Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thành phố hạ long, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

NGUYỄN TRUNG THÀNH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ DUNG

HÀ NỘI - NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là công trình nghiên cứu của
tôi. Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng.
Người thực hiện

Nguyễn Trung Thành


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ,
hỗ trợ nhiệt tình của các thày cô giáo Viện Đại học Mở Hà Nội, Trường Đại học
Luật Hà Nội, cơ quan nơi tôi công tác và người thân, gia đình, bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô giáo, tiến sĩ Đỗ Thị Dung - người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn tới các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà
Nội, đặc biệt là các thày giáo, cô giáo Khoa Sau Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chương trình sau đại học và
nghiên cứu, hoàn thành, bảo vệ thành công luận văn.
Tôi xin dành lời cảm ơn tới cơ quan nơi tôi công tác, gia đình, người thân và
tất cả bạn bè - những người luôn ở bên động viên giúp tôi có đủ động lực để hoàn
thành luận văn trong suốt thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 13 tháng 9 năm 2017
Học viên

Nguyễn Trung Thành


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TAI
NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................................................ 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ..................................................................................................................... 7
1.1.1. Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ............................................. 7
1.1.2. Pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ........................... 11
1.2. Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp ................................................................................................. 16
1.2.1. Quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ................................................................................................................... 17
1.2.2. Quy định về điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp18
1.2.3. Quy định về các chế độ hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ................................................................................................................... 20
1.2.4. Quy định về quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ................. 25
1.2.5. Trình tự, thủ tục thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. .................................................................................................................. 26
1.2.6. Quy định về khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp ................................................................................. 28
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TAI NẠN
LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH
QUẢNG NINH..................................................................................................... 32
2.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh........ 32



2.1.1. Khái quát về tổ chức bảo hiểm xã hội thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh ...................................................................................................................... 32
2.1.2. Hoạt động triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm
TNLĐ, BNN trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ....................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh .............................................. 35
2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ....... 35
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh .. 44
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại ................................................................. 48
Kết luận chương 2 ............................................................................................... 52
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH
NGHỀ NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH......... 53
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh .......................................................................................................... 53
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo hiểm tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp....................................................................................... 56
3.3. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ............ 60
Kết luận Chương 3 .............................................................................................. 67
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATLĐ


: An toàn lao động

VSLĐ

: Vệ sinh lao động

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BNN

: Bệnh nghề nghiệp

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

NLĐ
NSDLĐ

: Người lao động
: Người sử dụng lao động

LĐTBXH

: Lao động, thương binh và xã hội

Nxb


: Nhà xuất bản

TNLĐ

: Tai nạn lao động


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm TNLĐ, BNN là chế độ BHXH cơ bản, nhằm bù đắp các chi phí
chữa trị hoặc thay thế thu nhập từ lao động của NLĐ bị giảm hoặc mất do giảm
hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân do TNLĐ,BNN.
Ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN luôn được Đảng và Nhà nước coi
trọng. Với phương châm đảm bảo các điều kiện lao động tốt nhất cho NLĐ, pháp
luật không chỉ quy định trách nhiệm của NSDLĐ trong việc bảo đảm các điều kiện
lao động an toàn, vệ sinh, mà còn quy định NSDLĐ có trách nhiệm đóng bảo hiểm
TNLĐ, BNN cho NLĐ. Theo đó, khi NLĐ gặp rủi ro trong quá trình lao động mà bị
TNLĐ hoặc BNN, thì ngoài các chế độ, quyền lợi theo quy định trong BLLĐ, NLĐ
còn được hưởng các chế độ từ quỹ BHXH.
Trải qua quá trình phát triển, bảo hiểm TNLĐ, BNN ngày càng hoàn thiện.
Hiện nay, bảo hiểm TNLĐ, BNN được quy định cụ thể trong Luật an toàn, vệ sinh
lao động năm 2015 và các văn bản hướng dẫn. Dù mới triển khai thực hiện theo luật
mới từ ngày 01/07/2016, đến nay được hơn một năm, pháp luật về bảo hiểm TNLĐ,
BNN đã dần bộc lộ những điểm chưa phù hợp, như pháp luật vẫn chưa tách hai chế
độ TNLĐ và chế độ BNN, trong khi hai chế độ này có những điểm khác nhau;
quyền lợi hưởng về trợ cấp phục vụ NLĐ vẫn còn thấp, trợ cấp phục vụ NLĐ khi
NLĐ bị thương tật đặc biệt nặng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt ra…
Tại thành phố Hạ Long, địa phương có số lượng doanh nghiệp khá lớn, chủ
yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp khai thác khoáng
sản, điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm... TNLĐ, BNN xảy ra khá

phổ biến, nhất là trong những năm gần đây. Bởi vậy, bảo hiểm TNLĐ, BNN được
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quan tâm. Theo đó, ngành BHXH luôn chú
trọng triển khai công tác bảo hiểm TNLĐ, BNN trên cơ sở quy định của pháp luật.
Song, thực tế đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN vẫn chưa mở rộng; thủ tục
chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chưa đáp ứng được nhu cầu của NLĐ khi rủi
ro phát sinh. Tình trạng các đơn vị sử dụng lao động, nhất là doanh nghiệp nợ

1


BHXH, trong đó có bảo hiểm TNLĐ, BNN xảy ra khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến
nguồn BHXH, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi NLĐ khi bị TNLĐ, BNN.
Để triển khai thực hiện một cách thống nhất, hiệu quả các quy định của pháp
luật về ATLĐ, VSLĐ trên địa bàn thành phố Hạ Long trong thời gian tới, thì việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật, đánh giá những ưu điểm và nhược điểm còn
tồn tại, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN, BNN trên địa bàn là một việc làm cần thiết.
Từ những lý do này, em đã chọn vấn đề: “Pháp luật về bảo hiểm tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” làm
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN là nội dung quan trọng của pháp luật BHXH,
bởi vậy, ở các mức độ khác nhau đã có các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
này. Cụ thể như sau:
Các Giáo trình luật an sinh xã hội của các cơ sở đào tạo luật học, như: Giáo
trình luật an sinh xã hội Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013;
Giáo trình bảo hiểm xã hội của Trường Đại học Lao động - xã hội năm 2011; Giáo
trình bảo đảm xã hội của Khoa Từ xa, Đại học Huế… Sách tham khảo “Pháp luật an
sinh xã hội - những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp năm 2010 của tác giả
Nguyễn Hiền Phương; Sách tham khảo: “Bình luận khoa học những nội dung cơ

bản của Luật bảo hiểm xã hội” do TS Nguyễn Hiền Phương chủ biên, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, năm 2016.
Đề tài khoa học cấp bộ: “Giải pháp xây dựng quỹ bồi thường tai nạn lao động
tại Việt Nam” do Nguyễn Đại Đồng làm chủ nhiệm, Bộ Lao động, thuơng binh và
xã hội năm 1997; Đề tài khoa học cấp Bộ: “Thực trạng và giải pháp về chế độ,
chính sách bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội” do Hà Văn Chi chủ nhiệm, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, năm 2000;
Luận án: “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện
khung pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hiền Phương,

2


Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009; Luận án: “Hoàn thiện hệ thống tổ chức
và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Chính, Trường Đại học kinh tế quốc dân, năm 2010 cũng đề cập đến pháp
luật bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Ngoài ra, một số luận văn tại các cơ sở đào tạo như Trường Đại học Luật
Hà Nội, Viện Đại học Mở Hà Nội cũng đề cập đến vấn đề bảo hiểm TNLĐ, BNN
và pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN. Đó là luận văn: “Chế độ bảo hiểm tai nạn
lao động - Thực trạng và giải pháp” của Vũ Thị La, Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2010; Luận văn: “Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của Phạm Thị Phương Loan, Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2011; Luận văn: “Pháp luật về giải quyết chế độ tai
nạn lao động từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” của Phạm Quang Tuyên, Viện Đại học
Mở Hà Nội năm 2016.
Nhìn chung, ở mức độ nhất định, các công trình khoa học nói trên đã nghiên
cứu một số vấn đề lý luận về BHXH nói chung, bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng,
thực trạng pháp luật bảo hiểm BHTN, BNN và từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện những bất cập trong quy định của pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN. Tuy

nhiên, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của các công trình này là các quy định về bảo
hiểm TNLĐ, BNN theo của Luật bảo hiểm xã hội năm 2006. Bên cạnh đó cũng có
một số luận văn có nghiên cứu quy định về bảo hiểm TNLĐ, BNN trong Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014. Song, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu các
quy định của pháp luật về bảo hiểm tai TNLĐ, BNN theo Luật an toàn, vệ sinh lao
động năm 2015, và đặc biệt nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định này từ thực
tiễn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Vì thế, có thể thấy rằng, tuy là đề tài không mới, nhưng việc nghiên cứu đối
tượng mới gồm quy định của pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN theo Luật an toàn, vệ
sinh lao động năm 2015 mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016 và thực tiễn
thực hiện trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Từ việc nghiên cứu
này, luận văn đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá và đề xuất các giải pháp hoàn thiện

3


quy định của pháp luật và hoàn thiện khâu tổ chức thực hiện pháp luật bảo hiểm
TNLĐ, BNN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh được coi là đề tài không
trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đây.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nhằm nghiên cứu một số vấn đề chung về bảo hiểm
TNLĐ, BNN. Trên cơ sở quan điểm về lý luận được nghiên cứu, luận văn tập trung
phân tích thực trạng pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN theo quy định của Luật an
toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh. Thông qua việc đánh giá những điểm bất cập của pháp luật và thực
tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh, luận văn đề xuất phương hướng hoàn thiện một số quy định về bảo
hiểm TNLĐ, BNN và phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
bảo hiểm TNLĐ, BNN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo hướng phù
hợp với sự phát triển về kinh tế - xã hội của địa bàn trong bối cảnh hiện nay.

Từ mục tiêu trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ chính sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về bảo hiểm TNLĐ,
BNN và pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về bảo hiểm
TNLĐ, BNN ở Việt Nam từ nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chỉ ra
những kết quả đạt được cũng như những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót hoặc chưa
phù hợp cần được hoàn thiện.
Thứ ba, đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm
TNLĐ, BNN và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN tại
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tuợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về
bảo hiểm TNLĐ, BNN và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN
tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

4


- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN, theo đó tập trung
vào các nội dung: đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, các chế độ hưởng, quỹ chi
trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN, thủ tục thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN, khiếu
nại, tố cáo, xử lý vi phạm về bảo hiểm TNLĐ, BNN. Luận văn không nghiên cứu
tranh chấp về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và giải quyết tranh chấp
về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Các số liệu thực tiễn phân tích trong luận văn được lấy từ cơ quan bảo hiểm
xã hội thành phố Hạ Long từ năm 2013 đến 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của học thuyết Mác - Lênin bao gồm
phép biện chứng duy vật, phương pháp luận duy vật lịch sử và chính sách, định
hướng của Đảng, nhà nước về an sinh xã hội nói chung, về bảo hiểm TNLĐ, BNN
nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện luận văn bao
gồm các phương pháp lịch sử, phân tích, chứng minh, so sánh, so sánh luật học, thu
thập thông tin, tổng hợp, dự báo khoa học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
bảo hiểm TNLĐ, BNN, tạo cơ sở cho việc phân tích một cách có hệ thống các nội
dung quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm TNLLĐ, BNN cũng như đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện một số quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp kiến thức cho những NLĐ, NSDLĐ đã,
đang tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN, người đang làm công tác thực tiễn về bảo
hiểm TNLĐ, BNN trong phạm vi cả nước nói chung, tại thành phố Hạ Long nói
riêng. Qua đó, giúp họ thực thi pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN một cách chính
xác, đảm bảo quyền lợi tối đa cho NLĐ khi bị TNLĐ, BNN.

5


Bên cạnh đó, luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với sinh
viên, học viên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN
nói riêng, pháp luật an sinh xã hội nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp và quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.

Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh.

6


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TAI NẠN
LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
1.1.1. Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Trong quá trình tham gia quan hệ lao động, do nhiều nguyên nhân khác nhau
từ điều kiện lao động mà NLĐ có thể gặp phải rủi ro bị TNLĐ hoặc BNN. Tai nạn
lao động là tai nạn xảy ra trong quá trình NLĐ thực hiện các nghĩa vụ lao động , có
thể do nguyên nhân từ công tác an toàn, vệ sinh lao động không được đảm bảo như:
sự cố công nghệ (nổ nồi hơi, bình nén khí, thiếtt bị nâng không đảm bảo…), ý thức
kỷ luật lao động kém, trình độ lao động thấp, tâm lý lao động không ổn định…
Trường hợp NLĐ làm việc trong môi trường, điều kiện lao động có hại (như độ ồn,
độ bụi, độ rung, độ sáng, độ nóng… cao hơn mức cho phép) thì có thể gây nên
BNN cho NLĐ. Điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động dần dần phá
huỷ các bộ phận, chức năng trong cơ thể của NLĐ và sinh ra bệnh.
Khi gặp rủi ro bị TNLĐ, BNN, nhu cầu của con người thay đổi một cách cơ
bản kèm theo là sự tăng lên đáng kể về chi phí chữa trị và đảm bảo đời sống hằng
ngày khi họ không thể đi làm và không có lương. Vì thế, từ rất lâu, các quốc gia

trên thế giới đã đề ra nhiều biện pháp khắc phục tình trạng trên. Một trong những
biện pháp đó chính là bảo hiểm TNLĐ, BNN [27].
Trên thế giới, bảo hiểm TNLĐ, BNN ra đời từ rất sớm. Từ năm 1850, Cộng
hoà Liên bang Đức đã quy định bảo hiểm TNLĐ, BNN trong pháp luật nước mình.
Do những ưu việt của loại bảo hiểm này trong việc bảo đảm đời sống cho NLĐ và
gia đình họ trong thời gian gặp rủi ro, nên sau đó bảo hiểm TNLĐ, BNN đã lan dần
sang các quốc gia khác. Đến nay, bảo hiểm TNLĐ, BNN được hầu hết các quốc gia
trên thế giới ghi nhận.
7


Ở Việt Nam, ngay từ sau khi giành được chính quyền Tháng Tám năm 1945,
Chính phủ lâm thời Việt Nam cộng hoà đã quan tâm đến chính sách BHXH đối với
NLĐ, trong đó có bảo hiểm TNLĐ, BNN. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, quy
định về bảo hiểm TNLĐ, BNN khác nhau. Song điểm chung là đều đưa ra khái
niệm TNLĐ, BNN xuất phát từ sự kiện thực tế của NLĐ khi bị TNLĐ, BNN. Đó là
khi bị TNLĐ, BNN, NLĐ sẽ bị mất hoặc giảm thu nhập từ lao động, mặt khác các
chi phí cho đời sống hằng ngày tăng lên đột xuất, từ đó mà nhu cầu chi sẻ rủi ro của
NLĐ và gia đình họ trong các truờng hợp này trở nên cấp thiết. Trong đó, NSDLĐ,
bên sử dụng sức lao động của NLĐ có trách nhiệm lớn trong vấn đề này và cần thiết
chia sẻ những khó khăn với NLĐ.
Bảo hiểm TNLĐ, BNN có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa rộng, bảo hiểm TNLĐ, BNN là chế độ bảo hiểm nhằm bù đắp
hoặc thay thế thu nhập từ lao động của NLĐ khi bị TNLĐ, BNN mà bị giảm hoặc
mất khả năng lao động. Theo nghĩa này thì bảo hiểm TNLĐ, BNN của NLĐ không
chỉ được đảm bảo từ quỹ bảo hiểm mà còn được đảm bảo từ chính NSDLĐ.
NSDLĐ phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản viện phí, thuốc men và trả
lương cho NLĐ trong suốt thời gian điều trị.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiểm TNLĐ, BNN là một chế độ của BHXH, do quỹ
BHXH chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập từ lao động của NLĐ

khi bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động từ nguyên nhân
bị TNLĐ, BNN [27,165-168]
Cũng như các chế độ BHXH khác, bảo hiểm TNLĐ, BNN do quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN chi trả, không bao gồm các chi phí trực tiếp do NSDLĐ thanh toán.
Tuy nhiên nếu trong trường hợp NSDLĐ chưa đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN cho
NLĐ nếu NLĐ thuộc diện đóng bảo hiểm bắt buộc thì NSDLĐ phải thanh toán các
khoản cho NLĐ theo mức quy định của pháp luật.
Từ khái niệm bảo hiểm TNLĐ, BNN đưa ra, có thể thấy bảo hiểm TNLĐ,
BNN có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chỉ áp dụng đối với
NLĐ bị TNLĐ, BNN phát sinh trong quá trình lao động.

8


Nếu như bảo hiểm y tế áp dụng đối với mọi người dân trong xã hội, thì bảo
hiểm TNLĐ, BNN chỉ áp dụng với NLĐ trong độ tuổi lao động và có xác lập quan
hệ lao động. Bởi lẽ, khi NLĐ làm việc cho NSDLĐ, dưới sự quản lý lao động của
NSDLĐ họ phải thực hiện các nghĩa vụ được giao. Trong quá trình đó, do nguyên
nhân nào đó, họ bị TNLĐ, BNN thì trách nhiệm thuộc về NSDLĐ. Hay nói cách
khác, NSDLĐ là người mua sức lao động của NLĐ đem vào quá trình sản xuất công
tác, NSDLĐ phải có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện lao động an toàn, vệ sinh,
bảo vệ sức khoẻ cho NLĐ. Song, do lý do khách quan hoặc chủ quan phát sinh dẫn
đến NLĐ bị tai nạn làm tổn thưong bất kỳ bộ phạn cơ thể hoặc ảnh hưởng đến chức
năng của nào đó của cơ thể NLĐ hoặc NLĐ bị chết, thì NSDLĐ phải có trách
nhiệm chia sẻ các rủi ro này.
Thứ hai, bảo hiểm TNLĐ, BNN nhằm mục đích đảm bảo đời sống cho NLĐ
và gia đình họ khi bị suy giảm khả năng lao động
Trong quá trình lao động, nếu NLĐ bị TNLĐ, BNN mà dẫn đến suy giảm khả
năng lao động thì kéo theo thu nhập của họ bị giảm sút hoặc bị mất. Bởi vậy, mục

tiêu của bảo hiểm TNLĐ, BNN là nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia đình họ
khi do NLĐ bị TNLĐ, BNN mà phải nghỉ việc, hoặc sau đó khả năng lao động của
họ bị suy giảm. Điều đó lý giải tại sao các chế độ TNLĐ, BNN là các chế độ được trả
bằng tiền, không chỉ giúp NLĐ đảm bảo đời sống, mà trong một số trường hợp họ
còn được trợ cấp để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt khi NLĐ bị mất hoặc suy
giảm bộ phận, chức năng nào đó của cơ thể để họ tham gia sinh hoạt bình thường.
Thứ ba, nguồn quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN do NSDLĐ đảm bảo
Đây là đặc điểm quan trọng của bảo hiểm TNLĐ, BNN. Cũng như các chế độ
BHXH ngắn hạn khác như ốm đau, thai sản… bảo hiểm TNLĐ, BNN hoàn toàn do
NSDLĐ đóng phí. Bởi các sự kiện rủi ro phát sinh gắn liền với thời gian NLĐ đang
tham gia quan hệ lao động, đang đi làm và có lương. Khi NLĐ gặp rủi ro, bị TNLĐ,
BNN thì họ không đi làm được và tất yếu không có thu nhập. Do rủi ro đó gắn liền
với quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, nên ở hầu hết các quốc gia,
nguồn thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN đều do NSDLĐ đóng góp.

9


1.1.1.2. Vai trò của bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Bảo hiểm TNLĐ, BNN có vai trò rất quan trọng trong việc đản bảo đời sống
cho NLĐ tham gia bảo hiểm mà bị TNLĐ, BNN làm suy giảm hoặc mất khả năng
lao động. Khi thu nhập của NLĐ được bảo đảm sẽ là cơ sở quan trọng để bảo đảm
an sinh xã hội và từ đó góp phần phát triển ổn định, bền vững kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Vai trò đối với NLĐ tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN
NLĐ khi bị TNLĐ, BNN sẽ phát sinh nhu cầu được đảm bảo đời sống khi
khả năng lao động bị suy giảm. Tuy nhiên, không phải ai cũng có nguồn tài chính
dư dả để có thể đảm bảo đời sống và thu nhập cho mình cũng như các thành viên
trong gia đình. Vì vậy, nếu NLĐ tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN thì họ sẽ được
quỹ bảo hiểm chi trả trợ cấp bằng tiền để thay thế hoặc bù đắp thu nhập bị mất cũng

như trợ cấp tiền mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt hằng ngày do có bộ phận,
chức năng nào đó bị mất hoặc suy giảm. Ngoài ra, khi người tham gia bảo hiểm
TNLĐ, BNN mà chẳng may bị chết thì thân nhân của họ được thanh toán một
khoản tiền vừa nhằm bù đắp cho thân nhân của NLĐ, vừa bảo đảm công bằng do
NLĐ đã có thời gian tham gia bảo hiểm.
- Vai trò đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Khi NLĐ được bảo đảm đời sống, giảm bớt khó khăn thì họ sẽ yên tâm hơn,
từ đó giúp ổn định xã hội. Ngoài ra, cũng như các chế độ BHXH khác, bảo hiểm
TNLĐ, BNN là sự cụ thể hóa rõ nét nhất quyền con người trong xã hội, là công cụ
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, công bằng xã hội cho mọi thành viên trong
xã hội. Đây là cơ sở pháp lý qua trọng để NLĐ được đảm bảo quyền lợi của mình
đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của cơ quan BHXH, của Nhà nước đối với
NLĐ gặp rủi ro trong quá trình lao động. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, khi
sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng rõ rệt thì người dân (đặc biệt
người nghèo) ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro trong quá
trình lao động. Trong điều kiện đó, bảo hiểm TNLĐ, BNN làm nhiệm vụ điều tiết
của cải, phân phối lại thu nhập xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo
công bằng xã hội.
10


1.1.2. Pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác thuộc chính sách an sinh xã hội, pháp
luật bảo hiểm TNLĐ, BNN phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội của
các quốc gia. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà các quốc gia có
chính sách khác nhau về BHXH nói chung, bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng. Hơn
nữa, do bảo hiểm TNLĐ, BNN do NSDLĐ đóng phí cho NLĐ hưởng khi họ gặp rủi
ro trong quá trình lao động, vì vậy, ở hầu hết các quốc gia, bảo hiểm TNLĐ, BNN
do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia bảo hiểm

TNLĐ, BNN theo quy định của pháp luật.
Do có vai trò hết sức quan trọng đối với người tham gia, đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội và an sinh xã hội của đất nước, nên BHXH nói chung, bảo hiểm
TNLĐ, BNN nói riêng được hầu hết các quốc gia quy định. Theo đó, pháp luật bảo
hiểm TNLĐ, BNN là một bộ phận của pháp luật BHXH, bao gồm các quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp khác nhau. Pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh từ hoạt động bảo hiểm thu nhập cho NLĐ trong quá trình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ lao động nên phải bao quát được hết các khâu từ quy định về đối
tượng tham gia bảo hiểm, quyền lợi hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục
giải quyết chế độ bảo hiểm cho NLĐ tham gia, quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN, khiếu
nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN [27].
Từ đó, có thể hiểu pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN là tổng hợp các quy phạm
pháp luật quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN, điều kiện và
quyền lợi hưởng của người tham gia và các vấn đề khác liên quan nhằm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị TNLĐ, BNN trên cơ sở đóng phí
vào quỹ bảo hiểm.
1.1.2.2. Nguyên tắc bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Nguyên tắc của bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu là các tư tưởng chỉ tạo có
tính chất quán xuyến xuyên suốt các quy phạm pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Cụ thể, bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau đây:

11


- Thứ nhất, nguyên tắc mức đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN được tính trên cơ
sở tiền lương của NLĐ, do NSDLĐ đóng phí.
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở đối tượng của bảo hiểm TNLĐ, BNN là thu
nhập của NLĐ khi đí làm. Nếu thu nhập này bị biến động mà suy giảm hoặc mất do
suy giảm hoặc mất khả năng lao động thì tổ chức BHXH phải chi trả trợ cấp để

thay thế hoặc bù đắp một phần cho NLĐ. Mức thu nhập đựơc bảo hiểm là mức tiền
lương của NLĐ. Tuỳ vào pháp luật của từng quốc gia mà pháp luật quy định mức
tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Khác với các chế độ BHXH khác, trách nhiệm đóng phí vào quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN hoàn toàn do NSDLĐ đóng, mà NLĐ không có trách nhiệm đóng phí
vào quỹ. Quy định này xuất phát từ quyền quản lý lao động và quyền sử dụng sức
lao động của NLĐ, đồng thời cũng là trách nhiệm của NSDLĐ trong việc bảo đảm
các điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh cho NLĐ. Điều này lý giải tại sao ở Việt
Nam trước đây, từ 30/06/2016 trở về trước, bảo hiểm TNLĐ, BNN do Luật BHXH
điều chỉnh, từ 01/07/2016 bảo hiểm TNLĐ, BNN do Luật an toàn, vệ sinh lao động
quy định.
- Thứ hai, nguyên tắc mức hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN được tính trên mức
suy giảm khả năng lao động và thời gian tham gia BHXH.
Nếu như các chế độ BHXH khác như ốm đau, thai sản hoàn toàn dựa vào mức
tièn lương làm căn cứ đóng BHXH, thì đối với chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN lại
hoàn toàn dựa vào mức suy giảm khả năng lao động và thời gian đóng bảo hiểm. Lý
do là xuất phát từ sức lao động của NLĐ. Khi NLĐ bị TNLĐ, BNN, thì khả năng lao
động của họ có thể bị suy giảm hoặc mất. Mức suy giảm này ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng lao động của NLĐ, họ sẽ khó khăn trong việc tìm kiếm và duy trì thu nhập,
bởi vậy sẽ ảnh hưởng đến đời sống của họ và các thành viên trong gia đình. Hầu hết
pháp luật các quốc gia trên thế giới đều xác định mức hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN
dựa trên mức suy giảm khả năng lao động của NLĐ cũng là vì thế.
Ngoài ra, để bảo đảm công bằng giữa những người tham gia bảo hiểm, mức
trợ cấp còn bao gồm cả khoản được tính trên cơ sở thời gian tham gia bảo hiểm.

12


Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc chung của BHXH là có đóng có hưởng và
đảm bảo công bằng giữa những người tham gia bảo hiểm.

- Thứ ba, nguyên tắc quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN là quỹ thành phần của quỹ
BHXH.
Để đạt được mục đích đặt ra của bảo hiểm TNLĐ, BNN, một trong những
vấn đề đặt ra là quản lý và sử dụng nguồn quỹ bảo hiểm. Theo quy định của pháp
luật nhiều quốc gia, trong dó có Việt Nam, thì quỹ BHXH bao gồm các quỹ thành
phần như: quỹ BHXH bắt buộc, quỹ BHXH tự nguyện, quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Trong quỹ BHXH bắt buộc bao gồm các quỹ: quỹ ốm đau và thai sản, quỹ TNLĐ,
BNN, quỹ hưu trí và tử tuất. Các quỹ này đều do BHXH Việt Nam quản lý. Việc
quy định các quỹ thành phần như trên chính là nhằm bảo đảm thuận lợi trong quản
lý thu, quản lý và chi trả chế độ, bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho đối tượng tham gia
BHXH.
1.1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN là nội dung quan trọng của pháp
luật bảo hiểm TNLĐ, BNN. Đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu
là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia đóng phí vào quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN. Những đối tượng này có thể là những đối tượng phải đóng góp phí
bảo hiểm TNLĐ, BNN để bảo hiểm cho NLĐ đang tham gia quan hệ lao động hoặc
cũng có thể là những đối tượng nhà nước quy định, theo đó họ là đối tượng được
chủ thể khác đóng phí cho mình hưởng khi bị TNLĐ, BNN mà suy giảm khả năng
lao động.
Theo quy định của pháp luật các quốc gia trong đó có Việt Nam, thì đối
tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm NSDLĐ và NLĐ.
- Điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN là tập hợp các quy định của pháp
luật làm cơ sở pháp lý để người tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN được hưởng quyền
lợi. Điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN chính là việc NLĐ được NSDLĐ đóng

13



phí vào quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN và sự kiện bảo hiểm chính là rủi ro bị TNLĐ,
BNN có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Khi NLĐ đáp ứng đầu đủ các điều kiện quy định này sẽ được hưởng các
quyền lợi bảo hiểm TNLĐ, BNN. Tuỳ từng trường hợp mà họ có thể được hưởng
nhiều hoặc một số quyền lợi khác nhau.
- Chế độ hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Chế độ, quyền lợi hưởng bảo hiểm TNL:Đ, BNN được hiểu là các khoản trợ cấp
bằng tiền được quỹ BHXH chi trả một lần hoặc hằng tháng tuỳ thuộc mức suy giảm khả
năng lao động và thời gian tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN của NLĐ. Tuỳ từng trường
hợp mà NLĐ có thể được hưởng một hoặc nhiều chế độ TNLĐ, BNN. Ngoài trợ cấp một
lần hoặc hằng tháng thay lương hoặc bù đắp thu nhập cho NLĐ, NLĐ còn có thể được
hưởng các chế độ khác như trợ cấp phục vụ, trợ cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt…
Trường hợp NLĐ bị chết do TNLĐ, BNN thì chế độ, quyền lợi còn chi trả cho thân nhân
của NLĐ.
Có thể thấy rằng, chế độ, quyền lợi bảo hiểm TNLĐ, BNN là một trong những nội
dung quan trọng của pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN, bởi nó đáp ứng nhu cầu của NLĐ
tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN, và đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của NLĐ tham
gia bảo hiểm.
- Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN là quỹ thành phần của quỹ BHXH. Tuỳ thuộc
mỗi quốc gia mà pháp luật quy định nguồn quỹ và sử dụng quỹ khác nhau. Điểm
chung của pháp luật các nước là đều xác định đây là quỹ tài chính được hình thành
từ nguồn đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN của NSDLĐ và các nguồn thu hợp pháp
khác, được sử dụng để chi trả trợ cấp cho NLĐ thuộc đối tuợng tham gia bảo hiểm
TNLĐ, BNN bắt buộc và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan. Cũng như
các quỹ BHXH khác, quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN hình thành dựa trên tính ưu việt
của BHXH thể hiện ở tính xã hội là sự chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm.
Trong nhiều trường hợp, mức hưởng trợ cấp bảo hiểm TNLĐ, BNN không phụ
thuộc vào mức đóng của NSDLĐ vào quỹ bảo hiểm [27].


14


Ngoài ra, quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN còn hình thành từ tiền sinh lời trong
hoạt động đầu tư quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác. Thực tế nhiều quốc gia trong
đó có Việt Nam quy định quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN dựa vào đóng góp của
NSDLĐ. Nguồn tài chính từ sự đóng góp của NSDLĐ tính theo tỉ lệ nhất định. Ở
Việt Nam, quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN là quỹ thành phần của quỹ BHXH nên cũng
như quỹ BHXH nói chung, được hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước và được
nhà nước bảo hộ.
- Thủ tục thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Thủ tục thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu là trình tự thực hiện các
bước, các khâu về hồ sơ, giấy tờ để giải quyết chế độ, quyền lợi cho NLĐ khi NLĐ
đủ điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN theo quy định của pháp luật. Theo đó,
NLĐ tham gia BHXH và được xác định thời gian tham gia trong sổ BHXH. Khi có
rủi ro TNLĐ, BNN, thì NLĐ phải có đầy đủ hồ sơ gửi cơ quan bảo hiểm có thẩm
quyền. Trong khoảng thời gian nhất định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải
quyết chế độ cho NLĐ. Viẹc thực hiện đúng thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN là rất quan trọng, bởi nó không chỉ liên quan đến quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm mà còn liên quan đến vấn đề tài chính của quỹ bảo hiểm. Việc xác định
không đúng cách thức chi trả chế độ, quyền lợi bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người tham gia
bảo hiểm dễ dẫn đến việc thâm hụt quỹ BHXH ảnh hưởng đến nguồn tài chính của quỹ.
- Khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Khiếu nại về bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu là việc NLĐ tham gia bảo
hiểm TNLĐ, BNN hoặc NSDLĐ yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết về bảo
hiểm TNLĐ, BNN xem xét lại quyết định, hành vi của người có thẩm quyền khi có
căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Tố cáo về bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu là việc NLĐ, NSDLĐ tham gia

bảo hiểm TNLĐ, BNN báo cho người có thẩm quyền biết hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm TNLĐ, BNN gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức.
15


Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm TNLĐ, BNN được hiểu
là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế do pháp
luật quy định đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm pháp luật
bảo hiểm TNLĐ, BNN mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Trường hợp đủ dấu hiệu cấu thành
tội phạm thì cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật các quốc gia.
Trường hợp giữa các bên quan hệ bảo hiểm TNLĐ, BNN xâm phạm đến
quyền và lợi ích của nhau về bảo hiểm TNLĐ, BNN thì có thể phát sinh tranh chấp.
Tranh chấp về bảo hiểm TNLĐ, BNN là tranh chấp liên quan đến quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về bảo hiểm TNLĐ,
BNN. Gồm: NLĐ tham gia bảo hiểm, NSDLĐ đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN và tổ
chức BHXH.
Khi tranh chấp về bảo hiểm TNLĐ,. BNN phát sinh, tùy theo pháp luật các
quốc gia mà quy định thẩm quyền giải quyết tranh cấp về bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Mục đích của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật và giải
quyết tranh chấp về bảo hiểm TNLĐ, BNN là nhằm để nhà nước quản lý về BHXH
nói chung, bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng, bảo đảm cho các quy định của pháp
luật được thực thi trên thực tế và bảo vệ quyền lợi cho đối tuợng tham gia bảo hiểm.
1.2. Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
Từ ngày 30/06/2016 trở về trước, bảo hiểm TNLĐ, BNN được quy định trong
Luật bảo hiểm xã hội namư 2014. Song, nhằm để phù hợp với những thay đổi của

đời sống kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, hiện nay bảo hiểm TNLĐ, BNN được
quy định cụ thể trong Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015, từ Điều 41 đến Điều
62 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Để các quy định về bảo hiểm TNLĐ,
BNN của Luật an toàn, vệ sinh lao động đi vào đời sống và phát huy hiệu quả trong
việc bảo vệ NLĐ khi gặp rủi ro trong quá trình lao động, Chính phủ và các cơ quan
có thẩm quyền đã ban hành các văn bản hướng dẫn. Đó là Nghị định số

16


37/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật an toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm TNLĐ, BNN, Ngghị định số
44/2017/NĐ-CP ngày ngày 14/04/2017 quy định mức đóng BHXH bắt buộc vào
quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN, Thông tư số 15/2016/TT-BYT ngày 15/05/2016 quy
định về bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội.
Từ các quy định này, có thể thấy pháp luật bảo hiểm TNLĐ, BNN hiện hành
của Việt Nam bao gồm các nội dung cơ bản sau đây.
1.2.1. Quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
Điều 43 Luật an toàn, vệ sinh lao động quy định cụ thể đối tượng áp dụng chế
độ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Theo đó, đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm TNLĐ,
BNN là NLĐ tham gia BHXH bắt buộc và NSDLĐ theo quy định của Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014. Cụ thể:
- Người lao động tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Người lao động tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN là công dân Việt Nam thuộc
đối tượng tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN, bao gồm: Người làm việc theo hợp
đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp
đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03
tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa NSDLĐ với
người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về

lao động; Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân
công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; Sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối
với quân nhân; Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học
được hưởng sinh hoạt phí; Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành
hợp tác xã có hưởng tiền lương [2].

17


Như vậy, có một số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng
không thuộc đối tượng áp dụng bảo hiểm TNLĐ, BNN như: Cán bộ không
chuyên trách cấp xã/phường/thị trấn; NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài theo hợp đồng. Bởi lẽ NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thì
do luật nước sở tại điều chỉnh và quyền lợi khi NLĐ gặp rủi ro hoàn toàn do
NSDLĐ ở nước ngoài đảm bảo. Còn đối với cán bộ không chuyên trách
xã/phường là do xuất phát từ công việc họ đảm nhiệm (không chuyên trách) nên
pháp luật chưa quy định NLĐ được tham gia chế độ này. Tuy nhiên, ở góc độ
quyền lợi khi NLĐ làm việc, trong thời gian tới, pháp luật cần xem xét áp dụng
đối với họ, nhằm bảo đảm quyền lợi cho NLĐ.
- Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác,
tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.

Trường hợp NLĐ giao kết hợp đồng lao động với nhiều NSDLĐ thì NSDLĐ
phải đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN theo từng hợp đồng lao động đã giao kết nếu
NLĐ thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc. Khi bị TNLĐ, BNN thì NLĐ
được giải quyết chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN theo qinguyên tắc đóng, hưởng do
nhà nước quy định.
1.2.2. Quy định về điều kiện hưởng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Tai nạn lao động khác với bệnh nghề nghiệp. Tai nạn lao động là tai nạn xảy
ra trong quá trình lao động, gây tổn thương hoặc mất một bộ phận hoặc chức năng
nào đó của cơ thể NLĐ hoặc làm cho họ bị chết. Còn BNN là bệnh phát sinh từ điều
kiện lao động có hại (độ ồn, độ rung, nồng độ bụi… quá mức cho phép), làm suy
giảm đến chức năng bộ phận của cơ thể. Từ đó, TNLĐ, BNN làm suy giảm khả
năng lao động của NLĐ. Bởi vậy, điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN được xác
định khác nhau dựa vào đặc trưng riêng của TNLĐ, BNN.
18


×