Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với công ty theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 82 trang )

ĐINH XUÂN TƯỞNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN,
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
ĐINH XUÂN TƯỞNG

2015 - 2017

HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN,
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

ĐINH XUÂN TƯỞNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NHƯ PHÁT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Xuân Tưởng


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của
các thầy cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS-TS. Nguyễn Như Phát
đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo đã đem lại cho tôi
những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học,
Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Xuân Tưởng



MỤC LỤC
Contents
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn: ................................................................... 5
7. Bố cục của luận văn: .................................................................................. 5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN, GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI
CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY………………..6
1.1. Khái niệm tranh chấp nội bộ công ty: ...................................................... 6
1.2. Đặc điểm tranh chấp nội bộ công ty: ..................................................... 10
1.3. Phân loại tranh chấp nội bộ công ty:..................................................... 11
1.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp: ............................................... 13
CHƯƠNG II: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC

THÀNH VIÊN, GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN,
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY ................................. 16
2.1. Tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty: .............................. 16
2.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty: 26
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty ...... 62


3.2. Kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp

giữa công ty và thành viên công ty ............................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................. 66


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TCGCTVCT

Tranh chấp giữa các thành viên công ty

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

LTM

Luật thương mại.

BLDS

Bộ luật dân sự

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

LDN

Luật doanh nghiệp





MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty
(TCGCTVCT) liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại và giải thể công
ty là một trong những vấn đề mới phát sinh kể từ công cuộc Đổi mới 1986. Thời
điểm đó, nước ta bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới với ba nội dung chính:
Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị
trường; Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó khu vực dân
doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Đây
chính là nguyên nhân dẫn đến hàng loạt sự thay đổi toàn diện về cả chính trị, kinh tế
và xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế mới xuất
hiện, Luật Công ty 1990 được ban hành dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ về số
lượng và quy mô hoạt động của công ty. Hệ quả tất yếu dẫn đến là các tranh
chấp giữa các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế, trong đó có tranh chấp nội
bộ công ty diễn ra ngày càng nhiều về số lượng, phức tạp về nội dung.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp giữa các thành viên,
giữa các thành viên với Công ty nói riêng là một hiện tượng tất yếu không thể tránh
khỏi của nền kinh tế thị trường. Pháp luật điều chỉnh về loại tranh chấp này đang
từng bước được hoàn thiện bởi vì đây là loại tranh chấp mới so với các quan hệ
tranh chấp kinh doanh, thương mại khác. Trong thực tiễn, việc tranh chấp nội bộ
công ty rất đa dạng, tuy nhiên việc áp dụng pháp luật để giải quyết loại tranh chấp
này còn nhiều bất cập, vướng mắc. Việc tìm hiểu nguyên nhân cũng như các
phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật Việt Nam, từ đó có
những sự đánh giá dựa trên thực tiễn giải quyết tranh chấp để đưa ra
những giải pháp tối ưu hạn chế tranh chấp, tìm ra các tồn tại bất cập và chưa
đầy đủ trong các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
triển ổn định là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra.Với những lý do trên, tác giả

mạnh dạn chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành

1


viên với Công ty theo pháp luật Việt Nam hiên nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tranh chấp nội bộ công ty luôn nhận
được sự chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các cá nhân, tổ chức hoạt
động trong thực tiễn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này như: Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2005 “Thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh của Tòa án - những điểm mới và các vấn đề đặt ra
cho thực tiễn thi hành” của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê; Luận văn thạc sĩ
Luật học năm 2006 “Thẩm quyền giải quyết các vụ việc về kinh doanh,
thương mại của Tòa án Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2006 “Giải
quyết tranh chấp công ty theo thủ tục tư pháp - những vấn đề lý luận và thực
tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2008
“Giải quyết tranh chấp giữa các cổ đông và giữa cổ đông với người quản lý
công ty trong công ty cổ phần” của tác giả Trần Duy Bình; Luận văn thạc sĩ
Luật học năm 2010 “Tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật Doanh nghệp
Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hiền; Pháp luật giải quyết tranh chấp nội bộ
công ty: nhận thức, thực trạng và cải cách (Ngô Huy Cương, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2012, tr. 48 - 58).
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về tranh chấp nội bộ công ty. Tuy nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu chuyên sâu về việc giải quyết
tranh chấp nội bộ công ty vẫn còn bỏ ngõ nhiều vấn đề, các vấn đề lý luận và
thực tiễn đang tiếp tục được đặt ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chưa được

cập nhật theo pháp luật hiện hành, và đây vẫn là vấn đề đòi hỏi các nhà
nghiên cứu pháp luật quan tâm tìm hiểu.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài đặt ra mục đích là nghiên cứu tổng quát về tranh chấp giữa các thành
viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam hiện
hành, từ đó đề xuất những kiến nghị về việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên
quan đến tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với
Công ty theo pháp luật Việt Nam nhằm có một cái nhìn tổng quát, đồng bộ, khoa
học về vấn đề này để làm rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp tranh chấp giữa các
thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật
Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến giải về phương thức giải quyết phù hợp với thực
tiễn của sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty
theo pháp luật Việt Nam, nhận dạng các loại tranh chấp tranh chấp giữa các thành
viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam.
- Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ các phương thức giải quyết tranh
chấp tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công
ty theo pháp luật Việt Nam, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm của từng phương thức.
- Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành liên quan đến các phương thức giải quyết tranh chấp tranh chấp
giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật
Việt Nam, thực tiễn áp dụng để giải quyết tranh chấp.
- Thứ tư, nghiên cứu các bản án, quyết định của tòa án liên quan đến

giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với
Công ty theo pháp luật Việt Nam để đánh giá phân tích thực trạng áp dụng
pháp luật giải quyết nội bộ công ty.

3


- Thứ năm, đề xuất một số kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp
luật liên quan đến phương thức giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các
thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về các phương
thức giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty
với Công ty theo pháp luật Việt Nam dựa trên lý luận, rà soát các quy định pháp
luật về giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty,
khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật để giải quyết tranh chấp. Phạm vi nghiên cứu
là các quy định của pháp luật doanh nghiệp, thương mại có liên quan đến giải quyết
tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty
theo pháp luật Việt Nam theo sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, không đi sâu
vào các lĩnh vực chuyên ngành khác như chứng khoán, đầu tư, ngân hàng…; các
quy định của pháp luật doanh nghiệp, thương mại cũng chỉ được tập trung nghiên
cứu ở một số nhóm tranh chấp phổ biến, điển hình, không đi sâu vào các công ty có
yếu tố nước ngoài.
Về phương thức giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành
viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam, luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu trong phạm vi khảo sát là các tranh chấp giữa các thành viên, giữa
các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam
được giải quyết bằng thủ tục tố tụng tại Tòa án, lý do là với điều kiện thực tế
hiện nay tại Việt Nam, tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty
công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam chủ yếu được giải quyết

bằng con đường Tòa án.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp. Các phương pháp xã hội học như thống kê, tham khảo
ý kiến đánh giá và quan điểm của những người làm công tác thực tiễn cũng

4


như những học giả quan tâm đến chủ đề này. Bên cạnh đó, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích các tình huống cụ thể kết
hợp với phương pháp tổng kết thực tiễn để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Hiện nay, tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công
ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam và phương thức giải quyết tranh
chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo
pháp luật Việt Nam đang có xu hướng gia tăng, đa dạng và phức tạp. Đây là
hệ quả tất yếu của sự phát triển đa dạng và mạnh mẽ của các loại hình công ty trong
khi pháp luật điều chỉnh về các mối quan hệ này chưa kịp hoàn thiện và đáp ứng
được với sự phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng về
mặt khoa học cũng như thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tranh chấp giữa
các thành viên, giữa các thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật
Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các
thành viên Công ty công ty với Công ty theo pháp luật Việt Nam và các giải pháp

nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa các
thành viên Công ty công ty với Công ty.

5


Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN, GIỮA CÁC
THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm tranh chấp giưac các thành viên, giữa các thành viên Công ty
với Công ty:
Luật Doanh nghiệp 2014 đã định nghĩa về doanh nghiệp như sau: Doanh
nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành
lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh (khoản 7 điều 4). Theo
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, thì tại Việt Nam tồn tại các loại hình doanh
nghiệp như sau:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (mục 1, chươngIII).
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Mục 2, chươngIII).
- Công ty cổ phần (chương V).
- Công ty hợp danh (chương VI).
- Doanh nghiệp tư nhân (chương VII).
Như vậy, công ty là một loại hình của doanh nghiệp. Tại luật doanh nghiệp
2005 không có khái niệm khái quát về thành viên công ty, mà chỉ đưa ra các khái
niệm cụ thể về thành viên trong các công ty cụ thể như: thành viên sáng lập1, thành
viên hợp danh trong công ty hợp danh2, người quản lý doanh nghiệp3,... Tuy nhiên,
tại luật doanh nghiệp 2015 đã đưa ra định nghĩa về thành viên công ty như sau:
Thành viên công ty là cá nhân, tổ chức sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ
của công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty hợp danh (khoản 23 điều 4 Luật
doanh nghiệp 2014). Để sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn góp của công ty, các sự

kiện pháp lý xác lập nên tư cách thành viên của công ty có thể là một trong các
trường hợp sau:
1

Xem Luật doanh nghiệp 2005, điều 4, khoản 10
Xem Luật doanh nghiệp 2005, điều 4 khoản 12.
3
Xem Luật doanh nghiệp 2005, điều 4, khoản 13
2

6


Thứ nhất, góp vốn. Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của
công ty; góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn
điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập4. Nói cách khác, góp vốn là việc đưa tài
sản vào công ty, để trở thành chủ sở hữu hoặc một trong các chủ sở hữu của công
ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền tệ, hoặc tài sản khác có thể quy đổi thành tiền như:
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, ... mà điều lệ công ty được góp vốn cho
phép.Vì vậy, góp vốn là sự kiện pháp lý phổ biến nhất để hình thành nên tư cách
thành viên công ty.
Thứ hai, nhận chuyển nhượng phần vốn góp. Trường hợp này xảy ra khi
thành viên công ty có nhu cầu chuyển nhượng vốn góp, và các tổ chức, các nhân
khác có nhu cầu có thể dùng tài sản của mình để mua lại một phần hoặc toàn bộ
phần vốn góp cần chuyển nhượng đó. Việc chuyển nhượng phần vốn góp ở mỗi loại
hình công ty lại có yêu cầu khác nhau.
Thứ ba, thừa kế, tặng, cho phần vốn góp. Các thành viên công ty có quyền
tặng, cho hoặc để lại phần vốn góp của mình cho người khác. Tuy nhiên trong
trường hợp này, không phải lúc nào người thừa kế, người được nhận phần vốn góp
sẽ trở thành thành viên công ty, điều này còn tùy thuộc vào điều lệ công ty và pháp

luật doanh nghiệp quy định.
Như vậy, thành viên công ty chính là một chủ sở hữu của công ty.
Dựa vào định nghĩa này, thành viên công ty được phân loại theo loại hình
công ty như sau:
Thứ nhất, với công ty trách nhiệm hữu hạn, thành viên công ty hữu hạn là tổ
chức, hoặc cá nhân sở hữu phần vốn góp vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty có thể có từ 02 đến 50 thành viên, và các
thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.5

4
5

Xem: Luật doanh nghiệp năm 2014, điều 4, khoản 13
Xem Luật doanh nghiệp 2014, điều 38, khoản 1, điểm a, b

7


Thứ hai, với công ty hợp danh, thành viên công ty hợp danh bao gồm ít nhất
hai thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp vốn. Trong đó, thành viên hợp
danh bắt buộc phải là cá nhân, các thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của
công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; còn thành viên góp vốn có thể là
cá nhân hoặc tổ chức, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.6
Trong đó, với chủ thể là người quản lý công ty hay người quản lý doanh
nghiệp thì: Người quản lý công ty là chủ sở hữu, giám đốc doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch
công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức

danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định.7 Người quản lý công ty có thể là
thành viên công ty, cũng có thể không phải thành viên công ty trong trường hợp
công ty thuê tổng giám đốc hoặc giám đốc.
Tuy nhiên, cổ đông trong công ty cổ phần mặc dù không được nhắc trong
định nghĩa được nêu tại khoản 23 điều 4 Luật doanh nghiệp kể trên, nhưng lại có
đặc điểm khá tương đồng với nội dung được nêu ra trong định nghĩa trên với nội
dung: “cá nhân hoặc tổ chức sở hữu một phần vốn điều lệ”.
Được biết: cổ đông là là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của
công ty cổ phần; Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông
và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần.8 Bên cạnh đó, vốn điều
lệ công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán các loại, tại thời điểm
công ty cổ phần đăng ký thành lập doanh nghiệp thì vốn điều lệ của công ty là tổng
giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ
công ty9. Trong đó, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần10. Mặt khác, quay lại quy định về khái niệm vốn điều lệ được nêu lần lượt tại
6

Xem Luật doanh nghiệp 2014, điều 130, khoản 1
Xem Luật doanh nghiệp 2014, điều 4, khoản 13
8
Xem: Luật doanh nghiệp 2014, điều 4, khoản 2
9
Xem: Luật doanh nghiệp 2014, điều 111, khoản 1
10
Xem: Luật doanh nghiệp 2014, điều 110, khoản 1, điểm a
7

8



khoản 29 điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 có nêu: Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản
do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng
ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần (khoản 29). Từ định
nghĩa này ta có thể nhận thấy, về mặt pháp lý, tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán
hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần và
tổng giá trị tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh có đặc điểm tương đồng và được gọi chung
là vốn điều lệ. Vì thế, người viết cho rằng, với vai trò là chủ sở hữu ít nhất một cổ
phần phổ thông của công ty cổ phần và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập, thì
cổ đông sáng lập cũng là thành viên của công ty.
Ngoài ra, như đã nêu ở trên, góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn
điều lệ của công ty; cá nhân hoặc tổ chức có thể góp vốn để thành lập doanh nghiệp
hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Theo pháp luật quy
định, công ty cổ phần có quyền tăng vốn điều lệ bằng cách tăng thêm số lượng cổ
phần được quyền chào bán và bán các cổ phần đó11. Do đó, cá nhân, hoặc tổ chức
mua cổ phần của công ty cổ phần đã được thành lập cũng đồng nghĩa đã sở hữu một
phần vốn điều lệ và được coi là thành viên công ty.
Như vậy tổng hợp lại các lập luận trên, tác giả bài viết cho rằng, cổ đông nói
chung là thành viên công ty của công ty cổ phần.
Tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty:
Dựa theo phân tích trên, thì nội bộ công ty bao gồm các thành viên trong
công ty, các cơ quan quản lý công ty, và người quản lý công ty. Như vậy, tranh chấp
giữa công ty và các thành viên trong công ty là một loại tranh chấp nội bộ công ty.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1998 thì, tranh chấp được hiểu theo hai
nghĩa: nghĩa thứ nhất, tranh chấp là sự giành giật, giằng co nhau không rõ thuộc về
bên nào; nghĩa thứ hai, tranh chấp là sự bất đồng, trái ngược nhau, dùng trong

11


Xem: Luật donah nghiệp 2014, điều 122, khoản 1

9


những trường hợp tranh chấp ý kiến.12 Tổng hợp lại hai cách giải thích này, có thể
hiểu, tranh chấp là sự mâu thuẫn, giằng co trong ý kiến giữa các bên tham gia, trong
hoạt động thương mại hay trong nội bộ công ty, mâu thuẫn này có thể được sinh ra
từ sự xung đột quyền và lợi ích giữa các bên chủ thể. Dù không quy định cụ thể, tuy
nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã đề cập đến các tranh chấp trong nội bộ
công ty bao gồm: Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh
chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty13.
Như vậy, tranh chấp nội bộ công ty là tranh chấp tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty; hoặc tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng
giám đốc trong công ty cổ phần; hoặc giữa các thành viên của công ty với nhau, liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao
tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
1.2. Đặc điểm giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty:
Từ khái niệm tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công
ty đã nêu trên ta có thể rút ra, một vụ việc tranh chấp giữa các thành viên, giữa các
thành viên với Công ty khác với những vụ tranh chấp dân sự, lao động khác, ở
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể: Đó là tranh chấp phải phát sinh giữa công ty với các
thành viên của công ty; hoặc giữa công ty với người quản lý trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc trong

công ty cổ phần; hoặc giữa các thành viên của công ty với nhau. Đây là một vấn đề
quan trọng cần xác định rõ ràng khi giải quyết tranh chấp, vì không phải người quản
12

Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội, tr. 1685
13
Xem Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, điều 30, khoản 4

10


lý công ty nào cũng là thành viên công ty, nếu tranh chấp xảy ra giữa thành viên
công ty và người quản lý công ty là Giám đốc được thuê bằng hợp đồng lao động
thì tranh chấp này không phải là tranh chấp nội bộ công ty.
Thứ hai, về đối tượng: đối tượng của tranh chấp nội bộ công ty là quyền,
nghĩa vụ của thành viên, người quản lý công ty và của công ty.
Thứ ba, về phạm vi: nội dung tranh chấp liên quan đến thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty. Trong phần này cần lưu ý đến tranh chấp liên quan
đến hoạt động thành lập công ty, khi công ty có đăng ký kinh doanh mà xảy ra tranh
chấp trong quá trình thành lập như tranh chấp liên quan đến góp vốn, xác định chức
năng, nhiệm vụ giữa các thành viên,... Trong trường hợp công ty được thành lập thì
đây được coi là một tranh chấp nội bộ công ty, tuy nhiên ngược lại, nếu công ty
không được thành lập thì đây chỉ là vụ việc tranh chấp dân sự.14
1.3. Phân loại tranh chấp giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty:
Dựa theo những phân tích ở trên, thì có những loại tranh chấp giữa các thành
viên, giữa các thành viên với Công ty theo chủ thể như sau:
- Giữa thành viên công ty và công ty
- Giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc

thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc trong công ty cổ phần
- Giữa các thành viên công ty với nhau.
Về nội dung, phạm vi tranh chấp đối với từng nhóm chủ thể nêu trên được
quy định rõ ràng tại nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán (về
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung”
của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự) đã nêu rõ tại điều 6, khoản 5 như sau:
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh
chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường phần vốn
góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị
14

Xem: Bộ luật Tố tụng dân sự, điều 26

11


quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với
mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với
phần vốn góp vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ
tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc
thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà
công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty.15
- Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp
giữa các thành viên của công ty về trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành
viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành
viên của công ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành
viên công ty đó cho người khác không phải là thành viên của công ty; về việc

chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ
phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở
hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia
lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài
sản, phân chia nợ giữa các thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải
thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty.16
Ngoài ra, nghị quyết cũng nêu rõ, nếu giữa công ty với các thành viên của
công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh
chấp đó không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan
hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ: Tranh chấp về bảo hiểm xã
hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về hợp đồng vay, mượn

15
16

Xem nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP, điều 6, khoản 5, điểm a
Xem Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP, điều 6, khoản 5, điểm b

12


tài sản,...) thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại
quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLTTDS 2005 (tương ứng khoản 4 điều 31
BLTTDS 2015). Tùy từng trường hợp cụ thể để xác định đó là tranh chấp về dân sự
hay tranh chấp về lao động.17
1.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp:
Xét theo nghĩa rộng, thì giải quyết tranh chấp là phương thức gỡ bỏ các xung

đột, bất đồng giữa các bên, bằng cách đưa ra phương hướng đúng đắn nhất về vấn
đề đang mâu thuẫn. Trong pháp luật thương mại, giải quyết tranh chấp còn có ý
nghĩa khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, cân bằng quyền và lợi ích
giữa các bên chủ thể, đưa ra phương hướng khắc phục các hậu quả có thể phát sinh
do mâu thuẫn gây ra, và trên hết là bảo vệ trật tự của công ty.
Pháp luật Việt Nam quy định, các bên xảy ra tranh chấp trong thương mại
nói chung có quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp sao cho phù
hợp nhất với vụ việc và nhu cầu của mình. Việc lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp này có thể căn cứ vào một số yếu tố khách quan và chủ quan như: sự
nhanh chóng, địa điểm thuận lợi, tính bảo mật, chi phí phát sinh, kết luận thương
lượng của việc giải quyết tranh chấp có được sử dụng hiệu quả hay không, hoặc rủi
ro và các thiệt hại có được hạn chế một cách tối đa hay không.... Bên cạnh đó, do
tính linh hoạt của thị trường kinh doanh thương mại mà các bên còn phải lưu tâm
tới vấn đề như: giải quyết bằng phương pháp đó có giữ được quan hệ hòa hảo giữa
các bên hay không, sự tín nhiệm và chữ tín và mối quan hệ giữa các chủ thể có được
khôi phục, duy trì hay không…
Ngoài các yếu tố trên, còn có các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên như: phong tục, tập quán, hay quy
định của pháp luật ở từng quốc gia và quốc tế. Pháp luật thương mại Việt Nam thừa
nhận các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại sau:

17

Xem Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP, điều 6, khoản 5, điểm c

13


Thứ nhất: Biện pháp thương lượng giữa các bên.18 Khi lựa chọn phương thức
này, các bên tranh chấp sẽ thông qua việc cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ những mâu

thuẫn đã phát sinh, từ đó đưa ra phương thức giải quyết được sự đồng tình chấp
thuận của tất cả các bên tham gia tranh chấp. Về bản chấp, đây là phương pháp thân
thiện và đơn giản nhất trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Các
bên có thể tự mình đưa ra ý kiến, bàn bạc và đi đến nhận thức chung mà không cần
sự trợ giúp hay phán quyết đến từ bên thứ ba. Để đạt được nhận thức chung, hoàn
toàn dựa vào ý chí và thiện chí giữa các bên trong quá trình thương lượng, cũng như
vậy, quyết định thương lượng cuối cùng không có giá trị bắt buộc cho mọi chủ thể
tranh chấp, việc có thực hiện hay không thực hiện theo kết quả thương lượng phụ
thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên.
- Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.19 Phương thức hòa giải cũng có nét tương
đồng với phương thức thương lượng, đó là các bên tự thương lượng, đưa ra phương
pháp giải quyết chung cho vấn đề tranh chấp của mình. Tuy nhiên, so với thương
lượng, hòa giải có điểm khác biệt đó là sự xuất hiện của bên thứ ba trung gian hay
gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên có thể là bất kỳ ai, được các bên tranh chấp tin
tưởng lựa chọn. Hòa giải viên có quyền đưa ra các phương thức giải quyết cụ thể
cho vụ tranh chấp, gợi ý và định hướng cho các bên nhằm giàn xếp vụ tranh chấp
một cách ổn thỏa. Kết quả của phiên hòa giải sẽ được ghi nhận trong biên bản hòa
giải. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có quy chế về việc công nhận kết quả hòa
giải thành, việc thực hiện công nhận hòa giải thành sẽ giúp cho kết quả hòa giải
thành có ý nghĩa pháp lý như một quyết định của Tòa án.
- Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong
thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng
tài, Toà án do pháp luật quy định.20 Như vậy, vẫn là có thêm sự xuất hiện của bên
thứ ba, nhưng bên thứ ba mang theo quyền lực công, quyền tài phán, do đó còn kèm
18

Xem: Luật Thương Mại 2005, Điều 317, khoản 1
Xem: Luật Thương Mại 2005, Điều 317, khoản 2
20

Xem: Luật Thương Mại 2005, Điều 317, khoản 3
19

14


theo tính chuyên môn cao, và sự công bằng cao. Ngoài ra các phán quyết của Tòa
án và trọng tài đều mang tính bắt buộc khi chúng có hiệu lực, buộc các bên phải
tuân theo, do đó các bên sẽ phải thực hiện đúng như phán quyết dù có đồng ý hay
không.
Trên đây là một số phân tích sơ bộ về các phương thức giải quyết tranh chấp
giữa các thành viên, giữa các thành viên với Công ty nói chung. Tác giả bài viết sẽ
đi sâu nghiên cứu từng phương thức cụ thể trong Chương II của luận văn này.

15


Chương II: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH
VIÊN, GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN,
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN VỚI CÔNG TY
2.1. Tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty:
Như những phân tích đã nêu tại phần 1.3 ở trên, thì tranh chấp giữa các thành
viên công ty và công ty là một phần trong phân nhóm tranh chấp nội bộ công ty.
Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty là các tranh chấp về
phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường phần vốn góp đó
được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền sở
hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công
ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn

góp vào công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng
với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh toán
các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã
ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.21
Tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty:
Xét trên phương diện kinh tế, phần vốn góp là phần giá trị tài sản của cá
nhân hay tổ chức đã góp vào công ty, góp phần tạo thành vốn điều lệ của công ty.
Khi cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi góp vốn thì tài sản được sử dụng góp
vốn sẽ thuộc về công ty. Về mặt pháp lý thì phần giá trị tài sản đó được chuyển hóa
thành tỉ lệ phần vốn góp mà cá thành viên đã góp vào công ty. Các thành viên góp
vốn là chủ sở hữu của công ty, khi đó cần có sự tính toán rạch ròi về số vốn đã góp
21

Xem nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP về Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những
quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự, điều 6, khoản 5, điểm a

16


×