới thu hút nhiều vốn FDI sẽ dẫn tới sự phát triển
toàn diện trong nền kinh tế của một quốc gia.
Hai là, công nghiệp hỗ trợ phát triển đẩy mạnh quá trình chuyên môn
hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất
Thực tiễn ở các nước công nghiệp hiện đại đã cho thấy, chuyên môn
hóa giúp tận dụng tối đa lợi thế so sánh của doanh nghiệp, quốc gia, từ đó

thúc đẩy nền công nghiệp ngày càng phát triển theo hướng có lợi. Khi doanh
nghiệp phải thực hiện tất cả các công đoạn trong quá trình sản xuất, nguồn lực
sẽ bị chia nhỏ, từ đó không có điều kiện phát huy khả năng nổi trội nhất của
mình, hiệu quả sản xuất sẽ bị giảm sút. Phát triển CNHT giúp các doanh
nghiệp không phải thực hiện tất cả các khâu từ sản xuất nguyên vật liệu, máy
móc, công cụ, lắp ráp… Với sự phát triển của CNHT, các doanh nghiệp chỉ
cần tập trung chuyên môn hóa vào một khâu mà mình có khả năng làm tốt
nhất và từ đó sẽ đầu tư tiền của, công sức nâng cao hiệu quả, chất lượng của
sản phẩm mình làm ra.
Hơn nữa, với sự phát triển của các doanh nghiệp chuyên sản xuất linh
kiện, phụ tùng, tư liệu sản xuất đầu vào,… các doanh nghiệp lắp ráp, chế tạo
sản phẩm cuối cùng sẽ không phải lo sản xuất hay nhập khẩu các sản phẩm
đầu vào. Các doanh nghiệp hỗ trợ sẽ tập trung nghiên cứu, thiết kế để sản xuất
ra các sản phẩm đầu vào ngày càng đạt các tiêu chuẩn chất lượng tốt hơn,
năng suất hơn đáp ứng cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp. Quá trình tạo


15

ra thành phẩm nhờ đó nhanh hơn, sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn, hiệu quả
kinh tế nhờ đó cũng tăng lên. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất
sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm hỗ trợ cũng như sản phẩm cuối
cùng tại một quốc gia.
Ba là, công nghiệp hỗ trợ phát triển tạo công ăn việc làm và cải thiện
cơ cấu lao động theo hướng tích cực:
Các quốc gia có nền CNHT kém phát triển thường là những nước có
nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp. Vì thế mà các doanh
nghiệp trong nước vẫn phải nhập khẩu các sản phẩm CNHT để tiến hành sản
xuất và xã hội thì vẫn tồn tại một số lượng lớn lao động không có công ăn
việc làm. CNHT phát triển có vai trò tạo thêm việc làm cho người lao động

trong lĩnh vực công nghiệp. CNHT phát triển khiến nhu cầu tuyển dụng của
các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng tăng cao, những người lao động ở
các làng quê muốn có công ăn việc làm phải tham gia các lớp học nghề, các
trường trung cấp hay cao đẳng, đại học để bắt kịp với nhu cầu tuyển dụng của
các doanh nghiệp. Với mức bao phủ rộng các ngành công nghiệp, số lượng
việc làm mà CNHT tạo ra sẽ là không nhỏ. Môi trường đầu tư sẽ trở nên hấp
dẫn hơn nhờ CNHT phát triển, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cũng
muốn tuyển dụng thêm lao động phổ thông trong nước để giảm chi phí nhân
công. CNHT càng phát triển đòi hỏi chất lượng lao động cũng phải ngày một
nâng cao để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của nhà sản xuất. Một bộ phận các
doanh nghiệp sẽ thực hiện chủ trương đào tạo tay nghề cho nhân công để
nâng cao chất lượng sản phẩm. Cơ cấu lao động nhờ đó ngày càng phát triển
theo hướng tích cực.
Bốn là, ông nghiệp hỗ trợ giúp phát triển ngành công nghiệp nội địa
CNHT đáp ứng được nhu cầu sản phẩm đầu vào chất lượng cho các
ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp sẽ giúp phát triển ngành công nghiệp nội


16

địa nói chung. Có thể thấy, việc phát triển ngành CNHT trong nước sẽ tạo đà
cho các ngành công nghiệp khác phát triển do có sự chuyên môn hóa trong
khâu cung cấp nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ sản xuất. Hơn nữa,
các sản phẩm cuối cùng được giảm giá thành do việc cung cấp nguyên vật
liệu trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Mặt khác, chất lượng sản phẩm
cũng ngày một nâng cao phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng một khi
ngành CNHT được chú trọng phát triển.
Để minh họa cho vai trò này chúng ta có thể nhìn vào lịch sử phát triển
kinh tế của Nhật Bản. Trong giai đoạn phát triển thần kì của mình, Nhật Bản
đã xây dựng cơ cấu kinh tế “hai tầng”, chú trọng ngay từ đầu khâu cung ứng

nguyên vật liệu đầu vào, đây chính là nền tảng của việc hình thành nền CNHT
sau này. Thời kỳ này Nhật Bản đã thành lập các doanh nghiệp vệ tinh vừa và
nhỏ trong nước có khả năng cung cấp và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn những
sản phẩm cấp thấp hơn hoặc những sản phẩm sơ chế,… để có thể tạo ra thế
chủ động trong sản xuất của các doanh nghiệp này.
Năm là, công nghiệp hỗ trợ phát triển tạo tiền đề cho phát
triển bền vững
CNHT là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống sản
xuất hiện đại. Một hệ thống sản xuất hiện đại bao gồm nhiều quá trình: sản
xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ, các bộ phận, quá trình lắp ráp bán
thành phẩm và thành phẩm,… Trong đó, CNHT thực hiện công đoạn sản xuất
các bộ phận công cụ, máy móc chất lượng cao hỗ trợ trực tiếp quá trình lắp
ráp, sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Như vậy, CNHT phát triển mới tạo nên
được sự bền vững trong hệ thống sản xuất mà nếu không phát triển CNHT thì
nền công nghiệp của một quốc gia sẽ mãi chỉ là gia công, lắp ráp đơn thuần,
phải phụ thuộc nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài, khi đó giá trị
gia tăng cho sản phẩm cuối cùng không cao, thu nhập thực tế của người lao


17

động thấp, không tương xứng với công sức lao động bỏ ra. CNHT cũng giúp
cho các ngành công nghiệp chủ đạo sẽ chủ động trong quá trình sản xuất,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm của mình, từ đó thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển bền
vững trong tương lai.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
công nghiệp hỗ trợ
1.1.2.1. Quy mô cầu của thị trường.
Thực tế đã phản ánh rằng, so với ngành công nghiệp lắp ráp đòi hỏi lao

động số lượng lớn thì ngành CNHT lại yêu cầu vốn lớn, máy móc kỹ thuật
hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc điểm của CNHT là loại hình
công nghiệp có hiệu quả tăng dần theo quy mô. Để giảm thiểu chi phí trên
một đơn vị sản phẩm, các doanh nghiệp phải tăng quy mô và công suất hoạt
động. Sản phẩm của CNHT là các sản phẩm máy móc, linh kiện, phụ tùng
khó có thể được làm thủ công. Các chi tiết càng tinh xảo, phức tạp và chi phí
càng cao thì sau khi đã đầu tư, doanh nghiệp càng sản xuất nhiều, tỉ lệ giữa
chi phí cố định trên một sản phẩm càng giảm xuống, và điều này mang lại
hiệu quả, giúp mau chóng bù đắp được chi phí đầu tư ban đầu. Đây chính là lý
do tại sao các nhà sản xuất linh, phụ kiện cần được đảm bảo dung lượng thị
trường phải đủ lớn (hoặc dung lượng thị trường sẽ lớn trong tương lai gần)
trước khi họ quyết định đầu tư vào. Nếu một quy mô cầu đủ lớn, sẽ là nhân tố
thuận lợi giúp phát triển CNHT. Đây là một thách thức đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam. Do khan hiếm về vốn nên không được đảm bảo đầu
ra, doanh nghiệp không thể mạnh dạn bỏ ra số tiền lớn để đầu tư mạo hiểm.
Trường hợp dung lượng thị trường trong nước hạn hẹp, nhưng lại có thể
tìm kiếm được thị trường xuất khẩu, thì CNHT vẫn có thể phát triển. Đối với
các nhà cung cấp linh kiện, điều này có thể tiến hành trực tiếp thông qua việc


18

xuất khẩu linh kiện hoặc tiến hành gián tiếp thông qua việc cung cấp linh kiện
cho các nhà lắp ráp nội địa có khả năng xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng.
1.1.2.2. Kênh thông tin của ngành CNHT.
Trên bất cứ thị trường nào cũng xảy ra tình trạng thông tin bất cân xứng,
Đặc biệt trong ngành CNHT, việc chia sẻ và nắm bắt thông tin giữa các nhà
cung cấp sản phẩm CNHT và các doanh nghiệp lắp ráp chính là yếu tố quyết
định. Kênh thông tin tốt có thể giúp các nhà lắp ráp và các doanh nghiệp hỗ trợ
có thể tìm đến nhau. Doanh nghiệp hỗ trợ biết được các nhà lắp ráp đang có

nhu cầu gì, số lượng sản phẩm là bao nhiêu, chất lượng như thế nào và các
doanh nghiệp lắp ráp có thể biết được doanh nghiệp cung cấp mà họ có thể hợp
tác đang ở đâu. Và kênh thông tin cũng giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận
được với các nguồn vốn để có thể mua sắm máy móc và trang thiết bị doanh
nghiệp. Tình trạng thiếu thông tin sẽ cản trở giao dịch giữa nhà sản xuất CNHT
và doanh nghiệp lắp ráp, nhất là doanh nghiệp FDI, khi họ phải tiêu tốn nhiều
thời gian và tiền bạc vào việc tìm kiếm các nhà cung ứng nội địa, các nhà lắp
ráp FDI sẽ không muốn đầu tư vào quốc gia đó. Như vậy, CNHT sẽ không có
điều kiện phát triển. Trường hợp ngược lại, khi các nhà cung cấp nội địa muốn
cung ứng cho các nhà lắp ráp nhưng do chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nên mức độ tiếp cận thông tin còn hạn chế, dẫn đến cung không gặp được
cầu, tất yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành CNHT.
Bên cạnh đó, kênh thông tin giữa Chính phủ và cộng đồng doanh
nghiệp được thực hiện một cách hiệu quả sẽ tạo điều kiện tốt cho việc hoạch
định chính sách dành cho CNHT, cũng như sự phối kết hợp giữa các bộ ngành
liên quan. Quá trình hoạch định chính sách cần có sự tham gia của những
công ty đóng vai trò chủ chốt, đặc biệt là các công ty tư nhân và các doanh
nghiệp FDI. Nếu không có các kênh thông tin hiệu quả để trao đổi thông tin
và các mối quan tâm giữa cộng đồng doanh nghiệp và các nhà hoạch định


19

chính sách thì chính sách được hoạch định sẽ không hiệu quả, thiết thực và
khó có thể thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT.
1.1.2.3. Sự tương đồng về năng lực công nghệ trong liên kết.
Hiện nay, sự chênh lệch về tiêu chuẩn, chất lượng giữa nhà cung cấp
nội địa và doanh nghiệp lắp ráp là một yếu tố cản trở sự phát triển của
CNHT. Trong khi các doanh nghiệp cung cấp phàn nàn về việc các nhà lắp
ráp đòi hỏi và yêu cầu quá khắt khe vê tiêu chuẩn cũng như chất lượng của

sản phẩm thì các nhà lắp ráp lại cho rằng các sản phẩm của doanh nghiệp
trong nước có chất lượng thấp, không thể sử dụng trong quá trình lắp ráp, dẫn
đến tình huống nhà lắp ráp phải tìm đến nguồn cung ứng từ nước ngoài, tuy
giá thành đắt nhưng tiêu chuẩn lại hoàn toàn phù hợp. Còn doanh nghiệp sản
xuất trong nước thì không có nguồn tiêu thụ nên càng không dám đầu tư vào
máy móc hiện đại để có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao.
Vì thế, ngành CNHT trong nước không có điều kiện để phát triển. Việc xây
dựng những tiêu chuẩn công nghiệp, các trung tâm kiểm định chất lượng là
rất cần thiết vì nó giúp các doanh nghiệp hỗ trợ có thể biết được vị trí chất
lượng sản phẩm của mình đang đứng ở đâu, có được định hướng trong phát
triển và đầu tư hay không. Các nhà lắp ráp cũng có thể dễ dàng hơn trong việc
mua sắm các sản phẩm hỗ trợ, kiểm tra chất lượng sản phẩm và lựa chọn nhà
cung cấp.
1.1.2.4. Chất lượng nguồn nhân lực.
Ngành CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Có
nhận định rằng: nguồn nhân lực còn là yếu tố quan trọng hơn cả máy móc
hiện đại. Vì bất kỳ quốc gia nào cũng có thể sở hữu dây chuyền máy móc
công nghệ hiện đại, nếu chỉ dựa vào chúng thh́ hoàn toàn không thể tạo ra được
khả năng cạnh tranh quốc tế. Sự thành công hay thất bại của nền CNHT của
một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và những


20

người trực tiếp vận hành máy móc, phụ thuộc vào những phát minh, khả năng
sáng tạo và những cải tiến không ngừng của nguồn lực này.
1.1.2.5. Quan hệ liên kết toàn cầu và ảnh hưởng của các tập đoàn
xuyên quốc gia.
Mạng lưới phân công lao động ngày càng chặt chẽ khiến cho khái niệm
ngành công nghiệp của một nước đang mờ dần và bị thay thế bởi khái niệm

ngành công nghiệp của khu vực và cao hơn là châu lục. Mạng lưới phân công
lao động không chỉ bó hẹp trong một nước, mà đã mở rộng ra trên cả khu vực
hay toàn cầu. Các nước đang hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực công nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến mỗi quốc gia trong việc quyết
định mức độ đầu tư vào các ngành CNHT trong nước mình. Việc đầu tư phải
phù hợp không những với tình hình trong nước mà còn với thế giới, với các
liên kết mà quốc gia đó tham gia.
Các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
kinh tế quốc tế. Với nguồn lực to lớn về tài chính, khoa học công nghệ, các
tập đoàn này có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng với chiến lược phát
triển và thương hiệu thống nhất, các bộ phận trong mạng lưới đó được chuyên
môn hóa hợp lý nhằm khai thác lợi thế mỗi quốc gia và mỗi khu vực. Chiến
lược, chính sách đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia vào một nước sẽ có
nhiều ảnh hưởng đến ngành CNHT của nước đó.
1.1.2.6. Chính sách của Chính phủ
Để phát triển ngành CNHT thì mối quan hệ hai chiều giữa nhà cung cấp
và doanh nghiệp lắp ráp là rất quan trọng, nhưng thực tế mối quan hệ này
chưa thực sự rõ ràng lắm: doanh nghiệp lắp ráp chưa tin tưởng ở nhà cung
cấp, nếu có hỗ trợ cũng chỉ là gửi chuyên gia đào tạo tại chỗ, gửi bản vẽ
khuôn mẫu… nên ngành CNHT rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước.


21

Nhà nước có các định hướng về sự phát triển công nghiệp hỗ trợ. Định
hướng của Nhà nước sẽ quyết định các bước đi và tương lai của ngành CNHT.
Khi ngành CNHT còn chưa phát triển, thì vai trò chính sách của Chính phủ lại
càng quan trọng. Các chính sách sẽ đóng vai trò như những cú hích cho các
doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về vốn, lao động,
thông tin, từ đó đưa công nghiệp hỗ trợ phát triển. Các chính sách hỗ trợ phát

triển khu vực CNHT bao gồm: chính sách nội địa hóa, chính sách đầu tư và
phát triển CNHT, chính sách thuế đánh vào nhập khẩu và khâu sản xuất các
sản phẩm hỗ trợ, mức độ đầu tư của Nhà nước vào nghiên cứu khoa học và
công nghệ ở khu vực CNHT.
Trên cơ sở các nhân tố ảnh hưởng nêu trên cho thấy: để phát triển
CNHT cần phải đảm bảo các điều kiện tiên quyết sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghiệp
như: cơ cấu công nghiệp hợp lý; các hoạt động công nghiệp cơ bản phát triển;
năng lực sản xuất và tham gia phân công lao động quốc tế tốt.
Thứ hai, phải đảm bảo điều kiện về thị trường bao gồm: nhu cầu thị
trường linh phụ kiện; khả năng liên kết;
1.2. Liên kết kinh tế với các doanh nghiệp nước
ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ trong quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam.
1.2.1. Sự cần thiết của việc liên kết kinh tế và nội dung của liên kết
kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
1.2.1.1 . Sự cần thiết của việc liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước
ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp là một nhu cầu của quá trình sản
xuất kinh doanh nhằm bảo đảm kinh doanh của doanh nghiệp đạt lợi nhuận
cao nhất. Liên kết kinh tế là quan hệ kinh tế có sự chặt chẽ, rõ ràng, dựa trên


22

sự phân công và hợp tác trong sản xuất kinh doanh bao gồm những phân
công, hợp tác trực tiếp (nội bộ công ty) và những phân công, hợp tác gián tiếp
giữa các công ty.
Tiến trình toàn cầu hóa đánh thức toàn bộ các khu vực trên thế giới dù
đó là khu vực hẻo lánh, xa xôi nhất. Tất cả các quốc gia, tất cả các doanh

nghiệp đều cố gắng chen chân vào mắt xích của nền kinh tế, tham gia vào
mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi giá trị toàn cầu. Liên kết kinh tế đã tồn tại từ
rất lâu trong nền kinh tế thế giới, nhưng tiến trình toàn cầu hóa và công nghệ
hóa làm thay đổi hoàn toàn phương thức liên kết giữa các công ty và các quốc
gia – phương thức liên kết kinh tế theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa các
doanh nghiệp trong phạm vi một nước, giữa các doanh nghiệp nước ngoài với
doanh nghiệp nội địa. Đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp của các quốc gia
đang phát triển, đòi hỏi sự liên kết kinh tế trong các ngành công nghiệp có
trình độ công nghệ cao, chất lượng lao động đảm bảo, cơ chế chính sách hỗ
trợ sự liên kết kinh tế đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước…, nhất là
đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Vấn đề phải phát triển CNHT tại Việt Nam hiện nay đã trở thành yêu
cầu bức thiết bởi Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong
khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài, đối phó với sự tràn ngập của hàng hóa
Trung Quốc, một số nước trong khu vực và áp lực từ hội nhập quốc tế.
Như một vai trò của CNHT, Việt Nam cần phát triển CNHT để thu hút
đầu tư nước ngoài. Trong những năm 1980, luồng đầu tư nước ngoài từ các
MNCs ồ ạt đổ vào các nước đang phát triển vì ở đây có chi phí nhân công rẻ.
Ngày nay, khi các MNCs lựa chọn địa điểm đầu tư, họ không chỉ xét đến lợi
thế về chi phí nhân công rẻ mà còn tính đến các lợi thế só sánh khác về đầu
vào sản xuất như linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sản xuất, những yếu tố giúp họ
có thể cạnh tranh được về giá và chất lượng. Quá trình công nghiệp hóa - hiện


23

đại hóa đất nước, Việt Nam rất cần đến nguồn vốn đầu tư của các doanh
nghiệp nước ngoài để phát triển nền kinh tế. Do đó, phát triển CNHT, tạo môi
trường đầu tư thuận lợi nhằm thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt
Nam hiện nay là một yêu cầu bức thiết thiết.

CNHT phát triển cũng sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập với kinh
tế quốc tế và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Áp lực toàn cầu hóa không
cho phép bất kỳ nước nào bảo hộ công nghiệp của mình bằng các biện pháp phi
thuế hoặc chính sách bảo hộ. Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng
kiến sự hình thành các hệ thống kinh tế quy mô toàn cầu có liên kết chặt chẽ và
được quản lý trên cơ sở từng ngày. Nhiều doanh nghiệp có hoạt động và quan
hệ thương mại trên phạm vi quốc tế, và mọi hoạt động được phân chia giữa các
doanh nghiệp trải rộng khắp thế giới. Ngày nay, quá trình phát triển kinh tế
không thể tách rời khỏi các hệ thống toàn cầu này. CNHT sẽ giúp Việt Nam đa
dạng hóa sản phẩm thương mại, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và liên kết
chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp nước ngoài và các MNCs.
Sự liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài còn là một trong những
giải pháp hiệu quả để nâng cao trình độ công nghệ, làm tăng năng lực liên kết
của các doanh nghiệp: Các sản phẩm hỗ trợ được cung cấp cho các doanh
nghiệp lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, do vậy đòi hỏi có tính tiêu chuẩn cao, chất
lượng sản phẩm tốt, độ bền, độ chính xác cao… Bên cạnh đó, việc sản xuất và
cung ứng cần phải tuân thủ những yêu cầu rất nghiêm ngặt về quy trình sản
xuất, quản lý chất lượng, quan hệ hợp tác và liên kết của doanh nghiệp lắp ráp.
Do vậy, để tham gia chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ
trợ phải có năng lực liên kết công nghiệp và hợp tác tốt. Để chế tạo các sản
phẩm đạt yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, các doanh nghiệp dù quy
mô nhỏ nhưng vẫn đòi hỏi trình độ công nghệ và kỹ thuật cao.


24

Như trên đã đề cập, CNHT là ngành quan trọng cho sự phát triển của
kinh tế Việt Nam nói chung và của doanh nghiệp Việt nói riêng. CNHT không
phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm
cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm

này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá
nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa
nói đến những rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu… Vì lý do này,
công nghiệp hỗ trợ không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu
sức cạnh tranh và phạm vi cũng giới hạn trong một số ít các ngành.
Chúng ta kỳ vọng nhận được đầy đủ từ tác động và sự lan tỏa tích cực
do nguồn vốn đầu tư nước ngoài mang lại: sẽ tiếp cận được kỹ năng quản lý,
được chuyển giao công nghệ tiên tiến, thúc đẩy CNHT phát triển và những tác
động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thông qua sự
liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước,
tạo thêm động lực cạnh tranh, tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện
nguồn nhân lực, … đưa đất nước Việt Nam phát triển hơn.
1.2.1.2. Nội dung của liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để
phát triển công nghiệp hỗ trợ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các mối liên kết công nghiệp có vai trò rất lớn trong việc phát triển
CNHT và hướng tới phát triển công nghiệp bền vững. Các mối liên kết công
nghiệp ở đây không chỉ là những liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất lắp
ráp với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ mà còn bao gồm cả mối
liên kết giữa những doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp nội địa trong
cả ngành sản xuất lắp ráp và CNHT. Việc hình thành nên các mối liên kết
càng dày đặc và chặt chẽ sẽ càng giúp Việt Nam nhanh chóng phát triển công
nghiệp, theo kịp các nước trong khu vực.


25

Để khắc phục tình trạng khép kín, ngăn cách giữa doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam cần phải thực hiện tốt một số nội
dung cơ bản nhằm hướng tới một mặt bằng kinh doanh bình đẳng.
Kết quả của một cuộc điều tra mới đây cho thấy, hơn 70% doanh

nghiệp vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ
nước ngoài. Trong khi đó, một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc
thu hút được FDI nhiều và liên tục là vì CNHT trong nước của họ kết nối tốt
với các khu vực FDI, điều mà các nhà đầu tư rất cần vì họ có thể giảm được
giá thành phẩm.
Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực từ 1/7/2006 đã làm
cho thể chế kinh tế thị trường của nước ta hoàn thiện hơn, phù hợp với
nguyên tắc của kinh tế thị trường, đồng thời nó đã khuyến khích mạnh mẽ đầu
tư của nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, Chính phủ cần tổ chức những
diễn đàn đối thoại để ba bên: doanh nghiệp nội địa – doanh nghiệp vốn đầu tư
nước ngoài – Chính phủ cùng thảo luận và đưa ra những mục tiêu, lĩnh vực
cụ thể nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
Chính phủ đưa ra các biện pháp nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động của các Hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến các sản phẩm hỗ trợ để tạo
cầu nối giữa các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các hãng chính (các nhà lắp
ráp FDI) và giữa doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các doanh nghiệp nước
ngoài, đảm nhận được vai trò của người xúc tiến đầu tư với năng lực bảo lãnh
tốt đối với các khoản tín dụng trong và ngoài nước cho việc đầu tư phát triển
khối các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa.
Đa dạng hoá trong hợp tác, liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam để cung ứng các linh kiện, sản phẩm hỗ trợ. Đối với các
dự án sản xuất điện tử, tin học thì để cho ra đời một sản phẩm hoàn chỉnh thì
cần tới hàng trăm linh kiện khác nhau và xu thế chung của thế giới là sự phân


×