Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.02 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TỔ CHỨC
QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN

NGUYỄN VĂN HÙNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TỔ CHỨC
QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN
NGUYỄN VĂN HÙNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác do các cơ
quan chức năng đã công bố. Các thông tin, số liệu ghi trong luận văn đều
được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa sau Đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội, được
sự đồng ý của Cô giáo hướng dẫn TS. Trần Thị Bảo Ánh tôi đã thực hiện đề tài
“Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án”.
Để hoàn thành Luận văn này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
giáo, cô giáo Khoa sau Đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội, là những người đã
truyền thụ kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Trần Thị Bảo Ánh, người đã
trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và đặc biệt là sự động viên,
khích lệ của gia đình đã giúp tôi thực hiện và hoàn thành tốt Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2018
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN ........................6
1.1.


Tranh chấp tổ chức quản lý công ty ..........................................................6

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp tổ chức quản lý công ty ...................6

1.1.2.

Các loại tranh chấp, tổ chức quản lý công ty ..............................................10

1.1.3.

Nguyên nhân phát sinh tranh chấp tổ chức quản lý công ty .......................11

1.2.

Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án ................12

1.2.1.

Khái niệm giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án ......12

1.2.2.

Đặc điểm của giải tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án...........13

1.2.3.

Sự khác biệt trong giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng

Tòa án với các hình thức giải quyết tranh chấp khác ..................................15

1.2.4.

Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty
bằng Tòa án .................................................................................................20

1.3.

Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty của một
số nước ........................................................................................................21

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...........................................................................24
2.1.

Các quy định của pháp luật tố tụng về giải quyết tranh chấp tổ
chức quản lý công ty tại Tòa án ...............................................................24

2.1.1.

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty ...................24

2.1.2.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty .......................28

2.1.3.


Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty .................37

2.2.

Thực trạng pháp luật nội dung giải quyết tranh chấp tổ chức
quản lý công ty tại Tòa án ........................................................................39


2.3.

Đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty
qua một số vụ án cụ thể ............................................................................43

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT
NAM……………………………………………………………..………………...51
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tổ
chức quản lý công ty tại Tòa án ở nước ta ..............................................51
3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án ở
Việt Nam.....................................................................................................53

3.2.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức quản lý doanh nghiệp ...............54


3.2.2.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng của Tòa án .................................60

3.2.3.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật giải quyết tranh
chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án ở Việt Nam ..................................61

KẾT LUẬN ..............................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................67


DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

ĐHĐCĐ:

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT:

Hội đồng quản trị

LDN:

Luật Doanh nghiệp


TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng đã đưa ra phương
hướng về chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó nước ta bắt đầu thực hiện
đường lối đổi mới với nội dung chính: Chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang vận
hành theo cơ chế thị trường; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong
đó khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng và chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới một cách phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Đây
chính là thay đổi bước ngoặt trong đời sống chính trị xã hội Việt Nam và nhất là về
góc độ kinh tế. Cụ thể hóa tư tưởng, phương hướng lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp
1992 được Quốc hội Việt ban hành cùng theo đó là các văn bản pháp lý mới. Với sự
xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế trong xã hội, Luật Công ty 1990 được ban
hành điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp ở nước ta thời điểm đó
và thường xuyên được nhà nước sửa đổi, bổ sung, thay mới để phù hợp với thực
tiễn xã hội Việt Nam và các loại hình doanh nghiệp.
Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng cũng như quy mô hoạt động của
các công ty tại Việt Nam việc phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể hoạt động công
ty là một tất yếu. Ngoài việc tranh chấp xảy ra giữa các công ty thì tranh chấp trong
nội bộ công ty ngày càng gia tăng và phức tạp. Có rất nhiều các loại tranh chấp
trong nội bộ công ty như các tranh chấp liên quan dến chia tách, sáp nhập công ty,
việc góp vốn của các thành viên và vấn đề tăng, giảm vốn điều lệ v.v.. Các tranh
chấp trong nội bộ công ty ngày càng mang tính đa dạng và phực tạp do sự phát triển
trong đời sống kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong các tranh chấp trong nội
bộ doanh nghiệp hiện nay, tranh chấp về việc tổ chức quản lý công ty là một trong

những loại tranh chấp phổ biến, chính vì vậy pháp luật đã có những quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này như giải quyết tranh

1


chấp bằng hòa giải, bằng trọng tài, bằng Tòa án. Với thẩm quyền xét xử của mình,
Tòa án có thẩm quyền đưa ra các bản án quyệt định để giải quyết các tranh chấp
kinh tế nói chung cũng như tranh chấp trong tổ chức quản lý công ty nói riêng. Việc
giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án có ưu điểm và tính cưỡng chế cao cho nên
có thể giải quyết nhanh chóng và dứt điểm các tranh chấp. Hiện nay, luật Doanh
nghiệp, luật Tố tụng dân sự v.v.. đều có những quy định cụ thể về hình thức, nội
dung để giải quyết tranh chấp quản lý tổ chức doanh nghiệp bằng hình thức Tòa án.
Tuy nhiên các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn có những thiếu sót và tồn
đọng dẫn đến nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật để nâng
cao hoạt động giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý doanh nghiệp bằng Tòa án có ý
nghĩa quan trọng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì
vậy, tôi chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án” để
nghiên cứu nhằm phân tích những vẫn đề ưu điểm và hạn chế của hình thức này để
từ đó có những phân tích và kiến nghị để nâng cao hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính vì tầm quan vấn đề này đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta
hiện nay cho nên trong khoảng 10 năm trở lại đây, tranh chấp nội bộ công ty nói
chung và việc giải quyết tranh chấp về tổ chức quản lý công ty tại Tòa án nói riêng
luôn nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các cá nhân, tổ chức
hoạt động trong thực tiễn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này như: Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2005 “Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh của Tòa án – những điểm mới và các vấn đề đặt ra cho thực tiễn thi
hành” của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2006
“Thẩm quyền giải quyết các vụ việc vè kinh doanh, thương mại của Tòa án Việt

Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu;
Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2006 “Giải quyết tranh chấp công ty theo thủ tục tư
pháp – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh; Luận
văn thạc sĩ Luật học năm 2008 “Giải quyết tranh chấp giữa các cổ đông và giữa cổ
đông với người quản lý công ty trong công ty cổ phần” của tác giả Trần Duy Bình;

2


Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2010 “Tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật
Doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hiền; Pháp luật giải quyết tranh chấp
nội bộ công ty: nhận thức, thực trạng và cải cách (Ngô Huy Cương, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2012, tr. 48 – 58). Các công
trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về tranh chấp trong tổ chức, quan lý công ty và hoạt động giải quyết bằng Tòa án.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả thấy rằng hiện nay vấn chưa có đề tài
nào tập trung chuyên sâu vào phân tích khía cạnh giải quyết tranh chấp tổ chức
quản lý công ty bằng hình thức Tòa án. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, mặc
dù đề tài nghiên cứu về sau này và đã có rất nhiều những nghiên cứu đi trước tuy
nhiên đây vẫn là đề tài đầu tiên, tập trung vào giải quyết vấn đề giải quyết tranh
chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án. Đây là đề tài khoa học hoàn toàn mới và
không trùng lặp với các đề tài trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá hoạt động giải quyết
tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án, luận văn góp phần làm sáng tỏ các
quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, cũng như nội dung của hoạt động này để
từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc giải

quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án. Trong đó tập trung nghiên cứu
các vấn đề: Các loại hình tranh chấp về tổ chức quản lý công ty hiện nay; quy định
của pháp luật hiện hành về việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án; những kết quả đạt
được và vấn đề còn tồn đọng hiện nay của hoạt động này. Thông qua đó, luận văn
có thể đưa ra những giải pháp, đóng góp khoa học để áp dụng cho phù hợp với thực
tiễn từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý
công ty tại Tòa án hiện nay từ đó tạo ra những đổi mới, phát triển, thúc đẩy nền kinh
tế xã hội nói chung.
3


Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực tiễn giải
quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty qua các vụ án cụ thể tại các Tòa án Việt
Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: Các tranh chấp pháp sinh trong tổ chức
quản lý công ty tại Việt Nam hiện nay; hoạt động giải quyết tranh chấp nội bộ
doanh nghiệp bằng hình thức Tòa án. Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn chủ
yếu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề này để
rút ra kiến nghị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử,
so sánh, tổng hợp, nghiên cứu tình hình thực tiễn hoạt động áp dụng trong quá trình
xét xử. Qua nghiên cứu đó rút ra những thành tựu cũng như những tồn tại, hạn chế
của hoạt động giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đề ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả.
6. Những điểm mới của luận văn
Đề tài tác giả chọn là đề tài đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu vấn đề giải quyết
tổ chức quản lý công ty tại Tòa án. Qua phân tích, nghiên cứu hệ thống pháp lý, kết

quả xét xử bằng các phương pháp khác nhau, luận văn đạt được kết quả sau đây:
- Phân tích được đặc điểm, vai trò, sự cần thiết của giải quyết tranh chấp tổ
chức quản lý công ty tại Tòa án hiện nay.
- Phân tích được cơ sở pháp lý, các quy định của pháp luật hiện hành về việc
giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án hiện nay.
- Luận văn cũng nêu ra được những hạn chế bất cập, từ đó đưa ra các giải
pháp để hoàn thiện vấn đề này.

4


7. Cơ sở khoa học của đề tài
7.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
7.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án
qua một số bản án, báo cáo thông kê.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn sẽ được thực hiện với một khối lượng phù hợp với yêu cầu trên
cơ sở mục đích, phạm vi, nhiệm vụ và mức độ nghiên cứu của vấn đề. Trên cơ sở
yêu cầu trên, luận văn được chia làm ba phần gồm lời nói đầu, phần nội dung và
phần kết luận.
- Phần mở đầu là lập luận về sự cần thiết của việc lựa chọn đề tài nghiên cứu
và các luận điểm mang tính chất đặt vấn đề.
- Phần nội dung đi sâu vào phân tích những vấn đề nghiên cứu chính của đề
tài đồng thời đưa ra bình luận và giải pháp.
- Phần kết luận tổng kết những vấn đề lý luận, thực trạng và thực tiễn vấn đề
mà đề tài nêu ra.
* Cụ thể luật văn sẽ có kết cấu như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý
công ty tại Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý
công ty tại Tòa án và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Định hướng hoàn thiện và một số giải nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại Tòa án ở Việt Nam.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY TẠI TÒA ÁN
1.1. Tranh chấp tổ chức quản lý công ty
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp tổ chức quản lý công ty
Công ty là một chủ thể chủ yếu của nền kinh tế thị trường và ngày càng được
phát triển mạnh mẽ về số lượng, tính chất và quy mô hoạt động. Các văn bản luật về
tổ chức quản lý công ty được nhà nước ban hành và sửa đổi thường xuyên đã lan
tỏa, mang lại luồng sinh khí mới cho môi trường kinh doanh. Số lượng công ty
thành lập mới liên tục tăng lên và số vốn cam kết đưa vào thị trường duy trì ở mức
cao cho thấy doanh nghiệp tiếp tục tin tưởng và nhìn thấy nhiều cơ hội kinh doanh
từ thị trường. Tuy nhiên, sự phát triển về số lượng và quy mô hoạt động của công ty
cũng tiềm ẩn nguy cơ các tranh chấp diễn ra trong nội bộ công ty đó. Bởi lẽ, bản
chất của công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận với
nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào hoạt động chung nhằm chia lợi
nhuận thu được qua hoạt động đó. Do đó, các thành viên hoặc cổ đông có thể có
những bất đồng liên quan đến chia lợi nhuận hoặc tranh chấp trong hoạt động góp
vốn vào công ty hoặc tranh chấp về quyền quản lý, tổ chức, điều hành công ty …
Để xây dựng được khái niệm khoa học về tranh chấp tổ chức quản lý công
ty, trước hết phải làm rõ thế nào là tranh chấp, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp

thương mại, tranh chấp công ty.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tranh chấp là việc giành nhau một cách giằng co,
không rõ thuộc về bên nào. Cũng có thể hiểu tranh chấp là sự đấu tranh giằng co khi
có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên [10, tr.1204].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, mâu thuẫn

6


về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã hội nhất định được pháp
luật điều chỉnh.
Hiện nay, khái niệm tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp thương mại được
sử dụng không nhất quán. Mỗi thuật ngữ có một cách hiểu khác nhau và chủ yếu
dựa vào các văn bản pháp luật thực định.
Thuật ngữ tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ được nhiều công trình, bài
nghiên cứu của giới luật học sử dụng như một thuật ngữ chính thức để chỉ tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Cụ thể, tranh chấp kinh doanh được hiểu là
sự bất đồng, mâu thuẫn về các lợi ích kinh tế giữa chủ thể phát sinh trong quan hệ
kinh doanh. Xuất phát từ khái niệm kinh doanh theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 thì đó là tranh chấp phát sinh trong quá trình chủ thể thực hiện
hoạt động kinh doanh, từ quá trình đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời (Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp năm 2014). Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh là luôn gắn liền với các
hoạt động kinh doanh; chủ thể tham gia là các chủ thể kinh doanh và các bên có liên
quan; tranh chấp kinh doanh thể hiện ra bên ngoài là những xung đột về lợi ích kinh
tế giữa các bên.
Tranh chấp thương mại (còn gọi là tranh chấp trong hoạt động thương mại)
là khái niệm được dùng để chỉ những tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại.
Theo Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại được hiểu là toàn bộ các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư

và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. (Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại
năm 2005). Các hoạt động thương mại chủ yếu do thương nhân thực hiện trong quá
trình hoạt động của mình. (Ngoài thương nhân, còn có các cá nhân hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh). Như vậy, tranh
chấp thương mại bao gồm tất cả các tranh chấp phát sinh trong quá trình các chủ thể
chủ yếu là thương nhân thực hiện các hành vi nhằm mục đích sinh lời và thông
thường là các tranh chấp về hợp đồng thương mại, bởi vì chỉ thông qua hình thức

7


hợp đồng các thương nhân mới thực hiện được các hành vi thương mại và đạt được
mục đích thu lợi nhuận. Do đó, với cách hiểu này, tranh chấp thương mại chỉ là một
dạng của tranh chấp kinh doanh.
Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại là khái niệm được các Bộ luật
tố tụng dân sự sử dụng theo hướng liệt kê mà không đưa ra định nghĩa thế nào là
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Trong đó, tranh chấp kinh doanh, thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm có năm nhóm: (i) tranh chấp phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (ii) tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; (iii) tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; (iv) tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám
đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn
giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (v) các tranh
chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Mối quan hệ giữa công ty với thành viên công ty và giữa các thành viên
công ty thường phát sinh các mâu thuẫn, xung đột lợi ích trong quá trình góp
vốn, chuyển quyền sở hữu phần vốn góp của mình vào công ty hoặc chuyển
nhượng vốn góp giữa các thành viên. Không phải tất cả các thành viên trong một
công ty đều có quyền lợi như nhau, đều có khả năng chi phối, tham gia hoạt
động quản lý, kiểm soát công ty giống nhau bởi lẽ quyền quản lý phát sinh từ
việc góp vốn. Điều này dẫn đến lợi ích của họ về quản lý và chia lợi nhuận là
khác nhau, do đó mâu thuẫn tiềm ẩn rất lớn trong các quan hệ này. Ngoài ra, mối
quan hệ giữa các thành viên công ty với công ty cũng có thể xảy ra mâu thuẫn
liên quan đến quyền và lợi ích, đặc biệt trong vấn đề phần vốn góp. Về mặt hình
8


thức, với tư cách là một chủ thể pháp lý độc lập, công ty vẫn có những quyền và
nghĩa vụ của mình đối với thành viên, có quyền đòi hỏi các thành viên công ty
thực hiện nghĩa vụ đối với mình và ngược lại, chính vì vậy, mâu thuẫn phát sinh
giữa công ty và thành viên công ty từ quan hệ này.
Tranh chấp công ty - còn gọi là tranh chấp trong nội bộ công ty - nội bộ ở
đây được hiểu là trong bản thân công ty, giữa các thành viên công ty với nhau và
giữa công ty với thành viên công ty. Tranh chấp công ty là một dạng tranh chấp
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tranh chấp công ty theo
pháp luật thực định là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được xác định dựa trên tiêu
chí chủ thể và lĩnh vực phát sinh tranh chấp cụ thể.
Dựa vào tính chất của tranh chấp thì tranh chấp trong tổ chức quản lý công ty
là một dạng của tranh chấp công ty. Theo từ điển Tiếng Việt, tổ chức là việc sắp
xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức
năng chung. Quản lý là việc tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một
cơ quan [15, tr. 1288, 1604]. Tranh chấp tổ chức quản lý công ty bản chất là tranh
chấp trong hoặc liên quan đến việc tổ chức quản lý công ty, trong quá trình các chủ
thể quản lý thực hiện hoạt động của mình.

Có thể nói, tranh chấp tổ chức quản lý công ty là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa công ty với thành viên công ty hoặc với người quản lý; tranh chấp giữa thành
viên công ty này với thành viên công ty khác hoặc với người quản lý trong việc thực
hiện việc tổ chức quản lý hoạt động của công ty. Về mặt nội hàm, tranh chấp trong
tổ chức quản lý là một dạng của tranh chấp trong nội bộ công ty. Cụ thể, lĩnh vực
phát sinh tranh chấp là việc tổ chức quản lý hoạt động của công ty.
Các đặc trưng của tranh chấp tổ chức quản lý công ty như sau:
Một là, chủ thể của tranh chấp tổ chức quản lý công ty thông thường là công
ty với các thành viên công ty hoặc với người quản lý công ty; giữa thành viên công
ty này với thành viên công ty khác hoặc với người quản lý công ty.
Hai là, lĩnh vực phát sinh tranh chấp liên quan đến tổ chức quản lý của công
9


ty. Không chỉ riêng công ty mà các hình thức tổ chức kinh doanh khác như hợp tác
xã thì các tranh chấp liên quan đến việc tổ chức quản lý cũng được xếp vào tranh
chấp công ty. Bởi vì bản chất của quá trình tổ chức quản lý và mối quan hệ giữa hợp
tác xã và các thành viên hợp tác xã cũng là mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với
thành viên tạo ra chủ thể kinh doanh đó [1, tr. 35].
Ba là, đối tượng của tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty
và của công ty. Đó là các quyền, nghĩa vụ liên quan đến quyền, nghĩa vụ trong quá
trình tổ chức quản lý công ty.
Bốn là, tranh chấp tổ chức quản lý công ty có biểu hiện ra bên ngoài là
những xung đột, bất đồng về mặt lợi ích kinh tế giữa các bên. Đây là bản chất của
bất cứ tranh chấp nào.
1.1.2. Các loại tranh chấp tổ chức quản lý công ty
Thứ nhất, tranh chấp trong quá trình người quản lý công ty thực hiện việc
quản lý nhưng không tuân theo các Nghị quyết của cơ quan quản lý hoặc/và Điều lệ
của công ty hoặc/và pháp luật doanh nghiệp dẫn đến các thiệt hại cho công ty. Đây
là trường hợp người quản lý công ty vi phạm các quy định quản lý nội bộ doanh

nghiệp hoặc pháp luật về doanh nghiệp hoặc cả hai khi thực hiện việc quản lý và tổ
chức hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, tranh chấp giữa các thành viên công ty về quyền quản lý và điều
hành công ty. Các thành viên hoặc cổ đông lớn luôn có xu hướng muốn trở thành
người quản lý hoặc “người của mình” trở thành người quản lý công ty để có quyền
điều hành công ty. Khi họ không được trao quyền hoặc bị mất quyền do quyết định
của cơ quan quản lý thì các thành viên, cổ đông này sẽ chiếm giữ các giấy tờ liên
quan đến doanh nghiệp hoặc con dấu của doanh nghiệp hoặc vẫn tiếp tục điều hành
doanh nghiệp mà không được sự chấp thuận của các thành viên, cổ đông trong công
ty. Loại tranh chấp này diễn ra tương đối phổ biến trong thời gian gần đây. Khi xảy
ra mâu thuẫn loại này, các doanh nghiệp thường không biết cách tháo gỡ và ngày
càng để mâu thuẫn gay gắt hơn làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh
doanh của công ty.
10


Thứ ba, tranh chấp liên quan đến phương thức quản lý, điều hành nội bộ
doanh nghiệp thông qua các cơ quan quản lý doanh nghiệp. Đó là các bất đồng, mâu
thuẫn liên quan tới thủ tục tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị
hoặc Hội đồng thành viên; các bất đồng liên quan liên quan tới việc thông qua quyết
định của các cơ quan quản lý công ty hoặc tranh chấp phát sinh từ quyết định của
các cơ quan quản lý như Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên. Việc nhóm cổ
đông yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông nhưng không người quản lý thực
hiện hoặc các quyết định không công bằng như: quyết định ưu đãi cho thành viên
hội đồng quản trị trong việc mua cổ phần mới phát hành; quyết định ưu đãi cho cổ
đông lớn dưới danh nghĩa là cổ đông chiến lược; quyết định ưu đãi cho người lao
động và các quyết định không hợp pháp khác… Nhóm các thành viên hoặc cổ đông
còn lại thì không chấp nhận quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành
viên vì quyền lợi của mình bị vi phạm…
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp tổ chức quản lý công ty

Tranh chấp tổ chức quản lý công ty chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan sau:
* Các nguyên nhân chủ quan có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, các tranh chấp tổ chức quản lý công ty xuất phát từ sự thiếu hiểu
biết của các thành viên trong công ty về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như cách
thức thực hiện và bảo vệ quyền. Tranh chấp cũng có thể từ sự thiếu hiểu biết và thói
quen làm việc theo cảm tính của người quản lý công ty. Lợi ích cá nhân cũng là một
trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến những động cơ làm việc vì nhóm lợi
ích liên quan đến mình của các thành viên và người quản lý công ty.
Thứ hai, những nhà đầu tư (các thành viên, cổ đông) của công ty thường cả
nể, chủ quan nên không minh bạch ngay từ khi thành lập doanh nghiệp và cả trong
suốt quá trình tổ chức hoạt động của công ty.
* Các nguyên nhân khách quan có thể kể đến như:
Thứ nhất, hệ thống các văn bản quản lý nội bộ của công ty chưa được
11


chú trọng xây dựng nên trong quá trình hoạt động còn nhiều lỗ hổng, dễ dẫn
đến vi phạm của công ty hoặc người quản lý công ty, gây thiệt hại cho các
thành viên, cổ đông.
Thứ hai, bản thân hệ thống pháp luật doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc,
chồng chéo và khoảng trống trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tổ chức
quản lý doanh nghiệp. Điều này khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
thực tiễn áp dụng.
Tranh chấp trong tổ chức quản lý công ty tùy thuộc vào mức độ mà gây nên
những hậu quả khác nhau về kinh tế, xã hội cho bản thân doanh nghiệp hay trên
phạm vi lớn hơn. Hậu quả của tranh chấp này để là làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất, cung ứng dịch vụ của công ty, ảnh hưởng đến lợi ích của bên thứ ba như
người lao động, chủ nợ. Nếu các tranh chấp phát sinh mà không được giải quyết kịp
thời, triệt để còn có thể tạo nên những ấn tượng không tốt cho môi trường đầu tư

kinh doanh ở Việt Nam.
1.2. Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án
Giải quyết tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty theo nghĩa chung
nhất có thể được hiểu là cách thức, phương thức hay hoạt động để điều chỉnh, loại
trừ các bất đồng, xung đột trong mối quan hệ giữa công ty với các thành viên công
ty hoặc với người quản lý; giữa các thành viên công ty với nhau hoặc với người
quản lý nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các thành viên công ty và các chủ thể khác, bảo vệ trật tự kỷ
cương của công ty.
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất. Việc lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp như thương lượng, hòa giải thương mại, trọng tài thương mại hoặc Tòa
án xuất phát từ tính chất của vụ tranh chấp, quan hệ giữa các bên, các ưu điểm mà
12


phương thức đó có được như thời gian giải quyết nhanh chóng, thuận lợi, không
làm cản trở đến hoạt động bình thường của công ty, chi phí giải quyết tranh chấp ít
tốn kém nhất, bí mật kinh doanh cũng như uy tín của các bên không bị tiết lộ…
Với tư cách là cơ quan tài phán nhà nước nhân danh quyền lực nhà nước để
đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, việc giải quyết tranh chấp tổ
chức quản lý công ty bằng Tòa án thể hiện rõ một số vai trò sau:
Thứ nhất, bảo vệ và khôi phục một cách có hiệu quả quyền và lợi ích
chính đáng của các bên đương sự trong tranh chấp tổ chức quản lý công ty. Khi
tranh chấp công ty xảy ra có nghĩa là quyền và lợi ích kinh tế của một bên chủ
thể bị vi phạm. Do đó, việc đòi hỏi phải khôi phục trạng thái vốn phải có trong
quan hệ này là nhu cầu tự nhiên và khách quan. Đó cũng chính là mục đích của
việc giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, góp phần bảo đảm được môi trường kinh doanh lành mạnh, hấp
dẫn. Giải quyết tranh chấp công ty có hiệu quả sẽ khiến nhà đầu tư yên tâm góp vốn
sản xuất kinh doanh. Cùng với tiến trình đổi mới nền kinh tế, phương thức giải
quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án phải tạo được niềm tin cho
các nhà đầu tư và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh.
Thứ ba, góp phần duy trì trật tự pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Trong
cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, việc tạo ra các thiết chế giải quyết tranh chấp
công ty nói riêng và tranh chấp kinh doanh nói chung thể hiện được yêu cầu bảo vệ
có hiệu quả lợi ích hợp pháp của đương sự. Hoạt động giải quyết tranh chấp công ty
nói riêng và tranh chấp kinh doanh nói chung còn góp phần nâng cao hiểu biết và ý
thức tuân thủ pháp luật đối với các doanh nghiệp. Khi có tranh chấp phát sinh, các
chủ thể phải thực sự tìm hiểu các văn bản pháp luật có liên quan và thông qua quá
trình thương lượng, hòa giải nắm vững thông tin, kiến thức pháp luật có liên quan
trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.2. Đặc điểm của giải tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án

13


Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án là một phương
thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện của một bên tranh chấp yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án và Tòa án sẽ đưa ra phán quyết theo quy
định của pháp luật.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty tại cơ
quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước; được tiến hành theo thủ tục tố tụng chặt
chẽ; bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không tự nguyện thi
hành sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án có một số đặc
điểm sau:
Một là: Tòa án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải

quyết tranh chấp vì vậy hoạt động xét xử của Tòa án thực hiện quyền tư pháp mang
tính quyền lực nhà nước. Thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công
ty nói riêng và các tranh chấp dân sự nói chung rất chặt chẽ, theo quy trình thống
nhất theo luật định. Bản án hoặc quyết định của Tòa án có giá trị bắt buộc thi hành
dựa vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Hai là: Giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa án có thể qua
hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Có nghĩa là bản án chưa có hiệu lực của Tòa
án có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Một số trường hợp,
bản án, quyết định giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty đã có hiệu lực pháp
luật có thể được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có các căn cứ theo
quy định của pháp luật. Điều này đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án là
chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
Ba là: Tòa án giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty nói riêng và các
tranh chấp dân sự nói chung được xét xử theo nguyên tắc công khai, trừ trường hợp
giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh theo yêu cầu chính đáng của đương sự
thì Tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Như vậy, trong quá trình giải
quyết tranh chấp công ty tại Tòa án, các bên tranh chấp luôn bị đặt trước nguy cơ
14


tiết lộ thông tin làm ảnh hưởng đến uy tín và bí mật kinh doanh.
Bốn là: Giải quyết tranh chấp công ty theo thủ tục tư pháp phải tuân thủ triệt
để các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng nên cũng gây ra bất lợi
cho các bên như thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài, chi phí tốn kém, ảnh hưởng
xấu đến hoạt động kinh doanh của công ty. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
không linh hoạt về thủ tục, không tạo điều kiện cho các bên tranh chấp được định
đoạt về thời gian, địa điểm, người giải quyết tranh chấp… so với các phương thức
giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại.
1.2.3. Sự khác biệt trong giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng Tòa
án với các hình thức giải quyết tranh chấp khác

Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và
giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty hiện nay gồm có: Thương lượng, hòa
giải thương mại, trọng tài thương mại và Tòa án.
Thứ nhất, thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc
các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh
để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp của bên thứ ba. Giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án có sự tham gia của bên thứ ba – Tòa án để tháo gỡ những mâu
thuẫn phát sinh giữa các bên tranh chấp.
Trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, các bên tranh
chấp tự tìm kiếm phương án giải quyết tranh chấp cho mình trên cơ sở “điều hòa”
về mặt lợi ích mà không dựa trên cơ sở pháp luật. Cũng giống như phương thức hòa
giải thương mại, trọng tài thương mại thì phương thức thương lượng xuất phát từ sự
tự nguyện lựa chọn và tự nguyện thỏa thuận của các bên, không nhân danh quyền
lực nhà nước. Kết quả giải quyết của phương thức thương lượng cũng không có tính
cưỡng chế thi hành như bản án, quyết định của Tòa án mà được thi hành dựa trên sự
tự nguyện của các bên tranh chấp.
Thứ hai, hòa giải thương mại là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc
giải quyết tranh chấp với sự trợ giúp của bên thứ ba độc lập- hòa giải viên. Khác với
15


phương thức thương lượng, hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh
chấp có sự tham gia của người thứ ba với vai trò hỗ trợ, thúc đẩy các bên kìm kiếm
giải pháp giải quyết tranh chấp nhưng phương án giải quyết tranh chấp vẫn phải do
các bên tranh chấp tự quyết định. Cũng giống như phương thức giải quyết tranh
chấp bằng thương lượng, phương thức hòa giải có ưu điểm tiết kiệm thời gian, chi
phí giải quyết tranh chấp, duy trì được quan hệ hợp tác giữa các bên vì đây là
phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên cơ sở lợi ích do các bên tự san sẻ.
Việc ban hành Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày 22/4/2017 về hòa giải
thương mại và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã tạo ra cơ sở pháp lý và dẫn đến

thay đổi về “chất” cho hoạt động hòa giải thương mại ở Việt Nam. Nghị định này
quy định về phạm vi, nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải thương mại, hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hòa
giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam và quản lý nhà nước về hoạt động hòa giải
thương mại. Theo quy định về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương
mại tại Điều 2 Nghị định 22/2017/NĐ-CP thì tranh chấp giữa các bên trong đó ít
nhất một bên có hoạt động thương mại và các tranh chấp khác giữa các bên mà pháp
luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại. Xét đến các tranh chấp tổ
chức quản lý công ty thì không phải mọi tranh chấp đều đáp ứng tiêu chí chủ thể
của Điều 2 Nghị định 15/2017/NĐ-CP đã nêu ra. Tranh chấp tổ chức quản lý công
ty chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của hòa giải thương mại khi đáp ứng yêu cầu ít
nhất một bên tranh chấp phải có hoạt động thương mại hoặc trong một văn bản pháp
luật cụ thể có quy định loại tranh chấp này có thể giải quyết bằng hòa giải thương
mại. Như vậy, chỉ khi một bên chủ thể của tranh chấp tổ chức quản lý công ty là
công ty có hoạt động thương mại thì tranh chấp này mới được giải quyết bằng hòa
giải thương mại.
Tại Việt Nam, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định mới phần về
công nhận hòa giải thành ngoài Tòa án (Chương XXXIII) có thể thấy Việt Nam
đang đi theo quan điểm để thỏa thuận hòa giải có giá trị thi hành bắt buộc, các bên
phải yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành [7, tr. 636]. Đây
16


là một điểm mới về ý nghĩa pháp lý của hòa giải và tạo ra ưu thế hơn cho phương
thức hòa giải. Tuy nhiên, chỉ khi các bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án quyết định
công nhận kết quả hòa giải và thỏa thuận hòa giải thành được Tòa án công nhận mới
được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự chứ không đương nhiên được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước như bản án của Tòa án.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp tổ chức quản lý công ty bằng trọng tài
thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án dựa trên sự

thỏa thuận của các bên, thông qua hoạt động của Trọng tài viên với tư cách là
bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc
các bên phải thực hiện.
Khác với việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải thương mại,
Trọng tài viên sẽ dựa trên cơ sở pháp luật để “phán xét” tính đúng, sai của vấn đề để
quyết định quyền lợi của các bên được khôi phục như thế nào. Bởi vì bản chất của
Trọng tài là cơ quan tài phán, tính tài phán thể hiện ở điểm trọng tài có quyền đưa ra
quyết định giải quyết vụ việc. Giống như phương thức giải quyết tranh chấp tổ chức
quản lý công ty bằng Tòa án, Hội đồng xét xử cũng ra bản án dựa trên cơ sở pháp
luật. Phán quyết trọng tài có tính chất cưỡng chế thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế
của nhà nước.
Giải quyết tranh chấp tại trọng tài có ưu điểm về thủ tục tố tụng linh hoạt,
thời gian giải quyết nhanh chóng hơn so với Tòa án, các bên giữ được bí mật kinh
doanh, uy tín kinh doanh bởi lẽ nguyên tắc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài là xét
xử không công khai. Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xét xử một lần, phán
quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên tranh
chấp. Các bên không thể kháng cáo, khiếu nại phán quyết này đến bất cứ cơ quan
tài phán nào khác để giải quyết lại nội dung tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp tại trọng tài cũng có một số bất cập phát sinh. Bởi vì
phán quyết trọng tài có tính chung thẩm nên một mặt ưu điểm là nhanh chóng có
hiệu lực thi hành nhưng mặt trái của nó là các bên không có cơ hội được xem xét

17


lại ở một cấp xét xử cao hơn. Hơn nữa, khác với Tòa án, Trọng tài là cơ quan tài
phán tư, không nhân danh quyền lực nhà nước nên hoạt động giải quyết tranh chấp
tại trọng tài trong một số trường hợp cần sự hỗ trợ của Tòa án. Ví dụ như triệu tập
người làm chứng, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ chứng cứ phải
cung cấp chứng cứ, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… Một số phán

quyết trọng tài vi phạm các căn cứ hủy phán quyết bị Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định hủy phán quyết nếu một trong các bên hoặc các bên đương sự có yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài. Điều đó có nghĩa là, Tòa án vẫn có thể “can thiệp”
vào hoạt động giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, như giải quyết yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài là một biện pháp Tòa án “giám sát” đối với việc giải quyết tranh
chấp tại trọng tài.
Hiện nay, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đang có hiệu lực thi hành.
Quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về phạm vi thẩm quyền
giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại gồm có: (i) tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại; (ii) tranh chấp phát sinh trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại; (iii) các tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài. Đối chiếu với các quy định về tranh chấp tổ chức quản lý công ty thì
không phải mọi tranh chấp tổ chức quản lý công ty đều thuộc thẩm quyền giải quyết
của Trọng tài mà chỉ khi một trong các bên tranh chấp có hoạt động thương mại- thể
hiện là công ty. Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh trong đó có hoạt động đầu tư. Bởi vì
đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh. Hành vi góp vốn kinh
doanh của cá nhân, tổ chức là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu
công ty, từ đó dẫn đến quyền quản lý, tổ chức công ty, có bản chất là hoạt động đầu
tư. Do đó, mọi tranh chấp phát sinh từ quan hệ này được coi là tranh chấp trong
hoạt động thương mại.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy phần lớn tranh chấp tổ chức quản lý
công ty được giải quyết bằng Tòa án. Lý giải điều này không những xuất phát từ
18


×