Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản từ thực tiễn tại tòa án nhân dân thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 114 trang )

NGUYỄN QÚY LINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2015 - 2017

NGUYỄN QUÝ LINH

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

NGUYỄN QUÝ LINH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

Hà Nội - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Tiến sĩ Võ Thanh Lâm - người thầy đã tận tình hướng dẫn và tạo
mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu Luận văn của
mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng cũng như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở cạnh động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của
mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2017
Tác giả


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là Tiến sĩ Võ Thanh Lâm. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác
nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu chưa
được ai công bố trong các công trình khoa học.

Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Quý Linh


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

01

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN

07

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng vay tài sản

07


1.1.1. Khái niệm về hợp đồng vay tài sản

07

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản

10

1.1.3 Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho vay tài sản

14

1.2. Chủ thể, hình thức, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng
vay tài sản

15

1.2.1. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản

15

1.2.1.1. Cá nhân

16

1.2.1.2. Pháp nhân

17

1.2.1.3. Các chủ thể khác


18

1.2.2. Hình thức của hợp đồng vay tài sản

19

1.2.3. Đối tượng của hợp đồng cho vay tài sản

20

1.2.4. Thời hạn của hợp đồng vay tài sản

23

1.2.5. Lãi suất và lãi suất nợ quá hạn của hợp đồng vay tài sản

25

1.2.5.1. Lãi suất

25

1.2.5.2. Lãi suất nợ quá hạn

28

1.3. Khái niệm, phương thức của giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản


30


1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản

30

1.3.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản

32

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

40

Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG

41

2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Hải Phòng

41

2.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại
Tòa án
2.2.1. Trình tự thủ tục quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án
cấp sơ thẩm

2.2.2. Trình tự thủ tục quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án
cấp phúc thẩm
2.2.3. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

44
45
48
50

2.1.3.1. Thủ tục giám đốc thẩm

50

2.2.3.2. Thủ tục tái thẩm

52

2.3. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND thành phố Hải Phòng 5 năm gần đây

52

2.3.1. Những trường hợp công nhận sự thỏa thuận của các bên

52

2.3.2. Những trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án

55


2.3.3. Những trường hợp xét xử

57

2.4. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Hải Phòng và những nguyên
nhân

60

2.4.1. Khó khăn, vướng mắc xuất phát từ các quy định của pháp luật
trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án

60

2.4.1.1. Về chủ thể của hợp đồng vay tài sản

60

2.4.1.2.Về hình thức của hợp đồng vay tài sản

63


2.4.1.3. Về đối tượng của hợp đồng vay tài sản

64

2.4.1.4. Về lãi suất của hợp đồng vay tài sản


69

2.4.2. Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật vào việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản

70

2.4.3. Khó khăn, vướng mắc xuất phát từ cơ cấu tổ chức Tòa án và nguồn
nhân lực
2.4.4. Một số khó khăn, vướng mắc khác

78

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

84

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG

85

3.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp
đồng vay tài sản

85


3.1.1. Đối tượng của hợp đồng của hợp đồng vay tài sản

88

3.1.2. Hình thức của hợp đồng vay tài sản

89

3.1.3. Lãi suất

90

3.1.4. Các quy định pháp luật khác có liên quan về hợp đồng vay tài sản

92

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh
chấp hợp đồng vay tài sản của TAND thành phố Hải Phòng

94

3.2.1. Giải pháp về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án

94

3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân

95


3.2.3. Một số giải pháp khác

96

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

100

KẾT LUẬN

101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102

80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

:Bộ luật tố tụng dân sự

TAND


:Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài
Bảng 2.1

sản được TAND thành phố Hải Phòng thụ lý từ năm 2012

44

đến năm 2016
Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài
Bảng 2.2

sản được TAND thành phố Hải Phòng hòa giải từ năm 2012

55

đến năm 2016
Bảng 2.3


Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài
sản bị TAND thành phố Hải Phòng đình chỉ từ năm 2012 đến

56

năm 2016
Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài
Bảng 2.4 sản được TAND thành phố Hải Phòng xét xử từ năm 2012 đến

59

năm 2016
Thống kê các chủ thể trong vụ án dân sự về tranh chấp hợp
Bảng 2.5

đồng vay tài sản được TAND thành phố Hải Phòng xét xử từ
năm 2012 đến năm 2016

61


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội thường tồn tại trạng thái tạm thời thừa vốn hoặc tạm
thời thiếu vốn ở các cá nhân, tổ chức. Có những bộ phận xã hội có vốn nhàn rỗi,
nhưng lại chưa cần sử dụng vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; có
những bộ phận xã hội khác lại có nhu cầu sử dụng vốn, nhưng không thể tự thoả
mãn được. Chính vì vậy, đã phát sinh yêu cầu điều hoà các nguồn vốn trong xã hội
theo phương thức có hoàn trả.
Quan hệ chuyển giao vốn giữa các chủ thể trong xã hội theo nguyên tắc có

hoàn trả được xác lập chủ yếu thông qua hợp đồng vay tài sản. Đây là phương tiện
pháp lý giúp các chủ thể thoả mãn được nhu cầu về vốn của mình. Đồng thời nó là
công cụ giúp cho những cam kết vay tài sản được thực hiện và tôn trọng, góp phần
thúc đẩy sự lưu thông nguồn vốn trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản - một chế định rất1 quan trọng trong hệ thống pháp luật
của Việt Nam. Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua và đã
có hiệu lực từ 01/01/2017, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá những quy định về
hợp đồng vay tài sản trong BLDS 2015 để đối chiếu thực tiễn áp dụng các quy định
này trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hải Phòng (cụ thể là thực tiễn giải
quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng vay tài sản do các cấp tòa án quận, thành
phố Hải Phòng thụ lý và giải quyết) là cần thiết bởi giai đoạn này đang cập nhật áp
dụng quy định mới của pháp luật mà hợp đồng vay tài sản có vị trí quan trọng trong
đời sống xã hội, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, các giao lưu,
thương mại ngày càng đa dạng. Bên cạnh đó, tác giả cũng mong muốn đề xuất một
số giải pháp góp phần khắc phục hoặc hoàn thiện các chế định pháp luật liên quan
đến giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản nói chung. Do vậy, tác giả lựa
chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản từ thực tiễn tại Tòa án
nhân dân thành phố Hải Phòng"làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sĩ của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hợp đồng vay tài sản là chế định đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm dưới góc độ kinh tế. Dưới góc độ pháp lý, các công trình nghiên cứu về hợp
đồng vay tài sản chưa nhiều, tiêu biểu là các công trình sau:
- “Hợp đồng vay tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ
Luật học, của Bùi Kim Hiếu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007;
- “Hợp đồng vay tài sản theo qui định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận
văn thạc sỹ Luật học, của Nguyễn Hương Lan, Khoa luật Trường Đại học Quốc gia

Hà Nội, năm 2012

- "Một số vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản", của Dương Quốc
Thành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số12/2004;

- "Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài sản", của Nguyễn
Minh Oanh, Tạp chí Luật học, số11/2003;

- "Một số vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài
sản liên quan đến trả lãi và lãi suất", của Trần Văn Biên, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số11/2001;

- "Cách tính lãi suất và lãi suất nợ quá hạn trong hợp đồng vay tài sản", của
Lê Thị Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số6/2001;

- "Hậu quả pháp lý của hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu một phần", của
Thanh Thủy, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao(21/12/2004);

- "Một số ý kiến góp ý cho các quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa
đổi) về hợp đồng vay tài sản", của Trần Văn Biên - Viện Nhà nước và pháp
luật,26/12/2008;

- "Về chế định hợp đồng vay tài sản", của Trần Văn Biên, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số9/2004.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những nghiên cứu ở bình diện chung nhất về

2


hợp đồng vay tài sản dưới dạng một mục hay một chương của một tác phẩm như:


- "Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của luật dân sự", của TS.
Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,2001.

- "Giáo trình Luật Dân sự", tập 2, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân,2006.

- “Có thỏa thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, thỏa thuận lãi chồng lãi
trong hợp đồng vay tài sản ,hợp đồng tín dụng không?”,của Tưởng Duy Lượng,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2013 và số 1/2014;

- “Vướng mắc trong việc giải quyết yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm
thanh toán trong hợp đồng dân sự và thương mại ở Việt Nam”, Nguyễn Thanh
Tùng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2013;

- “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng
và hợp đồng vay tiền”, Đoàn Đức Lương, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2013;
Tuy nhiên, tất cả các công trình, các bài viết trên chủ yếu đề cập đến việc
đánh giá thực trạng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản theo quy định
của BLDS 1995 và BLDS 2005. Nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản theo quy
định của BLDS 2015, về mặt lý luận, thực tiễn và đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản thì đây là đề tài
đầu tiên theo hướng này. Theo đó, Luận văn phân tích các quy định mới của BLDS
2015 liên quan đến hợp đồng vay tài sản, phân tích hiện trạng việc giải quyết tranh
chấp liên quan đến hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
và qua đó đưa ra những bất cập, khó khăn, thử thách trong thực tế so với các quy
định của pháp luật; từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như hoàn
thiện việc thực thi tại tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Qua nghiên cứu
những công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, các tác giả chủ yếu khai thác một
số khía cạnh pháp lý của hợp đồng vay tài sản, chưa có một công trình nào nghiên

cứu một cách hệ thống, đầy đủ trong việc giải quyết hợp đồng vay tài sản trên một

3


địa bàn cụ thể. Việc làm rõ vấn đề giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại
một địa bàn cụ thể cần phải được xác định và nghiên cứu để làm nổi bật những đặc
thù trong quan hệ vay tài sản tại một địa bàn lớn thành phố Hải Phòng là cần thiết.
Vì đây là một trong những thành phố trẻ có nhiều các doanh nghiệp, trung tâm
dịch vụ thương mại lớn, nhiều hộ làm ăn cá thể, tiểu thương phát triển mạnh …
Cùng với sự tăng trưởng về các sản phẩm do lao động, sản xuất kinh doanh,
dịch vụ trên địa bàn quận cũng phát triển, nhu cầu về vốn tăng cao, vì vậy quan hệ
vay tài sản cũng không ngừng gia tăng về số lượng, giá trị cũng như tính phức tạp.
Nhận thức được tính phức tạp của quan hệ vay tài sản nói chung và việc giải quyết
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của TAND tại thành phố cảng nói riêng và cả
nước nói chung nên việc nghiên cứu đề tài này là hết sức quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, nêu lên những điểm mới của chế định
hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm
2005. Qua thực tiễn áp dụng, tôi đã nêu lên những hạn chế, những bất cập trong
quy định. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
về hợp đồng vay tài sản.
Từ mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hợp đồng vay tài sản, làm rõ chức năng chủ
yếu của hợp đồng vay tài sản trong đời sống xã hội;

- Phân tích, so sánh các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản, đánh giá
mức độ hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế định hợp đồng vay tài sản

trong Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Phân tích, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp đồng
vay tài sản trong thực tiễn, đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp
luật và áp dụng thống nhất pháp luật của chế định này.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết tranh
chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu: Quan hệ vay tài sản được điều chỉnh bởi các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: dân sự, thương mại, ngân hàng,
hình sự... Ở đề tài này, tôi chỉ trình bày những vấn đề về hợp đồng vay tài sản thuộc
lĩnh vực kinh doanh thương mại, mà không đi sâu vào hợp đồng vay tài sản thuộc
các lĩnh vực khác.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để có được kết quả trình bày trong luận văn, tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

- Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá trình
hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan trọng và
được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ tranh chấp
về hợp đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này. Các ví dụ liên
quan đến bản án, vụ việc tranh chấp do Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải

quyết được sử dụng để phân tích, tham chiếu trong luận văn được tác giải mã hóa
tên riêng của doanh nghiệp, cá nhân theo ký tự a, b, c… để đảm bảo tính bí mật
thông tin cá nhân.
6. Những nghiên cứu mới của luận văn
Qua quá trình tìm hiểu pháp luật Việt Nam về chế định hợp đồng vay tài sản
bên cạnh đó đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam của chế định hợp đồng
vay tài sản tại Hải Phòng, luận văn có một số điểm mới như sau:

- Luận văn trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề cơ bản

5


về quá trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt
Nam;

- Luận văn phân tích và luận giải được những đặc điểm pháp lý và ý nghĩa
của hợp đồng vay tài sản trong đời sống xã hội;

- Luận văn phân tích các quy định về hợp đồng vay tài sản theo quy định
pháp luật dân sự hiện hành, nêu lên những điểm mới của chế định này so với
những quy định trước đây;

- Luận văn tìm hiểu, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng vay tài sản của TAND Hải Phòng. Qua đó, rút ra những thành
quả đạt được cũng như những khó khăn hiện tại.

- Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về
hợp đồng vay tài sản nói chung trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các quy
định bằng các tranh chấp cụ thể về hợp đồng vay tài sản, cũng như một số vướng

mắc trong thực tiến xét xử tranh chấp về hợp đồng vay tài sản trên địa bàn thành
phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng vay tài sản và giải quyết
tranh chấp vay tài sản
Chương 2: Thực tiễn thực hiện giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp
đồng vay tài sản và nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng vay tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều được tiền tệ hóa. Do vậy,
mỗi chủ thể phải có một nguồn vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và tự chủ
trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu về vốn
cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và sử dụng vốn của
mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Vấn đề đặt ra lúc
này là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện. Hợp đồng vay tài sản ra đời để giải quyết
nhu cầu này. Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn của ngân hàng với
mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân nghèo có thể phát triển được sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, nhân dân vay, mượn tài sản của nhau để tiêu dùng cho những việc
cần thiết trong gia đình hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần

được Nhà nước khuyến khích.
BLDS 2015 định nghĩa "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản"
và "Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai" (Điều 105).
Điều 108 BLDS 2015 đã giải thích rõ khái niệm “tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”. Theo đó:
“1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.
2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:
a) Tài sản chưa hình thành;

7


b) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau
thời điểm xác lập giao dịch”.
Như vậy, BLDS 2015 khẳng định tài sản bao gồm động sản và bất động sản.
Tài sản này có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, từ “vay” được hiểu là “nhận tiền hay
vật gì của người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có
thêm phần lãi” [17, tr.769]. Như vậy, dưới góc độ là quan hệ xã hội, quan hệ vay tài
sản phải có ít nhất hai chủ thể tham gia, được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các
bên, đối tượng của quan hệ là tiền hoặc vật bất kỳ. Về phương diện chủ quan, hợp
đồng vay tài sản là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với
nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
dân sự nhất định.
C.Mác đã nói: “Tự nó, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với
nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng
phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [18, tr.35].
Chính vì quan hệ vay tài sản được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ

thể cho nên yếu tố thỏa thuận thông qua việc bày tỏ và thống nhất ý chí giữa các
bên là nền tảng đầu tiên hình thành nên một quan hệ hợp đồng dân sự. Vì vậy, để
hiểu được bản chất của hợp đồng vay tài sản cần nghiên cứu khái niệm hợp đồng
vay tài sản ở phương diện chủ quan.
Ngay từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản đã trở thành một trong những
hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp đồng. Nó được coi là hợp đồng vay
nợ, theo đó: "Hợp đồng vay nợ là sự thỏa thuận của hai bên, theo đó bên cho vay
chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên vay (tiền, lương thực, thực
phẩm, rượu, bơ sữa…). Bên vay có nghĩa vụ trả vật cùng loại hoặc số tiền đã vay
khi hết hạn hợp đồng" [22]. Theo quy định này thì hợp đồng vay nợ là hợp đồng thực
tế (tức là bên cho vay phải chuyển giao tài sản của mình cho bên vay thì nghĩa vụ

8


mới phát sinh). Luật của Justinian còn quy định: "Các bên trong hợp đồng vay tài
sản cũng không được thỏa thuận về lãi suất theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con" [22].
Dưới chế độ cũ ở miền Nam Việt Nam, trong Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, tại
chương V: nói về khế ước vay mượn, Điều 1156 quy định:
" Có hai loại khế ước vay mượn:
1. Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước mượndùng;
2. Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ ".
Tại Điều 1173, khế ước vay nợ được định nghĩa như sau: "Khế ước vay nợ là
khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ bị tiêu thất
do sự tiêu thụ, người vay khi tới hạn sẽ phải hoàn trả lại đúng số lượng, cùng loại,
cùng hạng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá hay sụt giá".
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định cụ thể tại Điều 463 BLDS 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài
sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản
cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc

pháp luật có quy định."
Xuất phát từ nguyên tắc "tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận" (Điều 3 BLDS
2015) mà khái niệm hợp đồng vay tài sản đã đề cập tới yếu tố thỏa thuận. Thỏa
thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay trong hợp đồng. Hợp
đồng có được thiết lập hay không là do sự thỏa thuận giữa các bên, tức phải có sự
thống nhất ý chí giữa các bên trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định,
bởi vì ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động
của mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đó. Sự thỏa thuận này tất nhiên
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Đặc biệt, các bên chủ
thể khi giao kết hợp đồng phải có sự tự nguyện – tức là phải có sự thống nhất ý chí
và bày tỏ ý chí của từng chủ thể trong hợp đồng. Khi đó, nếu các bên tham gia hợp
đồng không có sự tự nguyện thì hợp đồng sẽ dẫn đến vô hiệu và khi có tranh chấp
9


xảy ra đối với hợp đồng này thì là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tham
gia giải quyết.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
Như đã phân tích khái niệm hợp đồng vay tài sản ở trên, ta thấy hợp đồng vay
tài sản là một dạng của hợp đồng, do vậy bên cạnh những đặc điểm chung của hợp
đồng th́ hợp đồng vay tài sản cũng có những đặc điểm riêng của nó để có thể phân
biệt được loại hợp đồng này với hợp đồng khác; cụ thể:
- Một là, về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản:
Tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng vay tài sản bao gồm hai bên: Bên cho
vay và bên vay. Bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản là các tổ chức, cá nhân có
tài sản hoặc có đủ điều kiện theo luật định đối với những hợp đồng tín dụng. Bên
vay là những cá nhân, tố chức cần đến sự giúp đỡ về vật chất của bên cho vay.
- Hai là, về đối tượng:
Đối tượng của hợp đồng vay có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Nhưng thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Ngoài

ra, trong thực tế, đối tượng của hợp đồng cho vay có thế là vàng, kim khí, đá quý
hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển từ
bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt đối với tài sản
vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên cho vay
tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định.
Ngoài ra, hợp đồng vay tài sản có những đặc điểm pháp lý chung sau đây:
- Thứ nhất, hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng ưng thuận.
Dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng dân sự được phân thành
hai loại: hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. Hợp đồng ưng thuận là những
hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh
ngay sau khi các bên đã thoả thuận xong nội dung cơ bản của hợp đồng; còn hợp
10


đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của nó chỉ phát
sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng.[22,
tr.104-105].
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện cho rằng: "Hợp đồng vay tài sản phát sinh hiệu lực
kể từ thời điểm mà ý chí của các bên giao kết được ghi nhận theo hình thức do luật
quy định (bằng lời nói hoặc bằng văn bản), nếu không có thoả thuận khác hoặc
pháp luật không có quy định khác" [22]. Và "vay tài sản trong Luật dân sự Việt
Nam không phải là một hợp đồng thực tế. Do đó người cho vay có nghĩa vụ giao tài
sản cho người vay và người vay có nghĩa vụ nhận tài sản vay dù Luật không nói rõ"
[22]. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện đã khẳng định hợp đồng vay tài sản là một hợp
đồng ưng thuận và lý giải rằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau
khi thoả thuận giao kết hợp đồng xong [22].
Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể theo
đúng cam kết trong hợp đồng vay tài sản phải được bắt đầu từ khi hợp đồng có hiệu
lực. Theo Điều 401 BLDS 2015 quy định: "Hợp đồng được giao kết hợp pháp có

hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên
quan có quy định khác". Như vậy từ thời điểm hợp đồng giao kết đã phát sinh hiệu
lực của hợp đồng vay tài sản và từ thời điểm này nếu bên cho vay không thực hiện
nghĩa vụ giao tài sản thì bên vay có quyền kiện dưới góc độ là vi phạm nghĩa vụ
được cam kết trong hợp đồng vay tài sản. Do vậy, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng
ưng thuận.
- Thứ hai, hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng đơn vụ vừa là hợp đồng
song vụ.
Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng mà
hợp đồng được chia thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 402 BLDS 2015 thì: "Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà
mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau". Nghĩa là trong quan hệ này mỗi bên đều có
quyền và đồng thời có nghĩa vụ đối với bên còn lại. Còn theo quy định tại khoản 2

11


Điều 402 BLDS 2015 thì: "Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa
vụ". Tức là trong quan hệ này một bên chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ và một
bên có nghĩa vụ mà không có quyền.
Trong quan hệ pháp luật hợp đồng vay tài sản này, một bên chỉ có quyền mà
không có nghĩa vụ, còn bên có nghĩa vụ mà không có quyền. Có ý kiến cho rằng,
nếu dựa vào mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên vay thì
hợp đồng vay là hợp đồng song vụ, quyền của bên vay tương ứng với nghĩa vụ của
bên cho vay và ngược lại, hoặc có thể là đơn vụ khi một bên trong hợp đồng chỉ có
nghĩa vụ mà không có quyền với bên kia. Có những hợp đồng mà thực chất hai bên
đều phải thực hiện cho nhau một lợi ích vật chất nhưng vẫn được coi là hợp đồng
đơn vụ. Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng như thế [22].
Xét về nguyên tắc, hợp đồng vay tài sản là đơn vụ đối với những trường hợp
vay không lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay hoàn trả vật cùng loại

tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản vay. Bên vay không có quyền đối
với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đồng vay có lãi suất thì bên cho vay có
nghĩa vụ chuyển tiền đúng hạn, nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm dân sự.
Như vậy, hợp đồng vay tài sản vừa có thể là hợp đồng đơn vụ vừa có thể là
hợp đồng song vụ.
- Thứ ba, hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng có đền bù hoặc không có
đền bù.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi mà một bên sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng [22]. Đây là một
dạng thường thấy trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi các tổ chức tín
dụng cho vay tiền đều có quy định mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời
điểm, tính chất và đặc điểm của hợp đồng vay tài sản. Hoặc trong trường hợp bên
này cho bên kia vay và có thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ bên vay
không những trả nợ gốc mà còn trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải
phù hợp với quy định của pháp luật.
12


Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù thể hiện trong tất cả
các hợp đồng vay không trả lãi. Khi đến hạn trả nợ, bên vay chỉ có nghĩa vụ hoàn
trả đầy đủ một lượng tài sản cùng loại, cùng giá trị cho bên cho vay, mà không trả
thêm bất kỳ một khoản lợi ích vật chất nào khác, hay một giá trị tài sản nào khác.
Loại hợp đồng này thường xuất phát từ tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các chủ thể có quen biết lẫn nhau như gia đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng …
nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời của đời sống hoặc giúp đỡ nhau phát
triển sản xuất kinh doanh [22].
- Thứ tư, hợp đồng vay tài sản là căn cứ chuyển quyền sở hữu tài sản.
Đây là dấu hiệu để phân biệt hợp đồng vay tài sản với các hợp đồng thông
dụng khác như: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản. Vì trong hai hợp
đồng này, người mượn và người thuê tài sản không trở thành chủ sở hữu tài sản

mượn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đã mượn, thuê trong một
thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi hết hạn, bên mượn, bên thuê phải trả
đúng tài sản đã mượn, thuê cho bên cho mượn, bên cho thuê tài sản [22]. Còn trong
hợp đồng vay tài sản, "bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm
nhận tài sản đó" (Điều 464 BLDS 2015). Bên vay có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay chỉ cần trả cho bên cho vay tài sản
cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng mà không phải trả lại đúng tài sản đã vay.
Khi giao kết hợp đồng vay tài sản thì bên cho vay chuyển giao tài sản đồng
thời chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho bên vay. Tuy nhiên, bên vay chỉ trở
thành chủ sở hữu đối với tài sản vay khi nhận được tài sản vay đó với sự thống nhất
với bên cho vay về một số điều kiện vay. Điều kiện vay có thể là lãi suất, là việc sử
dụng tài sản vay đúng mục đích... và đặc biệt là hoàn trả tài sản vay sau một thời
gian nhất định [22].
Như vậy, hợp đồng vay tài sản là một dạng của hợp đồng, nó mang đầy đủ
những đặc điểm của hợp đồng nói chung và còn có những đặc điểm riêng, đó là tính
ưng thuận, tính đơn vụ hoặc tính đền bù hoặc không đền bù và là hợp đồng chuyển

13


giao quyền sở hữu đối với tài sản. Đây là những đặc điểm riêng biệt giúp ta phân
biệt hợp đồng vay tài sản với những hợp đồng khác.
1.1.3 Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho vay tài sản
Với tư cách là một giao dịch dân sự, hợp đồng vay tài sản muốn có hiệu lực
pháp luật thì phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự .
Căn cứ vào quy định tại Điều 117 của BLDS năm 2015 và các quy định có liên
quan, có thể xác định một hợp đồng vay tài sản có hiệu lực khi có đủ các điều kiện
sau đây:
- Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng xác lập.

Quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015 quy định chặt chẽ hơn điều kiện của
chủ thể đó là: “chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập”.
Năng lực chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải thỏa mãn đầy đủ về độ tuổi và
năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Hành vi giao kết hợp đồng sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên, do vậy để hợp đồng có hiệu lực pháp lý
và có khả năng thực hiện, người giao kết hợp đồng phải có khả năng nhận thức hành
vi giao kết hợp đồng cũng như hậu quả của việc giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân,
tổ chức giao kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền [20].
- Thứ hai, chủ thể tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện.
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ giao kết,
sự thoả thuận giữa các bên phải hoàn toàn tự nguyện, không có bất kỳmột sự ép
buộc nào. Việc thể hiện ý chí của các bên phù hợp với nguyện vọng thực của họ,
hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời không xâm hại đến
những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp
đồng vay tài sản nói riêng phải tuân theo các nguyên tắc: tự do giao kết những
không trái pháp luật và đạo đức xã hội: Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí... Những

14


hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng... là lý do dẫn đến hợp
đồng bị coi là vô hiệu [20].
- Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
Mục đích của hợp đồng là những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi giao kết hợp đồng. Nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản
mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất. Để hợp đồng có hiệu lực và có khả năng
thực hiện, pháp luật quy định mục đích, nội dung của hợp đồng không được trái
pháp luật và đạo đức xã hội.

Trong thực tiễn có những tranh chấp về hợp đồng vay tài sản với lãi suất cao
vượt quá quy định của Nhà nước (lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định), hoặc
có những hợp đồng vay tài sản nhằm mục đích lừa dối hay che dấu một quan hệ
pháp luật khác. Hậu quả pháp lý của hợp đồng không hợp pháp đó là việc Toà án
tuyên bố hủy một phần hoặc toàn bộ hợp đồng vay tài sản giữa các bên đã giao kết
[20].
- Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật.
Tuỳ từng đối tượng, giá trị của tài sản cho vay mà sự thoả thuận thống nhất ý
chí của các bên có thể bằng lời nói, bằng văn bản, văn bản phải được công chứng
hoặc hành vi cụ thể. Hiện nay, hình thức giao kết trong hợp đồng dân sự nói chung,
hợp đồng vay tài sản nói riêng chủ yếu bằng hai hình thức chính, là bằng miệng đối
với những hợp đồng có giá trị tài sản không lớn và bằng văn bản đối với những
hợp đồng có giá trị tài sản tương đối lớn [20].
1.2. Chủ thể, hình thức, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay
tài sản
1.2.1 Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
Chủ thể trong hợp đồng vay tài sản là những cá nhân, tổ chức có đầy đủ năng
lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật [20]. Chủ thể trong

15


quan hệ hợp đồng vay tài sản bao gồm:
1.2.1.1. Cá nhân
Đây là chủ thể phổ biến nhất của các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ
vay tài sản nói riêng, các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ dân sự cũng đều
phải thông qua hành vi của con người cụ thể. Vì vậy, để tham gia vào quan hệ vay
tài sản, cá nhân phải có tư cách chủ thể, tức là năng lực pháp luật và năng lực hành
vi theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Điều 16 BLDS năm 2015:
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân

sự và nghĩa vụ dân sự.
- Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm
dứt khi người đó chết.
Như vậy, năng lực pháp luật của mọi cá nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lý
do gì, mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật. Tuy nhiên, để cá nhân có
tư cách đầy đủ tham gia giao kết dân sự nói chung thì cá nhân phải thỏa mãn điều
kiện về năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 19 BLDS năm 2015. Điều 19
quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, năng lực
hành vi dân sự của mỗi cá nhân là không giống nhau, mỗi cá nhân có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi khác nhau. Pháp luật quy định tiêu chí chung nhất
là độ tuổi để phân biệt năng lực hành vi dân sự của cá nhân ở nhiều mức độ khác
nhau được quy định tại Điều 20 và Điều 21 BLDS. Trong một số trường hợp đặc
biệt chủ thể bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì tuân theo quy định tại Điều 22,
Điều 23 và Điều 24 BLDS.
Như vậy, chủ thể là cá nhân tham gia quan hệ vay tài sản phải thỏa mãn điều
kiện về năng lực hành vi dân sự đầy đủ, khi đó họ có quyền trực tiếp hoặc ủy

16


×